Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giải mã di cốt vị Hòa thượng hóa thạch với bộ cà sa nguyên vẹn

12/11/201419:43(Xem: 9316)
Giải mã di cốt vị Hòa thượng hóa thạch với bộ cà sa nguyên vẹn


Một thi hài được chôn dưới đất đã 30 năm, nhưng khi được khai quật và di dời thì hài cốt cũng như bộ cà sa và y phục vẫn còn nguyên vẹn. Những khớp xương chân tay vẫn dính chặt nhau và cứng như đá, đặc biệt hộp sọ có màu vàng.

Câu chuyện đầy bí ẩn này xuất hiện tại chùa Long Bửu (thôn Xuân Vinh, xã Hành Phước, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi), khi chùa khai quật di cốt cố Đại lão Hòa thượng Thích Minh Đức để đặt vào bảo tháp.


2009-05-di_cot_hoa_thuong_hoa_thach1_185186423

Hình ảnh khai quật di cốt đầy bí ẩn.



Lời giải cho hiện tượng thi thể gần như hóa thạch

Chúng tôi tìm gặp Đại đức Thích Hạnh Khương, trụ trì chùa Long Bửu hiện nay để tìm hiểu thực hư câu chuyện đầy bí ẩn, liên quan đến di cốt đặc biệt mà người dân đồn đại râm ran thời gian qua. Đại đức Thích Hạnh Khương khẳng định: "Chuyện thi hài cố Đại lão Hòa thượng Thích Minh Đức được chôn cất dưới lòng đất sau mấy chục năm mà không tan rã là có thật". Để chứng minh cho lời nói của mình, sư trụ trì mời chúng tôi ra bảo tháp - nơi đặt di cốt của Đại lão Hòa thượng Thích Minh Đức để rõ thực hư.

Bảo tháp có bảy tầng được xây dựng bằng đá, tầng đầu tiên là nơi đặt di cốt cố Đại lão Hòa thượng. Đặt chân vào bảo tháp, nhìn qua lồng kính chúng tôi không khỏi ngạc nhiên, trước mắt là một bộ di cốt còn nguyên vẹn, hộp sọ có màu vàng giống như vàng 9999. Cảm giác huyền bí và thần kỳ là những gì chúng tôi cảm nhận khi đứng trong bảo tháp, khi được tận mắt nhìn thấy di cốt của cố Đại lão Hòa thượng.

Đại đức Thích Hạnh Khương cho biết, cách đây gần 4 năm, vì nơi chôn cất cố Đại lão Hòa thượng lâu năm đã xuống cấp, nên năm 2010 nhà chùa quyết định khai quật, di dời di cốt Hòa thượng vào bảo tháp mới xây dựng xong. 3h sáng 8/12/2010, môn đồ pháp quyến cùng phật tử địa phương đã trang nghiêm tổ chức buổi lễ khai quật và di dời hài cốt của Hòa thượng. Nhưng kỳ lạ là khi đào đất lên, di cốt của Đại lão Hòa thượng Thích Minh Đức vẫn còn nguyên vẹn sau bao năm chôn cất. Đại đức Thích Hạnh Khương đã phải thông báo tạm dừng và lập hàng rào để người dân không kéo đến quá đông làm mất sự tôn nghiêm tại chùa.

di-cot-hoa-thuong-hoa-thach

Sư trụ trì Đại đức Thích Hạnh Khương kể lại câu chuyện bằng hình ảnh.



"Theo lẽ thường, khi chôn cất xuống dưới đất một thời gian, thì da thịt sẽ phải tiêu biến đi, nhưng di cốt của Hòa thượng vẫn nguyên vẹn. áo quan bằng gỗ đã mục tan, nhưng bộ cà sa và y phục Hòa thượng mặc vẫn còn nguyên. Những khớp xương chân tay vẫn dính chặt nhau và cứng như đá. Toàn bộ di cốt của Đại lão Hòa thượng tỏa ra một màu vàng của y phục, ngay cả phần xương sọ cũng một màu vàng kỳ lạ. Trong khi, nơi chôn cất của ngài lại là khu vực hàng năm đều bị ngập nước. Đây là điều bí ẩn không lý giải được, vì khi Đại lão Hòa thượng viên tịch, không được tẩm ướp bất kỳ một hóa chất gì để gìn giữ cơ thể", Đại đức Thích Hạnh Khương kể.

Trong cuộc trò chuyện với chúng tôi, sư trụ trì Thích Hạnh Khương nói về cố Đại lão Hòa thượng một cách thành kính. Đại lão Hòa thượng Thích Minh Đức thế danh Nguyễn Khắc Dần (SN 1901 tại làng Hiệp Phổ, xã Đức Hạnh, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi). Từ thuở thiếu thời, Hòa thượng đã tỏ ra đức tính từ hòa, tư chất thông minh. Năm 17 tuổi, Hòa thượng quyết chí xuất gia tu học tại chùa Sắc Tứ Phước Quang (thuộc xã Phú Thọ, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi). Lúc 33 tuổi, Hòa thượng được ban pháp hiệu là Thích Minh Đức.

Năm 1945 cùng với cả nước hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hòa thượng tham gia phong trào chống Pháp, gia nhập Đảng lao động Việt Nam. Suốt thời gian này, Hòa thượng phát triển ngành Đông y và thâu nhận đệ tử xuất gia hiện nay đều là các vị trụ trì các chùa ở các tỉnh. Năm 1957 Tổng hội Phật giáo Trung phần bổ nhiệm Hòa thượng trụ trì chùa Linh Phước - Đà Lạt, thuộc chi hội Phật giáo Trại Mát.


Chuyện kỳ lạ vào ngày khai quật

Cuối năm 1984, linh cảm biết trước sự ra đi nên ngài rời chùa Linh Phước về lại tổ đình Long Bửu. Đêm 18 tháng Giêng năm 1985, ngài kêu gọi các đệ tử của tổ đình Long Bửu tìm cho ngài một tượng Phật, sau đó ngài nhìn tượng Phật niệm kinh rồi ra đi vào lúc 3h ngày 19 tháng Giêng năm 1985. Hòa thượng trụ thế 84 năm. Hòa thượng được chôn cất tại khuôn viên tổ đình Long Bửu. Theo sư trụ trì, cố Đại lão Hòa Thượng Minh Hạ Đức là một tấm gương sáng về sự tu tập, niệm Phật vãng sanh, giáo hóa chúng sanh, là bậc mô phạm đạo hạnh trong tòng lâm thì di cốt mới có thể vẹn nguyên như thế.

"Sự việc kỳ lạ này khó ai giải thích được, chỉ biết rằng đó là việc đạt tới cảnh giới cao nhất trong quá trình tu tập của một vị hòa thượng. Sinh thời, Đại lão Hòa thượng đã phát nguyện trì tụng kinh Phổ Môn 500 biến, cho đến trước lúc từ giã cõi trần ngài vẫn tinh tấn trì tụng cho đến hết. Hòa thượng ban vui cứu khổ, nhất là những đêm khuya khoắt khi mọi người yên giấc ngủ, có người đến cầu thỉnh đi cứu bệnh. Hòa thượng hoan hỷ đến ngay không một chút từ nan quản ngại", sư trụ trì nói trong sự thành kính.


di-cot-hoa-thuong-hoa-thach1

Kết quả sau bao năm tu chuyên trì niệm Phật và hoằng dương pháp môn tịnh độ, hình ảnh nhục thân của Hoà thượng được lưu lại. Chính vì thế, nhiều chư tăng mới khẳng định, chỉ những thiền sư mới có thể đạt được một vài trạng thái đặc biệt trước khi viên tịch và tự gột sạch mình tới mức cơ thể không thể phân hủy.

Theo Đại đức Thích Hạnh Khương, có nhiều chuyện kỳ lạ xảy ra từ khi khai quật di cốt của cố Đại lão Hòa thượng đã khiến nhiều người kinh ngạc. Đầu tiên là chuyện về bông hoa súng trong chậu trước mộ cũ của cố Đại lão Hòa thượng, bỗng nhiên nở vào thời khắc khai quật di cốt? "Từ trước tới nay, hoa súng chỉ nở vào ban ngày. Nhưng kỳ lạ là trong đêm khai quật di cốt của cố Đại lão thì hoa súng bỗng nhiên nở hoa. Có một phật tử ở chùa chụp lại được hình ảnh này", Đại đức Thích Hạnh Khương cho biết.

Chuyện hoa súng nở không ngạc nhiên bằng chuyện một phật tử (sư trụ trì không nhớ tên) trước đây vốn là người tàn tật, đi đứng phải phụ thuộc vào hai cây nạng. Đúng vào ngày đưa di cốt của cố Đại lão vào bảo tháp, người này đứng cầu nguyện gì đó rất lâu, thì tự nhiên bỏ nạng và chạy lại quỳ lạy. Sau đó, phật tử này bỏ nạng và đi lại được như người bình thường(!?). Sư trụ trì còn cho biết, lúc khai quật, trên hộp sọ của di cốt có ba chấm màu hồng. Nhưng một tuần sau, khi lau chùi lồng kính nhà sư lại phát hiện ba chấm này chuyển sang màu đen, một tuần sau nữa, kỳ lạ thay nó lại chuyển sang màu trắng và đến nay ba chấm đó vẫn còn là màu trắng (!?).

Nói về những chuyện kỳ lạ xảy ra từ ngày khai quật di cốt cố Đại lão Hòa thượng, sư trụ trì Thích Hạnh Khương cho rằng không ai có thể lý giải được những chuyện đã xảy ra... Sự việc đã xảy ra bốn năm, nhưng đến nay chưa có một giải thích nào chứng minh thuyết phục hiện tượng bất hoại của Đại lão Hòa thượng Thích Minh Đức. Còn ngôi chùa này, từ ngày xuất hiện câu chuyện đầy bí ẩn này, có rất nhiều tăng ni phật tử từ các nơi về đây để được tận mắt chiêm ngưỡng di cốt của cố Đại lão Hòa thượng. Theo thiển ý của PV, có lẽ sự việc trùng hợp trên chỉ là sự ngẫu nhiên, lại xảy ra đúng vào thời điểm trên người ta dễ liên tưởng đến tâm linh, đến sự hiển linh của nhà phật đã biến nhiều việc không thể thành cái có thể...


Di cốt còn nguyên vẹn là có thật

Ông Đặng Kim Dũng, Phó phòng VHTT-TT huyện Nghĩa Hành cho biết: "Sự việc về di cốt của đại sư còn nguyên vẹn là có thật. Lúc khai quật di cốt, phát hiện sự việc bất thường, sư trụ trì chùa Long Bửu có đến báo với phòng VHTT-TT huyện. Lãnh đạo phòng có cử người đến để chụp ảnh làm tư liệu, số ảnh này đang được trưng bày tại chùa. Hiện nay, di cốt của cố Đại lão Hòa thượng được chùa đặt vào một chiếc quan tài bằng đá có lồng kính, trong một căn phòng đặc biệt dưới chân ngọn bảo tháp, để các phật tử có thể chiêm bái".


Source: http://www.doisongphapluat.com/

Ý kiến bạn đọc
20/03/201515:34
Khách
Nam Mô A Di Đà Phật
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2010(Xem: 4880)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37228)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6145)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6110)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5753)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5644)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5923)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5459)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8769)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
23/10/2010(Xem: 11862)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua, và vài năm sau trở thành một nhà sư và đã để lại một di sản Thiền Tông bây giờ vẫn còn phát triển để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam. Ngài tên là Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của Nhà Trần và là vị sáng lập Dòng Thiền Trúc Lâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]