Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kính lạy Giác Linh Thầy (HT Minh Hạnh)

23/06/201506:54(Xem: 8515)
Kính lạy Giác Linh Thầy (HT Minh Hạnh)



HT Thich Minh Hanh (7)

CẢM NIỆM THÂM TÌNH

 

Duyên mãn, Người buông, hướng về Tây

Tứ chúng ngẩn ngơ lệ đong đầy

Người đi, vết tích còn lưu mãi

Thắm đượm ân tình ở nơi đây…

 

 

Kính lạy Giác Linh Thầy !

 

Con thật sự bàng hoàng, ngẩn ngơ khi đang sinh hoạt Phật Pháp nơi miền Bắc xa xôi, giảng dạy Khóa An Cư Kiết Hạ cho đạo tràng Tăng Ni và Khóa Tu Mùa Hè của Thanh Thiếu Niên Phật Tử tại Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên, Vĩnh Phúc, lại hay tin Thầy vừa viên tịch tại quê hương Bình Định. Đêm nay con lại có một đêm khó ngủ, đêm thức để rồi sống với những hoài niệm, với hình bóng và kỷ niệm với Thầy trải suốt 23 năm qua, tất cả cứ như một cuốn phim từng đoạn quay chậm hiện rõ mồn một trong tâm thức của con.

 

Chúng con biết đến Thầy kể từ khi mới xuất gia làm điệu tại Tu Viện Nguyen Thiều Bình Định. Thầy là vị Đại Sư Huynh, là thế hệ tiếp nối giữa quý Ông, quý Ngài với thế hệ chúng con. Ngay những bài học vỡ lòng Phật Pháp đầu tiên tại Nguyên Thiều, cũng là để ôn thi vào Trường Cơ Bản Phật Học Nguyên Thiều, Thầy dạy cho chúng con về Tứ Vô Lượng Tâm qua 4 buổi với nhiều kinh nghiệm cuộc sống, đơn giản, cụ thể, dễ hiểu và ví dụ phân tích rộng rãi. Đó là những bài học rất cần thiết cho sơ tâm xuất gia chúng con để phát Bồ Đề Tâm, phát nên chí nguyện rộng lớn “phát túc siêu phương”.

Có những đêm Thầy lên Chánh Điện Nguyên Thiều để quan sát đại chúng tụng niệm. Khi chúng con lạy “xấp ngửa lổm chổm”, Thầy đến trực tiếp hướng dẫn cách lạy cho đúng tại chỗ. Lúc đó, phàm tánh của con còn nhiều, con tự ái lắm, con nghĩ : nếu có chỉnh sửa thì cũng phải đợi tụng kinh xong, kêu vào phòng chỉ giáo, có đâu mà đến chỉnh ngay tại chánh điện như thế? Nhưng đến bây giờ nghĩ lại con thấu hiểu lòng quan tâm sâu sắc của Thầy đến từng cử chỉ nhỏ trong sinh hoạt tu tập và muốn chúng con ngày một hoàn thiện hơn, trưởng thành nên người.

Cứ mỗi mùa Xuân, con nghỉ học Học Viện Phật Giáo Vạn Hạnh Saigon về quê, Thầy dẫn chúng con đi Lễ Tổ. Con còn nhớ khi Chùa Tổ không có ai đánh chuông để Lễ Tổ, con đánh chuông cho Thầy lại Thầy mỉm cười nhắc bảo : “Chùa của họ, họ không có ai đánh chuông thì thôi, phần của ông thì cứ lạy đi, mắc mớ gì mà ông đánh chuông?” – Thầy vẫn gọi con bằng tiếng “ông” đầy gần gũi và thương mến. Rồi đến khi xếp Y, Áo, con vụng về lắm, xếp không ngay thẳng lại bảo là : “Ở chùa mình có cái giường để con trải áo hậu và xếp lên đó, nơi này không có nên xếp không thẳng”, Thầy lại cười : “ông phải tập xếp dựa vào bản thân ông chứ không dựa vào cái giường. Khi ông đến cúng nhà người ta, họ có một cái giường và đang ngồi tại đó thì ông xếp Y Áo ở đâu?”  Đó, những chi tiết nhỏ nhặt như thế làm sao mà con biết được, cứ mỗi lần ở bên Thầy con học hỏi thêm những điều như thế rất thiết thực cho bản thân con.

Những ngày tháng Thầy đưa Sư Phụ vào bệnh viện Chợ Rẫy để trị bệnh, mỗi đêm con từ Trung Tâm Anh Ngữ đến thăm Sư Phụ và Thầy đi rất xa. Sư Phụ và Thầy rất cảm thông, cho con mang nhiều hộp sữa, bánh và bột về phòng, tiếp thêm tiền chi phí cho con đi học, lại bảo : “Nếu ông đi thăm xa quá thì thôi vậy, tôi lo cho Sư Ông được rồi”.

Mỗi lần con đi du học và phương xa về đều đến thăm Thầy, Thầy tâm sự với con rất nhiều : chuyện các đệ tử xa Thầy ra đi sớm, tình hình sinh hoạt tại Chùa Phước Điền, quan điểm của Thầy đối với từng chú tại Nguyên Thiều, về cách quản lý, duy trì và phát triển Nguyên Thiều. Con lắng nghe Thầy phân giải hàng giờ và cảm nhận được bao nỗi ưu tư, quan tâm, thương yêu, dụng tâm lao khổ, loay hoay góp sức của Thầy trong việc giáo dục, uốn nắn, nâng đỡ thế hệ kế thừa, trong sứ mạng kế thừa và trang bị cho thế hệ tiếp nối, gắn liền với mọi nhịp điệu sinh hoạt và từng bước phát triển của Nguyên Thiều.

Mới năm trước đây thôi, tuy Thầy đã lâm bệnh nhưng vẫn tận tình đến nhà con và làm chủ Sám tiến linh cho hương linh của Cha con trong ngày Chung Thất. Có lẽ sức hơi Thầy cũng bắt đầu yếu cho nên Ban Kinh Sư cố gắng rước hơi giùm. Kể từ đó, sức Thầy ngày một suy giảm thấy rõ. Thời gian còn trẻ khỏe trước kia trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của Đạo Pháp và Dân Tộc, Thầy đã cùng chư Tôn Đức đứng mũi chịu sào, chấp nhận thương đau, quên thân mạng để gìn giữ từng tấc đất luống rau cho Tu Viện, tự viện, còn ngày nay, con được Thầy cho biết là bệnh viện báo Thầy mắc một bệnh nan y và mạng sống chỉ còn tính trong ngày tháng. Thế nhưng Thầy vẫn đi làm Phật sự, đi cúng kiếng và giảng Khóa Tu Bát Quan Trai mỗi khi sức khỏe Thầy cho phép. Có lần Thầy đi về mà lái xe vô bãi đậu xe trong Chùa té ngã. Con vừa thương, vừa kính, vừa lo cho Thầy. Đó là một tấm gương thân giáo gần gũi, sống động : như con tằm trọn kiếp nhả tơ, người tu đem hết những sức lực, hơi thở cuối cùng của đời mình để làm lợi lạc cho nhân sinh, tô bồi cho Đạo Pháp, thế chúng con còn sức khỏe và minh mẫn thì nào dám buông lơi?

Đã có hơn một lần con phát khởi tâm niệm muốn “dừng bước phiêu du” ở bên Thầy một thời gian để làm thị giả, sớm hôm học hỏi, tâm tình. Thế nhưng những lúc đó con thưa nói ngập ngừng không được rõ ràng lắm. Con chỉ gợi ý thoáng xa xa. Thầy có lẽ không muốn ép con vào thế khó vì Thầy biết ý chí của con “tang bồng hồ thỉ” , “du phương hành Đạo” chứ không muốn luẩn quẩn ở một nơi. Quả thật ý chí của con là như thế, hơn nữa con ngập ngừng là tự xét cái “khả năng làm thị giả” của mình xưa nay chưa được huấn luyện bài bản. Phần vì chúng Nguyên Thiều đông có nhiều Sư Đệ nên chia ra mỗi người mỗi việc, phần vì con nghĩ là nên hướng vào “chuyện lớn” như học, luyện công, giảng Pháp, hướng dẫn khóa tu chứ không quan tâm những “chuyện nhỏ” như là : cắm hoa, quét nhà, pha trà, nấu cơm, trang trí,…cho dù trên lý thuyết con vẫn biết rằng : việc nào cũng quan trọng cả, không phải là “ đại sự không màng tiểu tiết”“việc nhỏ mà không xong thì việc lớn sao xong?” – thực ra không có việc gì lớn, việc gì nhỏ, việc nào cũng có ý nghĩa, việc của Đạo Pháp, quan trọng là đặt trọn cái Tâm trong việc làm như thế nào…

Vào hôm huynh đệ Nguyên Thiều họp bàn chọn người vào lo giúp việc Chùa Phước Điền và thị giả cho Thầy con cũng tán thành chọn Sư Đệ Đồng Liên vì Sư Đệ đó rất có tâm và cẩn thận chu đáo. Con vẫn thường an ủi, nhắc nhở Đệ Đồng Liên lo chu toàn bổn phận tại Phước Điền và lo thuốc cháo sớm hôm cho Thầy chu đáo. Con rất an tâm mỗi khi đến thăm và hỏi chuyện, Thầy bày tỏ sự hài lòng về mọi công việc lớn nhỏ trong Chùa mà Đệ Đồng Liên gánh vác vẹn toàn.

Chiều 25/04 vừa qua ( cách nay 10 ngày), duyên sự tại Nhơn Lý xong, con về và mang quà đến thăm Thầy. Không biết linh cảm làm sao, lần này tuy không có Đệ Đồng Liên mở cửa con vẫn mang dĩa quà đến tận phòng của Thầy. Thầy gầy gò yếu hẳn đi nhưng vẫn hỏi thăm các công việc sinh hoạt của con. Vì nhìn thấy hơi sức của Thầy yếu quá con lại cáo lui về để Thầy tịnh dưỡng. Thầy lại nhìn con với ánh mắt tha thiết yêu thương và nói : “Cứ từ từ chơi chứ có sao đâu, tui hơi mệt không nói chuyện nhiều nhưng vẫn nghe được mà, tỉnh mà”. Lúc ấy con thưa Thầy : “Thưa Thầy đến giờ con phải về rồi và để Thầy nghỉ ngơi. Con còn một món quà nữa lần sau con sẽ đến thăm và cúng dường Thầy”

Con đang cất kỹ một món quà, một món dưỡng sức cho Thầy, nâng niu và chờ sau chuyến Hoằng Pháp miền Bắc về là đến thăm Thầy, kính biếu Thầy với tất cả tấm lòng của con. Thế nhưng luật vô thường thật phũ phàng tác động và Thầy đã ra đi rồi, lời hứa đó trở thành câu nói kỷ niệm cuổi cùng đối với Thầy và món quà đó con chỉ còn biết dâng lên cúng trước hương án Giác Linh Thầy!

 

Thầy ơi !

 

Những năm vừa qua, chư Tôn Túc Bình Định đã ra đi nhiều rồi, giờ đến lượt Thầy nữa. Kể từ nay, chúng con biết tìm đâu nữa một hình bóng Đại Sư Huynh, người Thầy thân thương, giản dị, mộc mạc, gần gũi, chân chất, một bậc Đại Sỹ nén những cơn đau nơi thân để thăm hỏi quan tâm chúng con với những hoạt động và chỉ bảo tích cực, kẻ lữ hành cô độc nhiều năm tháng kiên tâm gìn giữ giềng mối Tổ Nghiệp để lại mai sau.

Có thể Thầy không phải là một bậc tài năng lỗi lạc như những vị khác trong thế hệ của Thầy nhưng chúng con không đòi hỏi gì hơn, tâm và tình của Thầy đã cho chúng con thế là quá đủ. Những cái khác chúng con có thể học hỏi nơi khác và tự trau dồi lấy mình. Nhưng những gì Thầy đã cho chúng con là vô giá và chỉ có địa vị tư thế của Thầy, tánh cách đặc biệt của Thầy mới ban cho chúng con được.

Giờ này bao nhiêu hàng Tôn Túc Giáo Phẩm Bình Định đang bùi ngùi tiễn đưa một vị pháp lữ ra đi, chúng Nguyên Thiều đang xót lòng kính tiếc, tứ chúng đang bàng hoàng nuốt lệ nghẹn ngào, hoa cỏ đang héo sầu nhớ Tôn Dung sáng chiểu chăm chút, Thầy ra đi thật sự là một mất mát lớn lao không gì bù đắp được, một vị tu sỹ tận tụy, một vị Thầy thân kính, một vị Sư Huynh đầy quan tâm, trách nhiệm, một tấm lòng sắt son với Đạo với Đời, xứng đáng kế nghiệp chư Tổ chùa Phước Điền và cưu mang giáo dưỡng, ủy thác của Cố Đại Lão Hòa Thượng Tôn Sư Thích thượng Huyền hạ Quang.

Kể từ nay, khi trở về thăm lại nơi xưa, con tìm đâu ra nữa hình ảnh thân thương, người tận tình trà đàm, tâm sự, nhắc nhở từng ly từng tý, với con, đó là một tổn thất, một trống vắng lớn mà chưa biết lấy gì có thể khỏa lấp được. Vẫn biết có  trong cuộc thế này, có đến thì có đi, có sanh thì có diệt, nhịp cầu sanh tử ai cũng bước qua nhưng có một cái gì đó nghèn nghẹn và chưa trọn vẹn đang vây tỏa trong con.

Kính thưa Thầy, cho dù không còn thấy được tôn dung của Thầy nữa, nhưng những lời chỉ giáo, ân tình và kỷ niệm vẫn trở thành nguồn thương và động lực sống mãi trong con. Những lời hứa và những tâm tình với Thầy mà con chưa làm xong, con nguyện làm cho trọn vẹn. Huynh Đệ chúng con dốc sức bên nhau, nguyện “Kế Vãng Khai Lai”, “Truyền Đăng Tục Diệm”, noi gương sáng của Thầy tu sửa và hành Đạo, kế thừa và phát huy giếng mối Đạo Pháp, tông phong tại Tu Viện Nguyên Thiều và Chùa Phước Điền, phụng sự Dân Tộc, chúng sanh, sao cho không cô phụ tình cưu mang giáo dưỡng, dắt dìu công phu của Thầy và hoàn thành sứ mạng của người xuất gia, Như Lai Sứ Giả : tác Như Lai Sứ, hành Như Lai sự, làm tốt Đạo đẹp Đời.

 

Chén trà Bắc đắng lòng hôm nay con dâng cúng Thầy, con đang độc ẩm như đang đối diện với Thầy. Con thành tâm vọng hướng về Kim Quan Thầy tại Chùa Phước Điền đảnh lễ với tâm hương đưa tiễn. Ngày mai đây nhục thân của Thầy được đưa vào trong lòng đất vườn Chùa để hàm dưỡng cho những mầm xanh đang lên. Con thành kính tri ân cơ duyên tao ngộ và thâm ân dìu dắt của Thầy. Cầu Nguyện Giác Linh Thầy cao đăng Phật Quốc, cõi trời Tây Thầy soi thấu chứng giám nỗi lòng và tiếp tục gia bị cho chúng con kế tục công việc của Thầy để lại, đi tiếp hành trình nhân sinh, hướng về bảo sở tịch tĩnh an vui.

 

Nam mô tự Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Tam Thế, Phước Điền Đường Thượng, Húy thượng Đồng hạ Luận, Tự Minh Hạnh Hòa Thượng Giác Linh thùy từ chứng giám.

 

Khể thủ

Con,

Thích Đồng Trí

(Thích Minh Tuệ)

 

Vài hình ảnh về Tang lễ của Cố HT Thích Minh Hạnh

HT Thich Minh Hanh (1)
HT Thich Minh Hanh (5)
HT Thich Minh Hanh (6)HT Thich Minh Hanh (2)HT Thich Minh Hanh (3)HT Thich Minh Hanh (4)HT Thich Minh Hanh (7)HT Thich Minh Hanh (8)HT Thich Minh Hanh (9)HT Thich Minh Hanh (10)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2013(Xem: 14626)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 6767)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 5403)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 4914)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 5317)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 6138)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 5978)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 9426)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 5028)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
22/09/2012(Xem: 5353)
Ni sư Thích Nữ Như Phụng nguyên là viện chủ chùa Long Vân , sinh tiền Ni sư là cố vấn ni chúng chùa Long Vân , làm Hóa chủ trường hạ trong 6 năm , trưởng phòng châm cứu từ thiện của chùa,thành viên mặt trận tổ quốc xã Tam Phước , trưởng bếp cơm từ thiện Bệnh viện đa khoa Long Thành. Suốt cả cuộc đời ni sư tận tụy cho sự nghiệp tu hành và hoằng dương Đạo pháp , một lòng chuyên tâm Niệm Phật A Di Đà , công quả viên mãn Ni sư an nhiên tự tại vãng sanh trong lúc đứng Niệm Phật cùng đại chúng trên Đại hùng bảo điện không gian tràn ngập hương cúng dường thanh tịnh .Sau khi làm lễ trà tì ngài để lại rất nhiều xá lợi minh chứng cho công đức tu hành tinh nghiêm của một vị cao ni.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567