Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sơ lược tiểu sử TT Thích Minh Phát

09/04/201318:55(Xem: 23028)
Sơ lược tiểu sử TT Thích Minh Phát

 

ttminhphat


Thượng Tọa Thích Minh Phát

(1956 – 1996)


---o0o---

“Quảy dép về Tây chốn nghỉ ngơi,

Hạc vàng cất cánh ngắm phương trời,

Huyễn thân trả lại nơi trần thế,

Giả biệt hôm nay có mấy lời…”

Cuộc đời tu tập và hành đạo của Thầy Minh Phát là bức tranh minh họa hiện thực sinh động lời dạy của Đức Phật: “Này chư Tỳ kheo! Hãy du hành vì an lạc, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chư Thiên và loài người”.

Những bài văn, thơ, kệ… tưởng niệm của chư vị Tôn đức, chư vị pháp huynh, pháp hữu, môn đồ… được ghi lại trong tập “Kỷ Yếu” này cho chúng ta thấy rõ hình ảnh đẹp của một Sa di Minh Phát thời niên thiếu; đặc biệt là nổi bậc hơn là công hạnh đạo đức ấy đã tăng trưởng vượt bực trong suốt hai mươi mốt năm hiện thân là một vị Tỳ kheo trong giáo pháp.

Dù tại Thành phố Hồ Chí Minh hay các tỉnh miền Tây, miền Đông, miền Trung, kể cả một số tỉnh miền Bắc xa xôi… nơi nào có nhơn duyên xây dựng chùa chiền, trùng tu Tam Bảo, tổ chức an cư kiết hạ, khai đàn truyền giới hay thiên tai địa ách, hỏa hoạn, lũ lụt, bão lụt v.v… là nơi đó Thầy Minh Phát luôn luôn có mặt và hoan hỷ trong mọi trường hợp.

Những sự kiện nổi bật nơi Thầy Minh Phát và chư Tôn đức Tăng, Ni, Phật tử quen biết xa gần đều rất khó quên: Nơi các Đại giới đàn, Thầy là vị dẫn lễ thân kính của các giới tử; nơi các đàn chuẩn tế trong những lễ ngày hội lớn, Thầy là vị sám chủ uy nghiêm và gây ấn tượng mạnh trong lòng đại chúng; nơi các bệnh nhân, Thầy là vị lượng y kỳ diệu, với một chai nước mát Thầy đọc vài câu kinh ngắn chú nguyện, người bệnh mang về uống là có thể hết bệnh (đã có nhiều người bệnh nhờ uống những chai nước mát của Thầy cho); nơi các Tổ đình lớn, trong một số ngày lễ hội, khi cần - Thầy là người “đầu bếp tài ba” v.v…

Ngoài ra Thầy còn có một đặc tính gần như thiên phú, hay nói theo nhà Phật thì do thầy tu tập, tích tụ trong nhiều kiếp, đó là khả năng nghe và trùng tuyên Pháp ngữ - nơi nào có đại lễ, chư Tôn đức xướng Pháp ngữ… Thầy được nghe qua một lần là ngay sau đó, Thầy có thể lặp lại không thiếu sót. Đồng thời, dù về mặc văn hóa phổ thông Thầy học không nhiều, nhưng Thầy có khả năng biên soạn một kinh sách về Nghi lễ, luật giới, tiểu truyện v.v… Đặc sắc nhất là Thầy có thể xuất khẩu thành thơ trong mọi trường hợp, đem lại sự an vui bá tánh trên đường hoằng hóa.

Hành trạng Thầy Minh Phát đã cho chúng ta cảm nhận giá trị tinh hoa kỳ diệu của dòng thời gian như lời dạy của Đức Phật trong kinh Pháp Cú (câu 115):

Ai sống một trăm năm

Không thấy pháp tối thượng

Không bằng sống một ngày

Thấy được pháp tối thượng.

Về thọ mạng huyễn thân, Thầy Minh Phát hiện hữu với chúng ta không lâu - bốn mươi mốt năm - nhưng mỗi thời khắc đi qua là một hạt chuỗi ngọc long lanh của công đức và trí tuệ được tích tụ. Cho nên dù thời gian kiếp sống có ngắn ngủi vô thường nhưng Thầy đã tận dụng không bỏ phí “một điều thiện nhỏ” và như chúng ta đã chứng kiến, với công hạnh “ban vui cứu khổ”, tâm nguyện của Thầy đã làm cho dòng thời gian như ngừng lại, thường trụ và hình ảnh Thầy Minh Phát hiền hòa, từ ái luôn gần gũi như sống mãi, hằng hữu trong lòng người con Phật xuất gia và tại gia chúng ta.

Như vậy, nếu chúng ta sống một trăm năm, mà chúng ta chỉ biết sống ích kỷ cho riêng mình hoặc bỏ phí thời gian trôi qua trong những việc dễ duôi, vô ích thì dòng thời gian nhiều đó trở thành không nghĩa và tiêu tan như mây khói. Ngược lại, chúng ta sống dù một ngày, một tháng, một năm, mười năm, hay đôi ba mươi năm v.v… mà chúng ta sống không chấp thủ, không ích kỷ cho riêng mình, mỗi giờ phút trôi qua, chúng ta biết tận dụng làm thiện sự, đem lợi lạc cho nhân sinh thì nhất định dòng thời gian đó, dù ngắn cũng trở nên dài, đẹp, bất tử trong lòng mọi người và tự thể nó trở nên thiên thu.

Cuộc đời Thầy Minh Phát là tấm gương sáng về tinh thần “Vô ngã vị tha, lợi lạc quần sanh”. Trong vòng sanh diệt tương đối, cuộc đời Thầy có phần ngắn ngủi nhưng công đức tràn đầy vô lượng, xứng đáng với tấm lòng mọi người đã tôn vinh, tưởng niệm, thương kính, đưa tiễn… trong ngày tang lễ; xứng đáng được Giáo Hội Trung Ương và Thành Hội Phật Giáo truy phong – cung an Thầy vào hàng Giáo phẩm Phật giáo Việt Nam, tại buổi lễ tưởng niệm ngày 10-5-1996 Giáo hội và Thành hội Phật giáo đã công bố quyết định tấn phong Đại Đức Thích Minh Phát lên hàng Giáo phẩm Thượng Tọa. Tiễn đưa Giác linh Thầy hội nhập cõi vĩnh hằng “Thượng phẩm thượng sanh” của chư Bồ tát.

Tập “Kỷ Yếu” này được thực hiện bằng tất cả những tấm lòng của chư vị tông phong pháp lữ, huynh đệ pháp hữu và môn đồ tứ chúng, Phật tử gần xa bày tỏ đạo tình trân quý một cuộc đời đã hiến dâng trọn vẹn cho đạo pháp dân tộc và chúng sanh.

Nhân dịp cúng lễ Tuần chung thất, Ban biên tập “Kỷ Yếu” đề nghị tôi viết Lời Tựa cho tập sách, thể hiện tình “Linh Sơn cốt nhục” tôi có đôi lời tưởng niệm… trân trọng kính mời chư vị Tôn Đức Tăng Ni, huynh đệ pháp hữu và Phật tử hãy cùng đọc và tưởng nhớ hình ảnh Thầy Thích Minh Phát thân thương.

Mùa An Cư Phật lịch 2540
Phó Ban kiêm Ủy Viên Văn Hóa
Thành Hội Phật Giáo

Thượng Tọa Thích Giác Toàn

Tiểu Sử

Cố Thượng Tọa Thích Minh Phát

(1956 – 1996)

-Ủy Viên Từ Thiện Xã Hội TW. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.

-Ủy Viên Từ Thiện Xã Hội Thành Hội Phật Giáo TP. HCM.

-Ủy Viên Từ Thiện Xã Hội Ban Đại Diện Phật Giáo Q. 10

-Phó Giám Đốc Đại Tòng Lâm Phật Giáo - Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

-Trụ Trì Chùa Viên Chùa Viên Giác – Q. Tân Bình.

-Trụ Trì Chùa Phụng Sơn – Q.11


I) Thân Thế:

Thượng Tọa thế danh Lê Nhựt Nguyên, pháp danh Nguyên Đức, pháp hiệu Minh Phát. Sinh ngày 20 tháng 06 năm 1956 (Bính Thân) tại Chợ Lớn (nay là Quận 10, TP. Hồ Chí Minh). Phụ thân là ông Lê Thành An, mẫu thân là bà Trương Thị Ba, song thân đều đã từ trần. Thượng Tọa được bảy anh chị em, Thượng Tọa là người thứ tư trong gia đình.


II) Thời Gian Xuất Gia Học Đạo:

Được sinh ra trong một gia đình nhân hậu, đời đời kính tin Tam Bảo và sẳn túc duyên nên vừa biết đòi ăn là Thượng Tọa đã ăn chay; lại gia đình may được ở gần chùa nên Thượng Tọa thường theo mẹ sang chùa lạy Phật. Nhờ đó mà hạt giống Bồ Đề ngày càng phát triển.

Năm 1964, Thượng Tọa được song thân cho xuất gia học đạo với cố Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, viện chủ Tổ Đình Ấn Quang – Giám Đốc Phật Học Đường Nam Việt. Kể từ đó, hôm sớm kệ kinh siêng năng hành đạo, Thượng Tọa cùng với sư huynh Minh Thành giữ chức thị giả hầu cận Hòa Thượng Bổn Sư; Nhờ gần gũi chư vị Cao Tăng Tôn đức nên chủng trí vô sư nhiều đời huân tập nhân đây là tăng trưởng.

Năm 1971, Thượng Tọa thọ giới Sa Di với cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ tại giới đàn Tu viện Quảng Đức (Thủ Đức).

Năm 1975, Với hạnh nguyện sâu dầy, oai nghi đĩnh đạc, đáng làm pháp khí Đại thừa, Thượng Tọa được Hòa Thượng Bổn Sư cho thọ giới Tỳ kheo và Bồ Tát tại giới đàn chùa Pháp Giới (Cầu Tre – Tân Bình) do cố Hòa Thượng Thích Hành Trụ làm Đường Đầu Hòa Thượng.


III) Thời Kỳ Hóa Đạo:

Năm 1974, khi Hội Đồng Quản Trị Tổ Đình Ấn Quang và các cơ sở trực thuộc được thành lập, Thượng Tọa được cử làm chức Phó Tổng Quản Sự, kiêm chức Tri khố Tổ Đình Ấn Quang, chăm lo công việc ăn ở cho đại chúng một cách chu toàn cho đến ngày viên tịch.

Năm 1976, vâng lệnh Hòa Thượng Bổn Sư và theo sự tha thiết thỉnh cầu của Phật tử chùa Viên Giác, Thượng Tọa kiêm nhậm chức Trụ Trì chùa Viên Giác - Quận Tân Bình; và nơi đây cũng chính là nơi thế độ chúng đệ tử Ưu Bà Tắc xuất gia.

Năm 1978, sau khi Hòa Thượng Bổn Sư viên tịch, Thượng Tọa được cử làm chức Phó Giám Đốc Đại Tòng Lâm Phật Giáo ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Cũng năm này, Thượng Tọa xây dựng chùa Viên Dung ở xã Linh Đông, huyện Thủ Đức trên phần đất do Phật tử Diệu Hạnh dâng cúng, là nơi tiếp nhận chúng đệ tử Ưu Bà Di xuất gia.

Năm 1992, theo lời thỉnh cầu của Hòa Thượng Phước Quang - Trụ trì chùa Phụng Sơn, Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh đã bổ nhiệm Thượng Tọa về trụ trì chùa Phụng Sơn.

Năm 1993, Sau khi Đại Hội Phật Giáo toàn quốc kỳ III, Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh lần thứ IV, Thượng Tọa được mời làm Ủy Viên Ban Từ Thiện Xã Hội Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, Ủy Viên Tiểu Ban Từ Thiện Xã Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh và Ủy Viên Ban Từ Thiện Xã Hội Phật Giáo Quận 10.

Sau ngày 19 tháng 09 năm Quý Dậu, Hòa Thượng Tổng Quản Sự Tổ Đình Ấn Quang viên tịch, Thượng Tọa là một trong bốn Thượng Tọa lãnh đạo của Tổ Đình Ấn Quang, và ThượngTọa đã đảm nhận chức Phó Ban Quản Trị kiêm Tri Sự điều hành mọi sinh hoạt của Tổ Đình cho đến ngày viên tịch.

Bằng giới đức trang nghiêm thanh tịnh, mô phạm chốn tòng lâm biểu tượng nơi quy hướng cho Tăng Ni và Phật tử, trong những thập niên 1975-1995, Thượng Tọa đã từng đảm nhận các chức vụ Phó Ban Kiến Đàn, Dẫn Thỉnh Sư trong các Đại giới đàn để truyền trao giới pháp cho Tăng Ni, Phật tử. Qua đó từng hàng giới tử đạo thể trang nghiêm, giới đức thanh tịnh trở thành người hữu ích cho đạo pháp và cho xã hội.

Trong sự nghiệp kế thừa đạo mạch, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức, Thượng Tọa đã thế độ cho hơn một trăm Tăng Ni xuất gia tu học và hàng ngàn Phật tử quy y Tam Bảo, thực hiện hạnh nguyện lợi tha, tu tâm hành thiện, đẹp đạo tốt đời. Ngoài trọng trách vận động tài chánh ẩm thực cho Trường Cơ Bản Phật Học Đại Tòng Lâm, Ni viện Thiện Hòa, Thượng Tọa còn nổ lực yểm trợ cho các trường Cơ Bản Phật Học các tỉnh, thành tại một số địa phương, góp phần đào tạo Tăng Ni tài đức cho Giáo Hội và Tỉnh Hội, Thành Hội Phật Giáo trong cả nước.

Bằng công đức trang nghiêm ngôi Tam Bảo là trang nghiêm Tịnh độ của chư Phật, Thượng Tọa đã kế thừa sự nghiệp của cố Hòa Thượng Bổn Sư, đã nổ lực vận động tài chánh trùng tu ngôi Tổ Đình Ấn Quang, chùa Long Triều, kiến thiết Đại Tòng Lâm Phật Giáo, chùa Huệ Nghiêm, chùa Dược Sư, Chùa Viên Giác, chùa Phụng Sơn và chùa Khánh Đức (sông Bé), làm trang nghiêm đạo tràng xứng đáng là cơ sở sinh hoạt tín ngưỡng của Giáo Hội tại địa phương. Ngoài ra Thượng Tọa còn ủng hộ công tác trùng tu, xây dựng một số lớn cơ sở tự viện tại các tỉnh, thành trên địa bàn cả nước.

Nêu cao tinh thần vô ngã vị tha, từ bi cứu khổ của đạo Phật, Thượng Tọa đã thể hiện tinh thần ưu đời mẫn thế, hạnh nguyện từ bi vô hạn, qua các mặt công tác từ thiện xã hội trên khắp mọi miền đất nước; nơi nào có thiên tai, lũ lụt, hỏa hoạn; bịnh tật, đói khát là nơi đó có hình ảnh và tài vật cứu trợ của Thượng Tọa. Có thể nói Ngài là biểu hiện của tình thương, là sự sống của người đau khổ, trong ý nghĩ hạnh nguyện của một vị Bồ Tát hiện thân.

Qua phúc đức trang nghiêm, túc duyên thù thắng, hạnh nguyện kỳ diệu, năng lực phi thường, có thể nói Thượng Tọa là Y Chỉ Sư cho toàn thể Ni giới. Nhất là đối với những hàng Tăng Ni, Phật tử có đủ thiện duyên khi được diện kiến, qua lời từ nhã, cử chỉ dịu dàng, tỏa sáng gương lành, tâm hồn thuần hậu của Thượng Tọa, tất cả đều được an lạc thỏa mãn mong cầu và phước lành thêm lớn, trong ý nghĩ diệu lực thù thắng bất khả tư nghì của đạo Phật.

Ngoài ra, Thượng Tọa còn dành nhiều thời gian biên soạn những tác phẩm để lưu lại cho hậu thế, gồm có:

- Đời sống Đức Điều Ngự.

- Xuân Vô Năng Thắng.

- Giai thoại nhà Thiền.

- Các nghi thức tụng niệm và chúc tán.

- Khoa cúng Tổ Kiều Đàm Di Mẫu.

- Tu chỉnh Giới Đàn Ni.

- Các tập thi phú v.v…

Với tinh thần hoằng dương chánh pháp lợi lạc quần sanh, tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức, hơn nửa cuộc đời phụng sự đạo pháp và chúng sanh - tốt Đạo đẹp Đời, Thượng Tọa đã được Giáo Hội, Thành Hội Phật Giáo, Ủy Ban Nhân Dân, Mặt Trận Tổ Quốc Thành Phố và Quận 10 tặng bằng Tuyên Dương Công Đức, các bằng khen và giấy khen đủ loại.


IV) Thời Kỳ Viên Tịch:

Kể từ năm 1994, Thượng Tọa đã trải qua cơn bệnh ngặt nghèo, sức khỏe có phần giảm sút. Nhưng Thượng Tọa vẫn nỗ lực kiên trì thi hành Phật sự, lợi lạc quần sanh, quyết tâm đi cho trọn con đường phụng sự đạo pháp và nhân sinh. Nhưng lực bất tòng tâm, như Cổ đức dạy:

Bầu thuốc thánh đâu cứu được người hết số,

Chén linh đơn sao chữa được bệnh nan y.

Thế rồi ngày qua tháng lại, sức khỏe Thượng Tọa kém dần theo cơn bệnh, nhưng Thượng Tọa vẫn tỉnh giác chánh niệm an nhiên tự tại, sinh hoạt bình thường trong ý niệm sinh tử nhàn nhi dĩ. Và sau một cơn bệnh nhẹ, Thượng Tọa đã xả báo an tường, thu thần thị tịch, trở về thế giới Niết bàn bất sinh bất diệt vào lúc 6 giờ 40 phút ngày 21 tháng 03 năm Bính Tý (nhằm ngày 08-05-1996), trụ thế 41 năm, Hạ lạp trải qua 21 mùa An Cư Kiết Hạ.

Thế là Thượng Tọa đã ra đi vĩnh viễn, bỏ lại các pháp hữu vi giả tạm, hạnh nguyện chưa tròn, đường phụng sự đạo pháp và chúng sanh còn nhiều người mong đợi, chờ ơn; nhưng cõi Ta bà đã khuất bóng vì sao, miền Cực Lạc thêm trang Thượng Sĩ. Tuy nhiên công đức của Thượng Tọa đã cống hiến cho đạo pháp và chúng sanh sẽ còn sống mãi trong tâm tư những người con Phật và vạn loại hàm linh, trong ý nghĩa pháp giới vô biên, viên dung vô ngại qua những kiếp lai sinh trần thế cho đến khi chứng quả Bồ đề.

Phụng vì Ấn Quang Đường Thượng, Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Tứ Thế, húy Nguyên Đức, hiệu Minh PhátThượng Tọa Giác linh Thiền tọa.

Nam Mô A Di Đà Phật

Ta chẳng phiền ai nếu họ phiền,

Vì ta có mặt mới là duyên,

Nếu không ta, có ai phiền trách,

Gió thổi hư không giữa đất liền.

Ta chẳng não loạn với một ai,

Có thêm thân, có nghiệp theo hoài,

Khen chê thương ghét đầy vơi mãi,

Xả hết cho đời khỏi trả vay.

Ngày xưa pháp hội có hai người,

Tranh cãi buồn phiền chuyện hổ ngươi,

Một vị phương trời lo phướn động,

Một người cãi lại gió bay thôi.

Huệ Năng nhìn thấy trong câu chuyện,

Biết được ra khuyên một ít lời,

Phướn không gió cớ chi lay động,

Chỉ có tâm mình chịu nổi trôi.

Bà kia ông nọ người xa lạ,

Mà giận làm chi giữa cuộc đời,

Chẳng có vinh thì đâu có nhục,

Để lòng sầu não giữa đầy vơi.

Mái chùa từ buổi vui tình Phật,

Cắt tóc chia tay chẳng nợ đời,

Cơm Phật rau dưa qua ngày tháng,

Buồn chi lời nói của người đời.

Xả hết cho lòng không vướng bận,

Quên đi cho sạch chẳng chiều mơi,

Ai thương ai ghét đều là bạn,

Lời lẽ khen chê cũng thế thôi.

Giữ vẹn từ bi thêm hỷ xả,

Vào ra ba cõi mặc vui chơi.

1992

Thích Minh Phát

Nam Mô A Di Đà Phật.

Chày kình tiếng nhẹ buông

Lòng con mãi lo buồn

Mong sao tròn nhân Phật

Để ngày tháng qua xuông

Hoàng hôn chiều mưa rơi

Mồ hoang khắp trong đời

Mờ sương lòng không nơi

Hết thời.

Nghĩ ngợi

Bao nhiêu duyên nghiệp người ơi!

Bao nhiêu oan trái trong đời viễn ly.

Xin tròn quả phước hôm ni.

Ngày nay cho đến một khi đạo thành.

Thích Minh Phát

Nam Mô A Di Đà Phật.

Xin hoan hỷ giữa chợ đời đen trắng

Chốn phiền ba bao mưa nắng dập dồn

Từ có thân này thành chuyện sớm hôm

Rồi ngày tháng buộc ràng thêm thắt chặt

Giữa thế hệ muôn chuyện ai cũng mặc

Miễn tâm tư hằng mãi nụ cười vui

Cho lòng luôn hòa thuận giữa ngọt bùi

Để tạo dựng vuông tròn trong lẽ sống

Muốn tất cả mọi người luôn tự trọng

Muốn thân thương giữa bao cảnh khóc cười

Muốn dung hòa cho sự được mười mươi

Muốn tùy hỷ giữa đất trời tang lệ

Đời đã có rồi không thôi thì kệ

Kiếp nhân sinh bao thế hệ qua rồi

Nghiệp đa mang đeo đuổi kiếp con người

Thân tứ đại cũng tùy dòng luân tục.

Niệm Di Đà điều phục lại thân tâm

Thoát trần ai trong sáng tợ trăng rằm

Hầu trở lại tròn đầy ba la mật.

Thích Minh Phát

Nam Mô A Di Đà Phật.

Sự lý đua nhau giữa chợ đời

Ai người thong thả mặc vui chơi

Gặp nhau hoan hỷ lòng thông cảm

Cho vẹn lòng thương ở với đời.

Cho vẹn lòng thương ở với đời.

Biển trần lặn hụp mãi đua bơi

Nếu không cảnh tỉnh quay đầu lại

Muôn kiếp ngàn năm trả nợ đời.

Muôn kiếp ngàn năm trả nợ đời.

Nơi miền khổ thú mặc vui chơi

Quê xưa cảnh cũ chừng quay lại

Thôi đến liên bang cũng kịp thời

Thôi đến liên bang cũng kịp thời

Nơi miền Phật độ được thảnh thơi

Sanh già đau chết không còn nữa

Niệm Phật nhìn trăng chẳng nợ đời.

Thích Minh Phát

Đời sống tăng nhàn vui nước non

Yên hà bạn lữ nguyện vuông tròn

Liễu xanh tùng biếc xuân thu mặc

An lạc hạnh tu chẳng mất còn.

Thích Minh Phát

--- o0o ---

Vi tính: Diệu Mỹ Nhật Nhan

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/10/2019(Xem: 4466)
Viện chủ TỔ ĐÌNH SẮC TỨ TỪ QUANG (Đá Trắng - Phú Yên) Hòa thượng Thích Phúc Hộ, thế danh là Huỳnh Văn Nghĩa, sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp Thìn (1904) đời vua Thành Thái năm thứ 16 tại làng Triều Sơn, xã Xuân Thọ, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Song thân của Ngài là cụ ông Huỳnh Trung và cụ bà Trần Thị Nho.
20/10/2019(Xem: 6662)
Thân thế: Cố Đại đức thế danh Lê Quý Trúc Bảo, sanh vào ngày 23/3/1975 trong một gia đình nhiều đời theo Phật. Trong lần gia đình di cư đầu tiên vào Nam, song thân đã sinh Đại đức (ĐĐ) tại Tam Bình, Thủ Đức, Gia Định. Thân phụ là ông Lê Quý Triết, Thân mẫu là bà Hoàng Thị Tựu; nguyên quán Trà Trì, Hải Xuân, Hải Lăng, Quảng Trị. ĐĐ sinh ra trong gia đình có 8 anh em gồm 3 người anh trai, 2 em gái và 2 người em trai. Sau 30/4/1975 gia đình trở về nguyên quán Trà Trì, Quảng Trị. Đến tháng 7/1977 gia đình của cố ĐĐ lại một lần nữa di cư vào Nam và trú ở vùng kinh tế mới tại Châu Thành, Đồng Nai. - năm 1981-1986, cố ĐĐ học trường Tiểu học Quảng Thành, Châu Thành, Đồng Nai - năm 1986-1990, cố ĐĐ học trường Trung học cơ sở Kim Long, Châu Thành, Đồng Nai.
20/10/2019(Xem: 4580)
Hòa thượng sinh ra và lớn lên trong một gia đình khoa bảng nho học, nhưng dường như vốn có túc duyên nhiều đời với Phật pháp nên từ lúc thiếu thời khi còn đi học tại trường Trung học Dũng Lạc Hà Tây, Hòa thượng đã có xu hướng tìm hiểu Phật giáo. Đến năm 19 tuổi (1953) Ngài lặng lẽ từ biệt gia đình cùng người thân, từ giã nơi chôn nhau cắt rốn lần bước đi tìm thầy xuất gia cầu Đạo để hoàn thành ước nguyện của mình.
20/10/2019(Xem: 4960)
CỐ TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ HẢI Thành viên Hội Đồng Chứng Minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Quảng Trị Nguyên Phó trưởng ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Quảng Trị Trú trì Tổ đình Sắc tứ Tịnh Quang – Quảng Trị; Tổ đình Hải Đức – Huế THÂN THẾ Hòa thượng họ Võ, húy Viết Hữu, nối pháp dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 41, pháp danh Không Cẩn, tự Trí Hải. Hòa thượng sinh năm Tân Tỵ [1941] tại thôn Phương Lang, xã Hải Ba, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Hòa Thượng xuất thân trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo, thân phụ là Cụ ông Võ Viết Linh – pháp danh Nguyên Minh, thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Diệm – pháp danh Nguyên Huệ. Ngài là người con út trong gia đình có 8 anh chị em.
20/10/2019(Xem: 7519)
Hòa thượng là người làng Triều Thủy, xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tên thật là Nguyễn Đình Hiệp, sinh năm 1938, mất năm 1973 tại Sài Gòn. Sinh trong một gia đình thuần Phật có 9 anh em 4 trai 5 gái mà Hòa thượng là con út. Thân phụ là cụ Nguyễn Đình Thắng, pháp danh Tâm Minh, tự Diệu Dụng. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Lang, pháp danh Tâm Lạc.
20/10/2019(Xem: 5041)
Cố Đại Lão Hoà Thượng Thích Hộ Giác (1928 – 2012) – Phó Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. – Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam. – Nguyên Tổng Thư Ký Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam. – Nguyên Thành Viên Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo. – Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Cư Sỹ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. – Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. – Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Xã Hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. – Nguyên Phó Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. – Nguyên Tổng Thư Ký Hội Đồng Lãnh Đạo GHPGVNTN Hải Ngoại. – Nguyên Chủ Tịch Văn Phòng II Viện Hoá Đạo GHPGVNTN Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ. – Nguyên Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ. – Viện chủ Tổ Đình (PHV) Pháp Quang; chùa Nam Tông; chùa Xá Lợi Phật Đài (Việt Nam). – Viện chủ Pháp Luân Tự, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ.
20/10/2019(Xem: 5085)
Hòa thượng đạo hiệu Thích Minh Cảnh, thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 40. Hòa thượng thế danh Nguyễn Hữu Danh, sinh ngày 12-11-Đinh Sửu (1937) tại làng Mỹ Tho, quận Cao Lãnh (Đồng Tháp). Hòa thượng xuất thân trong gia đình kính tin Tam bảo, thân phụ là cụ ông Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu, thân mẫu là cụ bà Trần Thị Mậu, pháp danh Diệu Thiệt. Hòa thượng là người con út, là con thứ 9 (miền Nam gọi là thứ 10) trong gia đình có 9 anh chị em, với bốn người anh, chị xuất gia tu học.
20/10/2019(Xem: 4502)
TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG GIỚI NGHIÊM (THITASÌLA MAHATHERA) (1921 - 1984) Nguyên: - Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravàda) Việt Nam. - Thành viên Hội Đồng Chứng Minh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. - Phó Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. - Phó Chủ Tịch Hội Hữu Nghị Việt Nam - Campuchia.
20/10/2019(Xem: 16452)
Hòa thượng Giác Khang thế danh Tô Văn Vinh sinh năm 1941 tại tỉnh Bạc Liêu. Thân sinh là cụ ông Tô Khanh. Thân mẫu là cụ bà Trần Thị Vén. Gia đình có 5 trai, 5 gái. Hòa thượng là con thứ 8 trong gia đình. Hòa thượng tốt nghiệp Tú Tài và học Cao đẳng Sư phạm. Ra trường đi dạy học ở Cái Côn – Cần Thơ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]