Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tam Tổ Huyền Quang

09/04/201319:56(Xem: 7760)
Tam Tổ Huyền Quang

TAM TỒ HUYỀN QUANG
(1254 - 1334)

Thích Phước Sơn


Sư người làng Vạn Tải, lộ Bắc Giang. Thỉ Tổ của Sư là Lý Ôn Hòa, làm quan Hành khiển dưới triều Lý Thần Tông (1128 - 1138). Trải nhiều đời, đến Tổ phụ là Tuệ Tổ, có công đánh giặc Chiêm Thành, nhưng không không chịu ra làm quan, chỉ thích những chuyện hay, sách lạ, và vui thú ruộng vườn. Mẹ Sư là Lê Thị, vốn người hiền đức, bản tính nhân từ, năm 30 tuổi vẫn chưa có con trai. Nhân gặp lúc có bệnh dịch hoành hành, bà đi hái thuốc trên núi Chu Sơn, dừng chân tạm nghỉ tại một ngôi chùa tên Ma Cô Tiên. Trong khi chợp mắt, bỗng mơ thấy một con khỉ lớn, đầu đội mũ triều thiên, mình mặc áo hoàng bào, ôm mặt trời hồng, ném vào lòng bà. Lê Thị kinh hãi thức giấc, thấy lòng rung động, trở về thuật chuyện lại với một thầy đoán mộng. Thầy ấy đoán rằng Lê Thị sẽ hoài thai và sinh ra quý tử. Sau đó không lâu, Thiền sư Tuệ Nghĩa trụ trì chùa Ngọc Hoàng - thuộc làng Vạn Tải - sau giờ tụng kinh, trở về liêu phòng, tựa án Thiền định, bỗng mơ thấy các tòa trong chùa đèn chong sáng rực, chư Phật tôn nghiêm, Kim cương, Long thần đông đúc la liệt. Đức Phật chỉ Tôn giả A-Nan bảo: "Ngươi hãy tái sinh xuống Đông độ xiển dương Chánh pháp". Bỗng chú tiểu gõ cửa, Tuệ Nghĩa chợt tỉnh, trong lòng lâng lâng hoan hỷ.

Năm ấy Sư ra đời (1254). Khi sanh có ánh sáng mờ ảo, mùi hương thơm nức nhà. Trước đó Lê Thị hoài thai Sư đến 12 tháng mà bụng không chuyển động, bà nghi bị bịnh, nên tìm thuốc uống phá thai, uống đến bốn lần mà thai vẫn không hư. Lúc mới sinh ra, Sư đã là một đứa bé bụ bẫm, rắn chắc, cha mẹ rất yêu quý. Đến tuổi đồng ấu, dung mạo dị thường, có chí khí của bậc siêu phàm trác việt, nghe một biết mười, lại có tài như Nhan Hồi Á thánh, nên được đặt tên là Tải Đạo.

Năm 20 tuổi (1273), Sư trúng tuyển khoa thi Hương, đến năm sau lại đậu thủ khoa tại khoa thi Hội. Vua định gả công chú Liễu Nữ (cháu của An Sinh vương), nhưng Sư từ chối. Khi làm quan, Sư phụng mệnh tiếp sứ giả phương Bắc; trong các văn thư trao đổi, Sư trích dẫn kinh nghĩa rất tinh tường và ứng đối lưu loát như nước chảy. Văn chương và ngôn ngữ hơn cả Trung Quốc và các lân bang. Chính tay Điều Ngự từng phê vào tác phẩm Thích Khoa Giáo của Sư; "Phàm kinh sách đã qua tay Huyền Quang biên soạn và hiệu đính thì không thể thêm hay bớt một chữ nào nữa".

Năm 1305, nhân đi theo Anh Tông (1293 - 1314) đến chùa Vĩnh Nghiêm, thấy Quốc sư Pháp Loa (1284 - 1330) đang hành đạo, lòng sinh ngưỡng mộ, nhớ lại duyên xưa, liền cảm thán: "Làm quan lên Bồng Đảo, đắc đạo đến Phổ Đà, trên cõi nhân gian là tiên, cảnh giới Tây phương là Phật. Phú quý vinh hoa nào khác mây trắng mùa hạ, lá vàng mùa thu, có lâu dài chi mà lưu luyến mãi !". Nhân đó, dâng biểu từ quan, đến chùa Vũ Ninh xuất gia, thọ giới với Bảo Phác (*). Sau đó, Sư phụng mệnh đến trụ trì chùa Vân Yên núi Yên Tử, mở trường dạy học. Tăng, Ni theo học đông đến số nghìn Điều Ngự lại sai Sư biên soạn Chư Phẩm Kinh và các sách khác.

Nghĩ đến công ơn sinh thành dưỡng dục sâu dày của cha mẹ mà chưa có dịp báo đáp, Sư trở về làng lập một ngôi chùa đặt tên là Đại Bi, rước cha mẹ về nghỉ ở đây để an dưỡng tuổi già. Xong việc, Sư trở về chùa ngay tiếp tục công việc hành đạo.

NỖI OAN THỊ BÍCH

Tương truyền một hôm vua nói với các quan: "Người ta sinh ra trong khoảng trời đất này, chịu sự chi phối của âm dương, thích ăn ngon, ưa mặc đẹp, lòng ham muốn ấy bọn chúng ta đều đủ cả. Có lẽ chỉ một mình thầy Huyền Quang là không như thế chăng ? Từ khi sinh đến giờ vẫn sắc sắc không không, như nước không sóng, như gương không bụi, phải chăng do thầy đè nén lòng dục hay là không có dục vọng ?". Bỗng nhiên quan văn nhất sinh học sĩ, lưỡng quốc Trạng nguyên là Mạc Đỉnh Chi ứng tiếng:

- "Vẽ cọp, vẽ da, xương khó vẽ,

Biết người, biết mặt, biết đâu lòng".

(Họa hổ, họa bì, nan họa cốt,

Tri nhân, tri diện, bất tri tâm),

xin hãy thí nghiệm rồi sẽ rõ.

Vua cho là phải, liền ngầm sai người cung nữ tên Điểm Bích, hiệu Tam Nương, tuổi dưới hai mươi có nhan sắc kiều diễm lại có tài ứng đối lanh lợi, đến chùa Vân Yên thử thách Thiền sư.

Trước lúc ra đi, vua căn dặn Điểm Bích: "Vị Tăng ấy vốn không ưa sắc dục, tính tình lại cương trực, giới hạnh rất cao nghiêm. Ngươi vừa có nhan sắc, vừa có tài ăn nói, lại thông hiểu sử kinh, vậy hãy đến thử vị ấy. Nếu thấy Thầy còn quyến luyến tình dục hãy dụ lấy cho được Kim tử mang về làm bằng chứng, sẽ được trọng thưởng. Nếu man trá thì bị tội, người phải cẩn thận".

Thị Bích vâng lệnh, đem theo một tỳ nữ, đến thẳng chùa Vân Yên, gặp một Ni sư già, nhờ bà tiến dẫn tới Quốc sư, để xin xuất gia học đạo. Ni sư già sai Thị Bích hằng ngày dâng trà nước lên Sư. Sư thấy Thị Bích có cử chỉ nguyệt hoa, không phải là người Phật tử chân chính cầu đạo, bèn gọi Ni sư lên quở. Thị Bích thấy Thiền sư giới hạnh uy nghiêm, khó dùng sắc đẹp chinh phục, liền nảy sinh một kế: Đêm ấy Bích nói với vị Ni sư rằng mình là con nhà thi lễ khoa bảng, vì cha thâu thuế xong bị kẻ cướp cướp mất, không lấy gì để nạp cho triều đình. Đến kỳ hạn mà không chạy đủ số tiền thì không những ông bị tội mà cả vợ con cũng sẽ liên lụy. Ni sư già đem câu chuyện ấy thuật lại với đại chúng, ai cũng thương tình. Quốc sư định về triều điều trần xin tội cho cha Thị Bích. Nhưng có một chú tiểu nói: "Pháp luật là việc công của thiên hạ, để mất của công thì phải chịu tội, chúng ta không vì tình riêng mà can thiệp. Như vậy thì Pháp luật còn cò nghĩa gì, tốt hơn là nên quyên tiền giúp họ mà thôi". Huyền Quang cho là phải, liền lấy Kim tử vua ban, đưa cho Thị Bích. Tăng, Ni ai có tiền cũng đều đem cho.

Bích được Kim tử, trở về cung bàn bịa chuyện như sau cho vua nghe:

- Thiếp đến chùa Vân Yên, giả làm người xuất gia, vị Ni sư già cho thiếp bưng trà nước hầu Sư. Trải hơn một tháng mà Sư chưa từng nhìn hỏi đến thiếp. Một hôm kia Sư lên chánh điện tụng kinh, rồi cùng đại chúng lui về phòng an nghỉ. Đến canh ba, thiếp lẻn tới Thiền thất để nghe động tĩnh, bỗng nghe Sư ngâm kệ như sau:

"Vằng vặc trăng mai ánh nước,

Hiu hiu gió trúc ngâm sênh.

Người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ,

Mâu Thích-ca nào thử hữu tình".

Sư ngâm đi ngâm lại tới ba lần. Thiếp mới vào phòng từ biệt Sư, hẹn năm tới sẽ trở lên xin học đạo. Sư lưu thiếp lại một đêm tặng thiếp Kim tử.

Vua nghe nói, lòng bồi hồi không vua, than rằng: "Việc này nếu quả có thực thì chính ta là người giăng lưới bắt chim; còn nếu như không, thì cũng khó tránh khỏi mối ngờ (ngồi xỏ giày nơi đám ruộng dưa)". Vua liền mở đại hội Vô Già, trên bàn cúng bày biện đủ loại, cà-sa, pháp y, ngũ phẩm, lẫn lộn với đồi mồi, vàng bạc, châu ngọc v.v… rồi sai người thỉnh Huyền Quang đến chủ lễ. Chứng kiến cảnh tượng ấy, Huyền Quang biết mình bị nghi oan, liền ngửa mặt lên trời thở một hơi dài, rồi lên đàn ba lượt, xuống đàn ba lượt, vọng bái Thánh Hiền mười phương, tay trái cầm bình bạch ngọc, tay phải cầm nhánh dương xanh, mặc niệm thần chú, tẩy tịnh khắp trên dưới pháp điện. Bỗng thấy một đám mây đen hiện lên, bụi bay đầy trời mù mịt. Một lát bầu trời quang tạnh, mọi thứ tạp vật trên pháp điện đều bị cuốn bay đi hết, chỉ còn hương hoa và lục cúng. Những người xem hội ai nấy đều thất sắc kinh hoàng. Vua thấy pháp hạnh của Sư thấu cả trời đất, liền rời chỗ ngồi lạy xuống để tạ lỗi. Rồi phạt Thị Bích bắt quét tước một ngôi chùa trong cung Cảnh Hưng. Từ đó vua càng thêm tôn kính, gọi Sư là Tự Pháp.

Sau đó Sư đến ở Thanh Mai sáu năm, rồi về trụ trì chùa Tư Phúc ở Côn Sơn, lập ra đài Cửu Phẩm Liên Hoa, và soạn lại Chư Phẩm Kinh để lưu truyền hậu thế.

Sư viên tịch ngày 23 tháng giêng năm Giáp tuất (1334) tại Côn Sơn, đến ngày 24 tin tức mới về làng Vạn Tải, nên dân làng lấy ngày này làm ngày giỗ Sư. Vua Minh Tông cúng dường vật liệu, bảo môn đồ xây tháp cho Sư ở phía sau chùa, và ban thụy hiệu là Trúc Lâm Đệ Tam Đại Tự Pháp Huyền Quang Tôn Giả.

Tác phẩm của Huyền Quang gồm có:

1. Chư Phẩm Kinh: Tuyển tập những phẩm kinh thiết yếu.

2. Công Văn Tập: Tuyển tập những văn sớ điệp dùng trong các nghi lễ Phật giáo.

3. Thích Khoa Giáo: Tập sách giáo khoa về Phật học.

4. Ngọc Tiên Tập: Tập thơ tuyển.

Những tác phẩm trên hiện nay đều đã thất lạc, chỉ còn lại 24 bài thơ và một bài phú Nôm là Vịnh Vân Yên tự phú.

_____________________

(*)Bản Hạnh Ngữ Lục nói Sư thọ giáo với Pháp Loa là nhầm.

-- o0o --

| Mục lục tác gia|


Vi tính : Hải Hạnh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/11/2016(Xem: 10342)
Khoảng 22h55 tối 4/11, đại thụ của làng cải lương qua đời tại nhà riêng ở TP HCM sau thời gian điều trị bệnh nan y, hưởng thọ 81 tuổi.
24/10/2016(Xem: 12845)
Tôi có người đệ tử, đi nước ngoài về tặng cho tôi một bức thư pháp có chữ Smile (mỉm cười) của Thiền Sư Nhất Hạnh. Chữ viết bằng bút lông , mực tàu trên giấy dó. Tôi rất trân quý bức thư pháp này, trong ngày luôn nhìn chữ Smile, để tập cười, tập nuôi dưỡng chánh niệm (bởi vì tôi cũng rất khó cười). Thiền Sư Nhất Hạnh, tên thật là Nguyễn Xuân Bảo
22/10/2016(Xem: 7231)
Tuần lễ vừa qua, tuần lễ bi thương, tang tóc khổ đau, miền Trung các Tỉnh, của quê hương Mẹ. Nước lũ dâng cao, dân không tránh kịp, nước ngập mái nhà, hoa màu tan tác, gia súc thương vong, mạng người đói rét. Ai đã từng sanh ra và lớn lên của các Tỉnh miền Trung, đều đã trải qua những cơ cực lầm than vì cuộc sống. Thiên nhiên không ưu đãi, đất đai nứt nẻ bởi mùa hè nóng bứt, ngập nước bởi những tháng lũ mưa dầm giá rét. Hằng năm phải hứng chịu cảnh lũ lụt ngập nước. Nhưng năm nay, nước lũ dâng cao quá đặc biệt, gọi là vượt kỷ lục trong lịch sử lũ lụt miền Trung. Vừa qua lại phải chịu đựng chống chọi với sự ô nhiểm của biển từ hãng thép Formosa, giờ đây lại gánh chịu nạn lũ lụt bi thương.
04/10/2016(Xem: 17252)
Trong Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư Ngày Về Nguồn lần thứ 9 ngày 11/8/2015 tại Chùa Khánh Anh, Pháp Quốc, Đại Tăng từ 4 châu lục đã yết ma thành tựu giao phó việc tổ chức Ngày Về Nguồn Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư lần thứ 10 cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Canada. Thừa lệnh Đại Tăng và được sự bảo trợ của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Canada và Cộng Đồng Tăng Già tại Canada, nên chúng con mạnh dạng thừa đương việc tổ chức Phật sự thù thắng này tại Tu Viện Phổ Đà Sơn, 11 Chemin Katimavik, Val-Des-Monts Quebec, J8N 5E1, Canada, trong các ngày 6, 7, 8, 9 tháng 10 năm 2016.
22/09/2016(Xem: 7675)
Tiếng chuông đại hồng sớm hôm ngân nga đồng vọng giữa núi rừng trùng điệp Bà Nà kia , thức tỉnh du khách nhoài người thức dậy trong sương sớm trên núi cao, ngồi bên tách trà nhìn về Đà Nẵng, nhìn bằng Tâm để thấy rằng con người bé nhỏ li ti như những con kiến kia đang lăng xăng hoạt động trong cõi đời này, dưới phố thị lao xao, để làm gì ? Và khi chết rồi sẽ đi về đâu ? Những nghi vấn bức thiết như thế nếu có được, cũng là từ âm thanh đồng vọng xa xăm trong nỗi nhớ của chiếc xe Hon Đa một thời leo núi, một thời dấn thân cho đời cho đạo, để cho thế đạo vững vàng không chênh vênh khúc khuỷu như nếp gấp của con đường leo núi Bà Nà.
06/09/2016(Xem: 8054)
Cố Ni Sư Pháp danh Như Ngọc, húy Nhựt Thạch, tự Diệu Ngọc, hiệu Giáo Ngôn. Thế danh Trần Thị Thạch, sanh năm Kỷ Dậu 1909, tại ấp Long Bình, làng Long Đức, tổng Trà Nhiêu, tỉnh Trà Vinh. Thân phụ là cụ ông Trần Văn Giác (1888 - 1945), Pháp danh Như Ý, tự Mật Tri. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Như (1889 - 1971), Pháp danh Sương Lực, tự Chơn Tâm.
01/09/2016(Xem: 8078)
HT Thích Như Điển giới thiệu Đức Trưởng Lão HT Như Huệ tại Chùa Bảo Quang, Hamburg, Germany, tháng 7-2015
30/07/2016(Xem: 16170)
Đại Trưởng lão Bửu Chơn, một bậc cao tăng, đạo cao đức trọng của Phật giáo Nguyên Thủy, ngài có hơn 10 năm tu hạnh đầu đà ở núi rừng Campuchia. Trở về Việt Nam, ngài là người tu học khá sớm ở Tổ đình Bửu Quang vào khoảng thập niên 40. Ngài là thành viên sáng lập Giáo hội Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam và Tăng thống nhiệm kỳ Ban Chưởng quản lâm thời vào năm 1957
21/07/2016(Xem: 8940)
Bốn Giáo Hội hải ngoại, Ngài là bậc niên cao nhất Tăng Ni Việt Nam hải ngoại, Ngài là bậc Lạp trưởng nhất Sinh năm 1928 tại Cần Thơ, Nam Việt Hiện trụ 2016 tại Ca-li, Hoa Kỳ 18 tuổi thọ Phương trượng Sa Di 25 tuổi thọ Tỳ kheo cụ túc Đã hoàn tấc Cao đẳng Phật học Lại tốt nghiệp Cử Nhân Văn Khoa Hai chương trình kết lá đơm hoa Biển trí tuệ sóng triều duy thức Chỉ ngần ấy, Ngài xứng đáng đi trước
30/06/2016(Xem: 5400)
Hòa Thượng thế danh là Phạm Kim Huệ, sinh năm Giáp Tuất, ngày 02-4-1934 tại làng Cẩm Phô, quận Điện Bàn (nay là thành phố Hội An), tỉnh Quảng Nam, Việt Nam.ISBN: 978-0-9945548-4-0 , ISBN: 978-0-9945548-4-0 , ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 ,ISBN: 978-0-9945548-4-0 Thân phụ của Hòa Thượng là Cụ Ông Phạm Kim Cái pháp danh Như Thế, và Thân mẫu là Cụ Bà Nguyễn thị Di pháp danh Như Kim, đều làm nghề Đông y. Hòa Thượng là con thứ sáu trong gia đình gồm sáu anh chị em. Sinh trưởng trong một gia đình nho học, thâm tín Phật giáo, nên lúc tám tuổi Ngài được gia đình cho vào chùa học đạo.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]