Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Thiện Châu

09/04/201319:55(Xem: 5538)
Hòa Thượng Thích Thiện Châu

htthichthienchau

Hòa thượng Thích Thiện Châu

Nguyên Đạo

(Đọc tại buổi lễ tưởng niệm và lễ Trà Tỳ Hòa thượng Thích Thiện Châu)


Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần.

Thầy xuất gia năm 16 tuổi (1947) và thọ giới tỳ kheo năm 1952. Bổn sư của Thầy là Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nguyên, Viện chủ Tổ Đình Tây Thiên (Huế).

Từ năm 1948 đến năm 1958, Thầy theo học tại trường Phật học Báo Quốc. Ra trường năm 1958, với một căn bản Phật học và Hán Văn vững chắc, một tinh thần năng nổ hết lòng vì Đạo, Thầy trở thành giảng sư xuất sắc và trẻ nhất vào thời đó, thuyết giảng tại các tỉnh miền Trung: Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Phan Thiết, Nha Trang, Ban Mê Thuột... và cuối cùng là Sài Gòn, trước khi lên đường du học sang Ấn Độ vào năm 1961.

Tại Ấn Độ, Thầy đã đậu bằng Cử nhân Pâli (Pàlyacharya) và Cử nhân Anh Văn (năm 1965).

Năm 1966 Thầy qua Anh theo học tại Học viện Đông Phương và Phi Châu (School of Oriental and African Studies).

Đến năm 1967 Thầy qua Pháp, thể theo lời mời của Phật tử Việt Nam tại đây, đang cần người hướng dẫn tu học.

Năm 1971, Thầy đậu bằng Tiến Sĩ Triết Học (Docteur 3e cycle-Sorbonne).

Năm 1972, Thầy trở thành Nghiên Cứu Viên của Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa Học Quốc Gia Pháp (CNRS).

Năm 1978, Thầy đậu bằng Tiến Sĩ Quốc Gia Văn Học và Khoa Học Nhân Văn (Docteur d'Etat ès lettres et sciences humaines), tức là bằng cao nhất có thể đạt được trong môn này.

Song song với học chữ, Thầy còn hướng dẫn tu học cho Phật tử Việt kiều tại Pháp và Tây Đức, và tham gia tích cực vào Phong Trào đòi Hòa Bình của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ.

Ngay từ năm 1966, tuy ở tại Anh Quốc Thầy vẫn thường qua Pháp hướng dẫn tu học cho Phong trào Việt kiều Phật tử tại đây, mà nòng cốt là Đoàn Sinh Viên Phật tử, đang gặp khó khăn trầm trọng về tổ chức. Đến năm 1967 thì Thầy ở lại hẳn bên Pháp. Dưới sự hướng dẫn tinh thần của Thầy, Đoàn Sinh Viên Phật Tử đã được củng cố lại và vào những năm 68, 69, trở thành một trong những tổ chức vững mạnh nhất của Việt kiều tại Pháp vào thời bấy giờ, với tờ báo Gió Nội. Cùng khoảng thời gian đó, Đoàn Sinh Viên Phật Tử Việt Nam tại Tây Đức được thành lập. Hai Đoàn kết hợp lại thành Liên Đoàn Sinh Viên Phật Tử Việt Nam tại Âu Châu (1-7-1970), hàng năm đều tổ chức trại sinh viên, hè tại Pháp đông tại Tây Đức. Thầy luôn luôn có mặt tại các trại, hướng dẫn tu thiền và giảng dạy giáo lý cho các trại sinh.

Hội Phật Tử Việt Kiều Hải Ngoại, Chi Bộ Pháp, do Thầy trực tiếp lãnh đạo với tư cách là chủ tịch Hội bao gồm Đoàn Sinh Viên Phật tử và nhiều phân hội khác, quy tụ công nhân, trí thức, thương gia... Song song với tờ báo Gió Nội, đo doàn Sinh Viên Phật Tử VN tại Pháp đảm trách, bám chặt thời cuộc, và cũng là phương tiện đấu tranh cho Hòa Bình tại Việt Nam, Thầy còn cho ra thêm tờ Tin Phật (1968), nhắm các giới trung và cao niên, và thiên nặng về giáo lý phổ thông hơn. Bên Đức có tờ Đi Tới do Đoàn Sinh Viên Phật Tử Việt Nam Tại Tây Đức chủ trương, sau đó được thay thế bằng tờ Biển Đông, cả hai đều nhận sự chỉ đạo của Thầy.

Về Phật sự, thời đó chưa có chùa. Các buổi lễ Phật được tổ chức tại các phòng công cộng, thuê hoặc mượn. Vào đầu thập niên 70, các buổi Lễ Tết quy tụ hàng ngàn người.

Nghi thức tụng niệm hoàn toàn bằng tiếng Việt, chỉ có phần "Tam quy, ngũ giới" thì bằng chữ Pali, có dịch chữ Việt, vì thuở đó, trong các buổi lễ có rất nhiều phật tử Pháp hay người nước khác. Khi đông người ngoại quốc thì đọc Tam Quy Ngũ Giới bằng Pali, còn thông thường đọc bằng chữ Việt.

Vào năm 1975, các Đoàn Sinh Viên Phật tử tại Pháp và Đức giải thể, Đoàn viên phân tán đi mọi nơi. Cùng một số người cũ, Thầy thành lập Hội Phật tử Việt Nam tại Pháp, và ra tờ báo Hương Sen (1975). Đầu năm 1977, Thầy cùng với Ni Sư Mạn Đà La khởi công quyên góp xây Trúc Lâm Thiền Viện với ý nguyện xây dựng "một ngôi chùa Việt Nam trên đất Pháp", thực sự Việt Nam. Sau đó Thầy Phước Đường, đang trụ trì một chùa ở Nha Trang, được mời qua tiếp sức. Năm 1980, Trúc Lâm Thiền Viện được khởi công xây, và đến năm 1990 làm lễ khánh thành. Trong khoảng thời gian này, Thầy thường đi thuyết giảng và dạy Thiền tại một số trường Đại Học hay trường cao đẳng ở các nước Pháp, Tây Đức, Thụy Sĩ, các Trung tâm tôn giáo quốc tế, Tin Lành hay Gia Tô Giáo...

Từ năm 1995 đến năm 1998, Thầy tổ chức nhiều buổi hội thảo, với mục tiêu vận dụng giáo lý Phật để tìm câu trả lời cho những vấn đề lớn của thời đại như: Sinh Đạo Đức, Môi Sinh, vị trí của nữ giới, vai trò của người cư sĩ, Thiền định với cuộc sống hôm nay, Sống thời đại theo tinh thần Đức Phật ... Những buổi hội thảo này quy tụ rất nhiều trí thức Việt kiều đang sinh sống tại các nước phương tây, như Pháp, Đức, Mỹ... với sự tham gia của nhiều vị Tôn Đức từ trong nước qua như Hòa Thượng Thích Minh Châu, Hòa Thượng Thích Trí Quảng, Thượng Tọa Thích Chơn Thiện, nhiều Cư sĩ kỳ cựu của Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo như Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm...

Thầy cũng thường về nước tham dự công việc Hoằng Pháp Lợi Sinh của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, và đã giữ những trách nhiệm:

- Ủy Viên Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

- Phó Viện Trưởng Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam

- Phó Chủ Tịch Hội Đồng Phiên Dịch và Ấn Hành Đại Tạng Kinh Việt Nam

- Phó Viện Trưởng Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Huế

- Đại Diện Giáo Hội PGVN ở Hải Ngoại

- Chủ Tịch sáng lập Hội Phật Tử Việt Nam tại Pháp

- Viện Chủ Trúc Lâm Thiền Viện

Về thế học, Thầy đã đạt được mức độ tột cao, về đạo học Thầy có một kiến thức uyên thâm, Thầy được mọi nơi biết tiếng, từ quê nhà đến nơi hải ngoại, nhưng phong cách của Thầy luôn luôn khiêm tốn hiền hòa.

Mọi người còn nhớ hình ảnh của một vị sư trẻ, năm xưa, sống thanh đạm, đơn sơ, trong một căn phòng trọ nhỏ tí, chót vót trên lầu sáu, lầu bẩy, xát mái nhà, tại thành phố Paris. Và hình ảnh của những trại hè sinh viên, một người tu sĩ áo nâu, chiều chiều ngồi dùng trà trước túp lều nhỏ, được kín đáo dựng bên cạnh bụi cây. Một bình trà nhỏ, bốn chén đất nung, nhỏ bằng đốt ngón tay, ai có duyên ghé ngang xin mời ngồi, giọng nói luôn luôn hòa ái, dịu ngọt, khiêm tốn, lễ độ với mọi người, từ cụ già cho tới những thanh thiếu niên, hay đám sinh viên cứng đầu cứng cổ, tưởng như trên đời chẳng biết nể vì ai... Vâng! "lễ độ" với mọi người, không mảy may phân biệt! Gói ghém trong những cái đơn sơ, tầm thường, nhỏ bé ấy, là một lòng tin vững chắc vào Đạo Phật Việt Nam, vào Dân tộc Việt Nam, vào tiếng nói của người Việt Nam... với một quyết tâm thực hiện cho được lý tưởng của mình, không sợ hãi bất cứ một thế lực nào, và không một sức mạnh nào lay chuyển nổi.

Lúc 11 giờ 30 ngày 05 tháng 10 năm 1998 tức ngày rằm tháng 8 năm Mậu Dần, Thầy đã ra đi ! Phải chăng là ra đi vĩnh viễn ? không hẳn đâu, vì Thầy vẫn còn để lại cho đệ tử, cho hậu thế cả một chương trình to lớn để theo đuổi, với những mục tiêu rõ rệt, cụ thể. Chương trình này được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các bài giảng, các bài báo hay sách vở Thầy soạn từ hơn 30 năm qua, và có thể tóm thâu trong những điểm sau đây:

1 - Sống sao cho đúng là người Phật tử Việt Nam, sống đạo Phật với bản sắc văn hóa Việt Nam, gột sạch những vẩn đục của mê tín dị đoan.

2 - Thể hiện phương châm "người Việt nói tiếng nước Việt", cố gắng Việt hóa kinh điển, tụng niệm. Quyển "Nghi thức tụng niệm" của chùa Trúc Lâm hoàn toàn bằng tiếng Việt, không một bài kinh chữ hán, không một bài chú. Và quyển Nghi thức này đã được Phật tử tụng từ hơn 30 năm nay.

3 - Vận dụng "cộng nghiệp" để thực thi phương châm "Thể hiện đạo Pháp, phục vụ dân tộc"

4 - Vận dụng Giáo lý Phật để tìm câu trả lời cho các vấn đề lớn của thời đại.

Thầy đã ra đi, nhưng những ai còn kiên tâm đi theo đường Thầy chỉ dạy sẽ luôn luôn có Thầy bên cạnh.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Villebon ngày 11 tháng 10 năm 1998
( 21 tháng 8 năm Mậu Dần )
Đệ tử Nguyên Đạo

***

Những tác Phẩm của HT Thích Thiện Châu:

. Đường về xứ Phật (đồng tác giả), Sài Gòn 1964
. Tin Tưởng, 1964
. Vài lá Bồ đề, Paris 1972
. Phật Tử, TPHCM 1972
. Nghi Thức Lễ Phật, Paris 1968
. Pháp Cú (Dhammapada) dịch từ Pàli, Paris 1980
. Tìm Đạo, TP HCM 1996
. Le traité des trois lois (Tridharmakasàstra), Luận án Tiến sĩ Triết Học - Sorbonne 1971
. La littérature des personnalistes (Pudgalavadin) dans le boudhisme ancien, Luận án Tiến sĩ Quốc Gia về văn chương và Khoa học nhân văn - Sorbonne 1977
. La recherche spirituelle dans le bouddhisme, Paris 1978
. La vie et la mort dans le bouddhisme, Paris, Paris 1978
. Dictionnaire des philosophes (đồng soạn giả) - Paris 1988
. The literature of the Personnalists (Pudgalavadins) of early buddhism - 1997
. Être Bouddhiste, Paris 1997
. Và rất nhiều bài báo, giới thiệu, diễn giải Kinh được đăng trong Gió Nội, Tin Phật, Đi Tới, Hương Sen trong hơn 30 năm. Các bài này đã được soạn thành tập nhưng chưa kịp phát hành.

***

Pháp ngữ trước lúc hỏa thiêu nhục thân của Hòa Thượng Thiện Châu :

Hòa Thượng Thiện Châu ! Xin ngài lắng nghe.
Giới hạnh của ngài thì trong sạch,
Tuệ tâm của ngài thì sáng tỏ,
Ngài nguyện làm sứ giả của Phật để làm công việc
của Phật ở trong thế giới này.
Ngài sống và chết như vậy. Cái thân loài người rất khó có; ngài đã đổi cái cũ, thay cái mới, để qua lại trong thế giới này. Thế giới này là "cái trường thi tuyển chọn người làm Phật" ngài đã ở đây, và vẫn còn ở đây, để làm "người bạn không đợi mời gọi" cho nhân loại, cho chúng sinh.
Trăng Linh mụ, gió Túy vân, cái quê hương đạo vị ấy của ngài, đã tạo ra ngài và đang chờ ngài.

Tỷ kheo Trí Quang

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 7357)
Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, thế danh Vũ Văn Khang, sinh ngày 23/12/1921 (Tân Dậu), tại làng Tiêu Bảng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Cụ Ông Vũ Đức Khanh, thân mẫu là Cụ Bà Đỗ Thị Thinh. Hoà thượng có 5 anh chị em, 3 trai 2 gái. Ngài là con thứ 4 trong gia đình.
09/04/2013(Xem: 5171)
Lý Càn Đức (Bính Ngọ 1066 - Mậu Thân 1128) là vua thứ 4 nhà Lý, con trai duy nhất của vua Lý Thánh Tông và Ỷ Lan phu nhân tức Linh Nhân hoàng hậu. Càn Đức sinh ra ở Cung Động Tiên, gác Du Thiềm (gác thưởng Trăng) vào tháng Giêng năm Bính Ngọ, niên hiệu Chương Thánh năm thứ 8 (23-2-1066), hồi vua Thánh Tông đã ngoài 40 tuổi. Một ngày sau ngày sinh thì được lập làm Thái tử, 6 tuổi vua cha mất, được tôn làm vua, tức vua Lý Nhân Tông. Vua có tướng hảo, tâm hiền, bản chất thông minh dũng lược.
09/04/2013(Xem: 6135)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con người và sự nghiệp Lý Công Uẩn. Giá trị lịch sử của một con người không chỉ ảnh hưởng đến tự thân mà dư âm giá trị lịch sử của con người đó còn ảnh hưởng trực tiếp đến muôn người khác từ thế hệ này qua thế hệ khác. Và quả thật, Vạn Hạnh Thiền sư là người có công rất lớn trong việc khai sáng ra triều đại nhà Lý thì Lý Công Uẩn là vị vua đầu tiên thực thi tinh thần Vạn Hạnh bằng tất cả sự thể nhập "Đạo Pháp - Dân tộc" trong một thực thể duy nhất.
09/04/2013(Xem: 12747)
Có lần trong tù, đói quá, Thầy Quảng Độ nằm mơ thấy được nhà bếp cho một cái bánh bao. Ăn xong thấy bụng căng thẳng, no nê, rất hạnh phúc. Sự thật là đêm ấy, trước khi đi ngủ, vì đói quá nên thấy uống nước cho đầy bụng dễ ngủ. Và Thầy đã đái dầm ra quần. Sáng hôm đó Thầy có làm một bài thơ.
09/04/2013(Xem: 6342)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
09/04/2013(Xem: 7483)
Từ ngày 18-23/5/1996 HT.Thích Minh Châu, Phó CT kiêm Tổng thư ký GHPGVN, Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, Hiệu trưởng trường CCPHVN... đã lên đường đến Thái Lan để nhận bằng Tiến Sĩ Phật Học Danh Dự (Honarary Doctorate Degree in Buddhist studies) tại Đại Học Phật Giáo Mahachulalongkornrajvidyalaya, Thủ đô Bangkok, Thái lan.
09/04/2013(Xem: 9785)
Thiền sư THÍCH ĐỨC NHUẬN, pháp hiệu Trí Tạng, thế danh Đồng Văn Kha, sinh ngày 14 tháng Chạp năm Quí hợi (thứ bảy, ngày 19 tháng giêng, 1924). Chính quán : làng Lạc Chính, xã Duyên Bình, huyện Trực Ninh, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Đồng Văn Trung và thân mẫu là bà chính thất Hà Thị Thìn hiệu Trinh Thục (cả hai vị đều đã mãn phần). Là con thứ tư trong một gia đình thanh bần - dòng quí tộc. Ngài có 2 anh, 1 chị và 3 người em dì bào (2 trai, 1 gái).
09/04/2013(Xem: 4873)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, thế danh là Lâm Văn Tuất sinh năm 1897 (Đinh Dậu) tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thân sinh là cụ Lâm Hũu Ứng và bà Nguyễn Thị Nương.
09/04/2013(Xem: 7015)
Hòa Thượng Bửu Chơn thế danh là Phạm Văn Thông, sinh năm Tân Hợi (1911) tại Sa Đéc – Đồng Tháp. Thuở thiếu thời Ngài sinh sống tại đất nước Chùa Tháp Campuchia, do đó Ngài thấm nhuần Phật Giáo Nam Tông vốn là quốc giáo của Vương quốc này. Sẵn có túc duyên Phật pháp nên vào năm 1940, Ngài xuất gia thuộc hệ phái Nam Tông. Sau đó Ngài vào rừng chấp trì hạnh đầu đà (Dhatanga) suốt mười hai năm. Năm 1951 Ngài được Phật tử Việt Nam cung thỉnh về Sài Gòn để truyền bá giáo pháp Nguyên Thủy
09/04/2013(Xem: 6146)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567