Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kính lạy Giác Linh Thầy (HT Minh Hạnh)

23/06/201506:54(Xem: 8349)
Kính lạy Giác Linh Thầy (HT Minh Hạnh)



HT Thich Minh Hanh (7)

CẢM NIỆM THÂM TÌNH

 

Duyên mãn, Người buông, hướng về Tây

Tứ chúng ngẩn ngơ lệ đong đầy

Người đi, vết tích còn lưu mãi

Thắm đượm ân tình ở nơi đây…

 

 

Kính lạy Giác Linh Thầy !

 

Con thật sự bàng hoàng, ngẩn ngơ khi đang sinh hoạt Phật Pháp nơi miền Bắc xa xôi, giảng dạy Khóa An Cư Kiết Hạ cho đạo tràng Tăng Ni và Khóa Tu Mùa Hè của Thanh Thiếu Niên Phật Tử tại Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên, Vĩnh Phúc, lại hay tin Thầy vừa viên tịch tại quê hương Bình Định. Đêm nay con lại có một đêm khó ngủ, đêm thức để rồi sống với những hoài niệm, với hình bóng và kỷ niệm với Thầy trải suốt 23 năm qua, tất cả cứ như một cuốn phim từng đoạn quay chậm hiện rõ mồn một trong tâm thức của con.

 

Chúng con biết đến Thầy kể từ khi mới xuất gia làm điệu tại Tu Viện Nguyen Thiều Bình Định. Thầy là vị Đại Sư Huynh, là thế hệ tiếp nối giữa quý Ông, quý Ngài với thế hệ chúng con. Ngay những bài học vỡ lòng Phật Pháp đầu tiên tại Nguyên Thiều, cũng là để ôn thi vào Trường Cơ Bản Phật Học Nguyên Thiều, Thầy dạy cho chúng con về Tứ Vô Lượng Tâm qua 4 buổi với nhiều kinh nghiệm cuộc sống, đơn giản, cụ thể, dễ hiểu và ví dụ phân tích rộng rãi. Đó là những bài học rất cần thiết cho sơ tâm xuất gia chúng con để phát Bồ Đề Tâm, phát nên chí nguyện rộng lớn “phát túc siêu phương”.

Có những đêm Thầy lên Chánh Điện Nguyên Thiều để quan sát đại chúng tụng niệm. Khi chúng con lạy “xấp ngửa lổm chổm”, Thầy đến trực tiếp hướng dẫn cách lạy cho đúng tại chỗ. Lúc đó, phàm tánh của con còn nhiều, con tự ái lắm, con nghĩ : nếu có chỉnh sửa thì cũng phải đợi tụng kinh xong, kêu vào phòng chỉ giáo, có đâu mà đến chỉnh ngay tại chánh điện như thế? Nhưng đến bây giờ nghĩ lại con thấu hiểu lòng quan tâm sâu sắc của Thầy đến từng cử chỉ nhỏ trong sinh hoạt tu tập và muốn chúng con ngày một hoàn thiện hơn, trưởng thành nên người.

Cứ mỗi mùa Xuân, con nghỉ học Học Viện Phật Giáo Vạn Hạnh Saigon về quê, Thầy dẫn chúng con đi Lễ Tổ. Con còn nhớ khi Chùa Tổ không có ai đánh chuông để Lễ Tổ, con đánh chuông cho Thầy lại Thầy mỉm cười nhắc bảo : “Chùa của họ, họ không có ai đánh chuông thì thôi, phần của ông thì cứ lạy đi, mắc mớ gì mà ông đánh chuông?” – Thầy vẫn gọi con bằng tiếng “ông” đầy gần gũi và thương mến. Rồi đến khi xếp Y, Áo, con vụng về lắm, xếp không ngay thẳng lại bảo là : “Ở chùa mình có cái giường để con trải áo hậu và xếp lên đó, nơi này không có nên xếp không thẳng”, Thầy lại cười : “ông phải tập xếp dựa vào bản thân ông chứ không dựa vào cái giường. Khi ông đến cúng nhà người ta, họ có một cái giường và đang ngồi tại đó thì ông xếp Y Áo ở đâu?”  Đó, những chi tiết nhỏ nhặt như thế làm sao mà con biết được, cứ mỗi lần ở bên Thầy con học hỏi thêm những điều như thế rất thiết thực cho bản thân con.

Những ngày tháng Thầy đưa Sư Phụ vào bệnh viện Chợ Rẫy để trị bệnh, mỗi đêm con từ Trung Tâm Anh Ngữ đến thăm Sư Phụ và Thầy đi rất xa. Sư Phụ và Thầy rất cảm thông, cho con mang nhiều hộp sữa, bánh và bột về phòng, tiếp thêm tiền chi phí cho con đi học, lại bảo : “Nếu ông đi thăm xa quá thì thôi vậy, tôi lo cho Sư Ông được rồi”.

Mỗi lần con đi du học và phương xa về đều đến thăm Thầy, Thầy tâm sự với con rất nhiều : chuyện các đệ tử xa Thầy ra đi sớm, tình hình sinh hoạt tại Chùa Phước Điền, quan điểm của Thầy đối với từng chú tại Nguyên Thiều, về cách quản lý, duy trì và phát triển Nguyên Thiều. Con lắng nghe Thầy phân giải hàng giờ và cảm nhận được bao nỗi ưu tư, quan tâm, thương yêu, dụng tâm lao khổ, loay hoay góp sức của Thầy trong việc giáo dục, uốn nắn, nâng đỡ thế hệ kế thừa, trong sứ mạng kế thừa và trang bị cho thế hệ tiếp nối, gắn liền với mọi nhịp điệu sinh hoạt và từng bước phát triển của Nguyên Thiều.

Mới năm trước đây thôi, tuy Thầy đã lâm bệnh nhưng vẫn tận tình đến nhà con và làm chủ Sám tiến linh cho hương linh của Cha con trong ngày Chung Thất. Có lẽ sức hơi Thầy cũng bắt đầu yếu cho nên Ban Kinh Sư cố gắng rước hơi giùm. Kể từ đó, sức Thầy ngày một suy giảm thấy rõ. Thời gian còn trẻ khỏe trước kia trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của Đạo Pháp và Dân Tộc, Thầy đã cùng chư Tôn Đức đứng mũi chịu sào, chấp nhận thương đau, quên thân mạng để gìn giữ từng tấc đất luống rau cho Tu Viện, tự viện, còn ngày nay, con được Thầy cho biết là bệnh viện báo Thầy mắc một bệnh nan y và mạng sống chỉ còn tính trong ngày tháng. Thế nhưng Thầy vẫn đi làm Phật sự, đi cúng kiếng và giảng Khóa Tu Bát Quan Trai mỗi khi sức khỏe Thầy cho phép. Có lần Thầy đi về mà lái xe vô bãi đậu xe trong Chùa té ngã. Con vừa thương, vừa kính, vừa lo cho Thầy. Đó là một tấm gương thân giáo gần gũi, sống động : như con tằm trọn kiếp nhả tơ, người tu đem hết những sức lực, hơi thở cuối cùng của đời mình để làm lợi lạc cho nhân sinh, tô bồi cho Đạo Pháp, thế chúng con còn sức khỏe và minh mẫn thì nào dám buông lơi?

Đã có hơn một lần con phát khởi tâm niệm muốn “dừng bước phiêu du” ở bên Thầy một thời gian để làm thị giả, sớm hôm học hỏi, tâm tình. Thế nhưng những lúc đó con thưa nói ngập ngừng không được rõ ràng lắm. Con chỉ gợi ý thoáng xa xa. Thầy có lẽ không muốn ép con vào thế khó vì Thầy biết ý chí của con “tang bồng hồ thỉ” , “du phương hành Đạo” chứ không muốn luẩn quẩn ở một nơi. Quả thật ý chí của con là như thế, hơn nữa con ngập ngừng là tự xét cái “khả năng làm thị giả” của mình xưa nay chưa được huấn luyện bài bản. Phần vì chúng Nguyên Thiều đông có nhiều Sư Đệ nên chia ra mỗi người mỗi việc, phần vì con nghĩ là nên hướng vào “chuyện lớn” như học, luyện công, giảng Pháp, hướng dẫn khóa tu chứ không quan tâm những “chuyện nhỏ” như là : cắm hoa, quét nhà, pha trà, nấu cơm, trang trí,…cho dù trên lý thuyết con vẫn biết rằng : việc nào cũng quan trọng cả, không phải là “ đại sự không màng tiểu tiết”“việc nhỏ mà không xong thì việc lớn sao xong?” – thực ra không có việc gì lớn, việc gì nhỏ, việc nào cũng có ý nghĩa, việc của Đạo Pháp, quan trọng là đặt trọn cái Tâm trong việc làm như thế nào…

Vào hôm huynh đệ Nguyên Thiều họp bàn chọn người vào lo giúp việc Chùa Phước Điền và thị giả cho Thầy con cũng tán thành chọn Sư Đệ Đồng Liên vì Sư Đệ đó rất có tâm và cẩn thận chu đáo. Con vẫn thường an ủi, nhắc nhở Đệ Đồng Liên lo chu toàn bổn phận tại Phước Điền và lo thuốc cháo sớm hôm cho Thầy chu đáo. Con rất an tâm mỗi khi đến thăm và hỏi chuyện, Thầy bày tỏ sự hài lòng về mọi công việc lớn nhỏ trong Chùa mà Đệ Đồng Liên gánh vác vẹn toàn.

Chiều 25/04 vừa qua ( cách nay 10 ngày), duyên sự tại Nhơn Lý xong, con về và mang quà đến thăm Thầy. Không biết linh cảm làm sao, lần này tuy không có Đệ Đồng Liên mở cửa con vẫn mang dĩa quà đến tận phòng của Thầy. Thầy gầy gò yếu hẳn đi nhưng vẫn hỏi thăm các công việc sinh hoạt của con. Vì nhìn thấy hơi sức của Thầy yếu quá con lại cáo lui về để Thầy tịnh dưỡng. Thầy lại nhìn con với ánh mắt tha thiết yêu thương và nói : “Cứ từ từ chơi chứ có sao đâu, tui hơi mệt không nói chuyện nhiều nhưng vẫn nghe được mà, tỉnh mà”. Lúc ấy con thưa Thầy : “Thưa Thầy đến giờ con phải về rồi và để Thầy nghỉ ngơi. Con còn một món quà nữa lần sau con sẽ đến thăm và cúng dường Thầy”

Con đang cất kỹ một món quà, một món dưỡng sức cho Thầy, nâng niu và chờ sau chuyến Hoằng Pháp miền Bắc về là đến thăm Thầy, kính biếu Thầy với tất cả tấm lòng của con. Thế nhưng luật vô thường thật phũ phàng tác động và Thầy đã ra đi rồi, lời hứa đó trở thành câu nói kỷ niệm cuổi cùng đối với Thầy và món quà đó con chỉ còn biết dâng lên cúng trước hương án Giác Linh Thầy!

 

Thầy ơi !

 

Những năm vừa qua, chư Tôn Túc Bình Định đã ra đi nhiều rồi, giờ đến lượt Thầy nữa. Kể từ nay, chúng con biết tìm đâu nữa một hình bóng Đại Sư Huynh, người Thầy thân thương, giản dị, mộc mạc, gần gũi, chân chất, một bậc Đại Sỹ nén những cơn đau nơi thân để thăm hỏi quan tâm chúng con với những hoạt động và chỉ bảo tích cực, kẻ lữ hành cô độc nhiều năm tháng kiên tâm gìn giữ giềng mối Tổ Nghiệp để lại mai sau.

Có thể Thầy không phải là một bậc tài năng lỗi lạc như những vị khác trong thế hệ của Thầy nhưng chúng con không đòi hỏi gì hơn, tâm và tình của Thầy đã cho chúng con thế là quá đủ. Những cái khác chúng con có thể học hỏi nơi khác và tự trau dồi lấy mình. Nhưng những gì Thầy đã cho chúng con là vô giá và chỉ có địa vị tư thế của Thầy, tánh cách đặc biệt của Thầy mới ban cho chúng con được.

Giờ này bao nhiêu hàng Tôn Túc Giáo Phẩm Bình Định đang bùi ngùi tiễn đưa một vị pháp lữ ra đi, chúng Nguyên Thiều đang xót lòng kính tiếc, tứ chúng đang bàng hoàng nuốt lệ nghẹn ngào, hoa cỏ đang héo sầu nhớ Tôn Dung sáng chiểu chăm chút, Thầy ra đi thật sự là một mất mát lớn lao không gì bù đắp được, một vị tu sỹ tận tụy, một vị Thầy thân kính, một vị Sư Huynh đầy quan tâm, trách nhiệm, một tấm lòng sắt son với Đạo với Đời, xứng đáng kế nghiệp chư Tổ chùa Phước Điền và cưu mang giáo dưỡng, ủy thác của Cố Đại Lão Hòa Thượng Tôn Sư Thích thượng Huyền hạ Quang.

Kể từ nay, khi trở về thăm lại nơi xưa, con tìm đâu ra nữa hình ảnh thân thương, người tận tình trà đàm, tâm sự, nhắc nhở từng ly từng tý, với con, đó là một tổn thất, một trống vắng lớn mà chưa biết lấy gì có thể khỏa lấp được. Vẫn biết có  trong cuộc thế này, có đến thì có đi, có sanh thì có diệt, nhịp cầu sanh tử ai cũng bước qua nhưng có một cái gì đó nghèn nghẹn và chưa trọn vẹn đang vây tỏa trong con.

Kính thưa Thầy, cho dù không còn thấy được tôn dung của Thầy nữa, nhưng những lời chỉ giáo, ân tình và kỷ niệm vẫn trở thành nguồn thương và động lực sống mãi trong con. Những lời hứa và những tâm tình với Thầy mà con chưa làm xong, con nguyện làm cho trọn vẹn. Huynh Đệ chúng con dốc sức bên nhau, nguyện “Kế Vãng Khai Lai”, “Truyền Đăng Tục Diệm”, noi gương sáng của Thầy tu sửa và hành Đạo, kế thừa và phát huy giếng mối Đạo Pháp, tông phong tại Tu Viện Nguyên Thiều và Chùa Phước Điền, phụng sự Dân Tộc, chúng sanh, sao cho không cô phụ tình cưu mang giáo dưỡng, dắt dìu công phu của Thầy và hoàn thành sứ mạng của người xuất gia, Như Lai Sứ Giả : tác Như Lai Sứ, hành Như Lai sự, làm tốt Đạo đẹp Đời.

 

Chén trà Bắc đắng lòng hôm nay con dâng cúng Thầy, con đang độc ẩm như đang đối diện với Thầy. Con thành tâm vọng hướng về Kim Quan Thầy tại Chùa Phước Điền đảnh lễ với tâm hương đưa tiễn. Ngày mai đây nhục thân của Thầy được đưa vào trong lòng đất vườn Chùa để hàm dưỡng cho những mầm xanh đang lên. Con thành kính tri ân cơ duyên tao ngộ và thâm ân dìu dắt của Thầy. Cầu Nguyện Giác Linh Thầy cao đăng Phật Quốc, cõi trời Tây Thầy soi thấu chứng giám nỗi lòng và tiếp tục gia bị cho chúng con kế tục công việc của Thầy để lại, đi tiếp hành trình nhân sinh, hướng về bảo sở tịch tĩnh an vui.

 

Nam mô tự Lâm Tế Chánh Tông Tứ Thập Tam Thế, Phước Điền Đường Thượng, Húy thượng Đồng hạ Luận, Tự Minh Hạnh Hòa Thượng Giác Linh thùy từ chứng giám.

 

Khể thủ

Con,

Thích Đồng Trí

(Thích Minh Tuệ)

 

Vài hình ảnh về Tang lễ của Cố HT Thích Minh Hạnh

HT Thich Minh Hanh (1)
HT Thich Minh Hanh (5)
HT Thich Minh Hanh (6)HT Thich Minh Hanh (2)HT Thich Minh Hanh (3)HT Thich Minh Hanh (4)HT Thich Minh Hanh (7)HT Thich Minh Hanh (8)HT Thich Minh Hanh (9)HT Thich Minh Hanh (10)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/05/2012(Xem: 18503)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 5238)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 7231)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 4339)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 17079)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 8160)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 4626)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 5394)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
23/03/2012(Xem: 5056)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
21/03/2012(Xem: 5454)
Hòa Thượng Thích Trí Thủ là vị Thầy của nhiều thế hệ học tăng của các Phật học viện Báo Quốc Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Quảng Hương Già Lam - Sài Gòn. Cuộc đời của Ngài phần nhiều cống hiến cho việc đào tạo tăng tài và sự nghiệp hoằng pháp cho Đạo Phật Việt Nam hơn là những lãnh vực phật sự khác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567