Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sơ lược tiểu sử TT Thích Chơn Thanh

09/04/201319:01(Xem: 11404)
Sơ lược tiểu sử TT Thích Chơn Thanh



ttchonthanh

CốThượng Toạ Thích Chơn Thanh

( 1949-2002)
---o0o---

I. THÂN THẾ :

Thượng tọa Thích Chơn Thanh, thế danh Phan Văn Bé, sinh ngày 13 tháng 3 năm 1949 tại xã Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh, tỉnh Kiến Phong, nay là tỉnh Đồng Tháp.

Thân phụ là Cụ ông Phan Văn Vinh, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Mến. Thượng tọa có 06 anh em, 2 trai 4 gái, Ngài là anh cả trong gia đình.

II. THỜI KỲ XUẤT GIA HỌC ĐẠO :

Vốn sinh ra và lớn lên trong một gia đình bần nông phúc hậu, giàu lòng tin Tam Bảo, nhất là đã có gieo trồng hạt giống Bồ đề, nên sau khi cơ duyên đã đủ, nhân xuất gia đến thời bộc phat, Thượng tọa phát tâm xuất gia đầu Sư với Cố Hòa thượng Thích Thiện Thọ, trụ trì chùa Phước Lâm, Tân Uyên, Biên Hòa nay là tỉnh Bình Dương, được Bổn sư ban pháp húy là Nhật Bé, hiệu Chơn Thanh, nối dòng Lâm tế gia phổ đời thứ 41.

Sau khi xuất gia học đạo, năm 1964 Thượng tọa đã được Bổn sư cho theo học Lớp Sơ đẳng Phật học tại Phật học viện Phổ Quang, Phú Nhuận, Gia Định do Hòa thượng Thích Thiện Thông làm Giám viện.

Năm 1965, khi Phật học viện Huệ Nghiêm được thành lập, Thượng tọa đã trúng tuyển kỳ thi nhập học lớp Trung đẳng Phật học và theo học suốt chương trình từ 1965 đến 1971 dưới sự lãnh đạo điều hành của Quý Hòa thượng Bửu Huệ, Thanh Từ và Thiền Tâm v.v…

Năm 1965, để đầy đủ giới pháp tu hành, Thượng tọa đã được Ban Giám đốc cho đăng đàn thọ giới Sa di tại Phật học Viện Huệ Nghiêm, do Hòa thượng Thích Thiện Hòa làm đường đầu Hòa thượng.

Năm 1969, đã viên mãn tam đàn giới pháp, dự vào hàng Tam Bảo, Thượng tọa đã được Hòa thượng Bổn sư cho đăng đàn thọ giới Tỳ kheo tại đại giới đàn Miền Quảng Đức được tổ chức tại Phật học viện Huệ Nghiêm, Gia Định do Hòa thượng Thích Hải Tràng làm đường đầu Hòa thượng.

Năm 1971, Thượng tọa đã tốt nghiệp chương trình Trung đẳng Phật học qua một kỳ thi do Tổng vụ Giáo dục tổ chức tại Viện Đại học Vạn Hạnh, Sài gòn.

Năm 1971 Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm chính thức khai giảng, do Hòa thượng Thích Trí Tịnh làm Viện trưởng, Hòa thượng Thích Bửu Huệ làm Phó Viện trưởng, Thượng tọa theo học suốt chương trình 08 năm tại Viện và mãn khóa vào năm 1977. Tuy nhiên, chương trình học kinh bộ vẫn tiếp tục đến năm 1991 do Hòa thượng Thích Trí Tịnh hướng dẫn.

III. THỜI KỲ HÀNH ĐẠO :

Trong thời gian theo học tại Viện, nhất là từ năm 1969 – 1975, Thượng tọa là một trong những cán bộ Phật giáo đi xây dựng cơ sở Phật giáo các Tỉnh miền Tây và miền Đông theo chủ trương của Giáo hội. Đồng thời là một thành viên trong Giảng sư đoàn Trung ương thuộc Tổng vụ Hoằng pháp do HT. Thích Huyền Vi làm Tổng vụ trưởng đi truyền bá chánh pháp khắp nơi cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước.

Sau ngày 30.4.1975, chương trình theo dấu chân xưa trở về cảnh cũ của Hòa thượng Viện chủ chùa Huệ Nghiêm đã đề ra, nhằm tạo thắng duyên trong sự giải thoát, qua Pháp môn Niệm Phật vãng sanh. Thượng tọa đã cùng các pháp hữu luân phiên nhập thất tịnh tu, tránh duyên bớt cảnh, một lòng phát nguyện vãng sanh, hầu báo đáp công ơn Thầy Tổ, nguyện sanh về cõi Bảo Liên, là nơi cực lạc ở miền Tây phương, đến khi thọ mạng vô thường, Di đà tiếp dẫn Tây phương an nhàn.

Vào năm 1977, trong kỳ họp củng cố và ổn định lại nhân sự Ban Quản Trị của Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm và chùa Huệ Nghiêm, Thượng tọa được Ban Quản trị và đại chúng suy cử làm Thư ký của Ban Quản trị cho đến ngày về cõi Phật.

Năm 1981, sau khi thống nhất Phật giáo cả nước, hình thành Giáo hội Phật giáo Việt Nam, vào năm 1982 Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh được thành lập, Thượng tọa được Thành hội Phật giáo bổ nhiệm làm Phó Ban Đại diện Phật giáo huyện Bình Chánh trong suốt 02 nhiệm kỳ (1982 - 1990).

Năm 1990, tại Đại hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh lần thứ 3, Thượng tọa được Đại hội suy cử làm Ủy viên Ban Trị sự kiêm nhiệm chức vụ Phó Văn phòng Thành hội Phật giáo.

Năm 1997, tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Thành phố lần thứ V, Thượng tọa được suy cử làm Ủy viên Ban Trị sự kiêm Phó Thư ký, Phó Văn phòng Thành hội Phật giáo, Ủy viên Hoằng pháp rồi Trưởng Tiểu ban Hoằng pháp Thành hội Phật giáo TP. HCM.

Cũng năm 1997, tại Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ IV, Thượng tọa được Đại hội suy cử làm Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN kiêm nhiệm Phó ban Hoằng pháp Trung ương, đồng thời được Ban Thư ký Hội đồng Trị sự cử làm Phó Văn phòng 2 Trung ương Giáo hội nhiệm kỳ IV (1997 - 2002) đến ngày viên tịch.

Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VI, Thượng tọa được Đại hội suy cử làm Chánh Thư ký Ban Trị sự kiêm nhiệm Trưởng ban Hoằng pháp Thành hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh cho đến ngày xả báo an tường.

Trên cương vị là sứ giả của Như Lai và trách nhiệm hiện hữu, nhằm tục Phật huệ đăng, báo Phật ân đức, Thượng tọa đã không ngại gian lao, không từ khó nhọc, nỗ lực hoằng dương Chánh pháp, giáo hóa học đồ, Tăng Ni, Phật tử qua các Trường Phật học, các Giảng đường thính pháp, những lớp đạo tràng, giáo lý phổ thôngv.v… đã làm cho Tăng Ni, Phật tử đượm nhuần ân pháp nhũ, tăng trưởng căn lành, trở thành người hữu ích cho Đạo pháp và cho xã hội.

IV. THỜI KỲ VIÊN TỊCH:

Những tưởng trên bước đường phụng sự Đạo pháp, phục vụ chúng sanh, Thượng tọa còn đóng góp tiếp tục và dài lâu hơn nữa theo nhựa sống dâng trào của người con Phật và trưởng tử của Như Lai, nào ngờ đâu, một phút vô thường, sau cơn bịnh nhẹ, Thượng tọa đã từ bỏ huyễn thân, thu thần viên tịch vào lúc 0giờ20 phút ngày 22 tháng 7 năm 2002 (nhằm ngày 13/6/Nhâm Ngọ), trụ thế 55 năm, hạ lạp trải qua 34 mùa An cư Kiết hạ.

Thế là Thượng tọa đã tạm từ bỏ sự hiện hữu của mình trong kiếp sống nhân sinh hiện tại trở về thế giới chân như nơi xuất phát đầu tiên của người con Phật, của vạn loại hàm linh. Tuy nhiên, dù hôm nay Thượng tọa không còn hiện hữu giữa đời nhưng công đức và đạo nghiệp của Thượng tọa vẫn còn khắc ghi trong tâm khảm, trong trí óc của người con Phật và hàng Tăng Ni Phật tử của Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng như trang sử muôn màu của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại.

Nam mô Việt Nam Phật giáo Giáo hội, Trị sự Hội đồng Ủy viên, Thành hội Phật giáo Chánh Thư ký, Từ Lâm tế gia phổ tứ thập nhất thế pháp húy Nhật Bé, tự Giác Ngộ, hiệu Chơn Thanh Thượng tọa tân Viên tịch Giác linh chứng minh.

TT. THÍCH THIỆN NHƠN soạn

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2011(Xem: 5469)
'Vậy là đã 700 năm, 7 thế kỷ trôi qua từ khi Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông viên tịch, thể nhập vào niết bàn an nhiên tự tại. Cả dân tộc Việt Nam đều được biết đến Ngài là một bậc quân vương anh minh của đất nước Đại Việt, mà cũng là một vị Sơ Tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Nói đúng hơn, Ngài là một vị “Vua Phật” của Việt Nam.
08/08/2011(Xem: 4965)
Lễ húy nhật cố Hòa thượng Thích Phước Huệ (1875 - 1963) - chùa Hải Đức
08/08/2011(Xem: 5502)
"Vì sao Thượng hoàng Trần Nhân Tông không ở lại Vũ lâm hay lựa chọn một nơi nào khác trên đất nước Đại Việt mà lại chọn Yên Tử để tu hành?" - Câu hỏi được phần nào lý giải trong tham luận của Nguyễn Trần Trương (Phó Ban Dân tộc tỉnh Quảng Ninh) trong Hội thảo tưởng niệm 700 năm ngày Đức vua
07/08/2011(Xem: 13017)
Nói đến tinh thần "Hòa quang đồng trần" tức là nói đến tinh thần nhập thế của đạo Phật, lấy ánh sáng của đức Phật để thắp sáng trần gian, “sống trong lòng thế tục, hòa ánh sáng của mình trong cuộc đời bụi bặm”, và biết cách biến sứ mệnh đạo Phật thành lý tưởng phụng sự cho đời, giải thoát khổ đau cho cá nhân và xã hội. Thời đại nhà Trần và đặc biệt vua Trần Nhân Tông (1258-1308) đã làm được điều này thành công rực rỡ, mở ra trang sử huy hoàng cho dân tộc.
04/08/2011(Xem: 5262)
Hòa thượng Thích Bích Lâm, nguyên Phó Viện trưởng Viện Hoằng đạo, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam; nguyên Chánh Đại Diện GHPGCT Trung phần, Tổ thứ 3 Tổ đình Nghĩa Phương, Tổ Khai sơn các chùa thuộc Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương, Tông trưởng Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương (1921 - 1972).
30/07/2011(Xem: 7335)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
28/07/2011(Xem: 5764)
Hòa Thượng Thích Đạt Hảo, Hòa thượng Thích Đạt Hảo thế danh Lê Văn Bân, pháp danh Tánh Tướng, pháp hiệu Đạt Hảo, sanh năm Đinh Tỵ (1917), tại ấp Bình Hữu, xã Đức Hòa Thượng, huyện Đức Hòa, tỉnh Gia Định (1). Sư là con út trong gia đình có 6 anh chị em, 2 người trai bốn người gái; đặc biệt cả nhà có 8 người đều lần lượt xuất gia tu hành: -Phụ thân Lê Văn Bộn (1876- 1943), pháp danh Tánh Từ, pháp hiệu Đạt Bi. -Mẫu thân Ngô Thị Cờ (1884-1941), pháp danh Tánh Niệm, pháp hiệu Đạt Phật. -Chị thứ 2 Lê Thị Tình (1901-1970), pháp danh Tánh Hóa, pháp hiệu Đạt Đạo. -Chị thứ 3 Lê Thị Ưa (1904- ?) pháp danh Tánh Viên, pháp hiệu Đạt Thông. -Chị thứ 4: Lê Thị Luận (1907- ?), pháp danh Tánh Minh, pháp hiệu Đạt Quang. Chị thứ 5 Lê Thị Nghị (1909- ?), pháp danh Tánh Hồng, pháp hiệu Đạt Tâm -Anh thứ 6 Lê Văn Kỉnh (1915-1962), pháp danh Tánh Kỉnh, Pháp hiệu Đạt Xương. -Em út là Hòa thượng Thích Đạt Hảo.
15/07/2011(Xem: 7164)
Thiền sư húy thượng NGUYÊN hạ BÀNG - ĐẠI NGUYỆN tự CHÍ NĂNG hiệu GIÁC HOÀNG , thế danh LÊ BẢN, sinh năm Canh Dần 1950, tại thôn An Ngãi, xã Nhơn An huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Ngài sinh trong một gia đình nhiều đời sùng kính Tam Bảo. Thân phụ: Cụ ông LÊ TRÀ, thân mẫu: Cụ Bà TRẦN THỊ TÁM. Ngài là anh cả trong gia đình gồm có năm người con.
24/06/2011(Xem: 5904)
Vua Lê Đại Hành mất vào năm 1005, các hoàng tử tranh giành ngôi vua tạo nên cảnh khổ đau tràn ngập cho Dân Tộc, bên trong bị nội loạn, bên ngoài bị ngoại xâm đe dọa. Trước những thảm trạng đen tối u ám và đầy dẫy những thống hận đó, Vạn Hạnh thiền sư xuất hiện như một thứ ánh sáng phi thường quét sạch vùng trời giông tố để đưa vận nước bước vào thời đại huy hoàng thịnh trị.
24/06/2011(Xem: 5922)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]