Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu sử HT. Thích Trí Nhãn

09/04/201318:53(Xem: 7916)
Tiểu sử HT. Thích Trí Nhãn

httrinhan

TIỂU SỬ

CỐ ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG Thượng TRÍ Hạ NHÃN
Nguyên trụ trì tổ đình Chúc Thánh, Hội An, Quảng Nam

Đại lão hòa thượng Thích Trí Nhãn thế danh là Đoàn Thảo, pháp danh Như Truyện, tự Giải Lệ, hiệu Thích Trí Nhãn. Ngài sinh ngày 10 tháng giêng năm Kỷ Dậu tức vào năm 1909 dương lịch, tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, Xã Thanh Hà, nay thuộc thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, Thị Xã Hội An.

Ngài là con thứ năm cũng là con út trong một gia đình có truyền thống Phật giáo lâu đời. Cha Ngài là cụ ông Đoàn Nhơn, mẹ là cụ bà Nguyễn Thị Có. Ngài có ba chị gái là Đoàn Thị Hồ, Đoàn Thị Trung, Đoàn Thị Hiếu và một anh trai tên là Đoàn Văn Thức. Người chị thứ ba của Ngài là Đoàn Thị Hiếu hiện giờ còn sống và thọ 99 tuổi.

Gia đình Ngài ở gần chùa Vạn Đức, thân sinh Ngài, cụ Đoàn Nhơn là bổn đạo thuần thành của chùa, thường lui tới lễ tụng. Ngài được theo cha đi chùa từ thuở nhỏ và đã tỏ ra có tiền duyên với đạo. Một lần nhân ngày Phật Đản, Ngài theo gia đình đi chùa và gặp Ngài Tăng Cang Thích Thiện Quả về chứng minh đại lễ tại đây, Ngài cảm mến đức hạnh của Ngài Tăng Cang và xin qui y thọ giới, được Ngài Tăng Cang cho pháp danh là Như Truyện. Năm ấy Ngài mới lên 10 tuổi. Thuở nhỏ Ngài đã học chữ Nho với ông nội và rất có năng khiếu viết chữ. Lúc bấy giờ sự học tập còn rất khó khăn nhưng nhờ hiếu học nên Ngài đã tự tập viết theo tứ thể trong lịch đại bản chữ Hán và viết rất thuần thạo các loại chữ chân, lệ, triện, thảo. Do vậy, Hòa Thượng Tăng Cang, nhân thế danh Ngài là Đoàn Thảo, đã cho Ngài pháp danh là Như Truyện (Truyện là âm đọc lúc bấy giờ của chữ Triện phát âm theo Hán Việt bây giờ). Đến năm 1920, được song thân cho phép, Ngài đã vào chùa Chúc Thánh xin xuất gia. Đến năm 1925 Ngài mới thọ giới Sa Di và được cho pháp tự là Giải Lệ. Đến năm 1933, Ngài được Hòa Thượng Bổn Sư cho thọ giới tỳ kheo và cho pháp hiệu là Trí Nhãn.

Sau khi Ngài đã thọ giới tỳ kheo được một thời gian thì được Hòa Thượng Bổn Sư, Tăng Cang Thích Thiện Quả cử làm phó trụ trì để giúp Hòa Thượng trong vấn đề điều hành công việc chùa. Trong thời gian này, vì tổ đình Vạn Đức lúc bấy giờ không có người nên chư sơn đã cử Ngài kiêm nhiệm làm trụ trì tổ đình Vạn Đức cho mãi đến sau này có Đại đức Thích Trí Nguyên đảm nhiệm, Ngài mới thôi. Đến năm Nhâm Dần 1962, sau khi Hòa Thượng Tăng Cang Thích Thiện Quả viên tịch thì Ngài mới kế nhiệm làm trụ trì tổ đình. Mặc dù trên danh nghĩa là phó trụ trì, nhưng mọi việc trong chùa đều do Ngài đảm đương và giải quyết cả, vì Hòa Thượng Tăng Cang tuổi già sức yếu, lại thường hay đau ốm. Mãi cho đến năm 2001 (Ngài đã 92 tuổi), sau cơn đau nặng, thấy sức không còn đủ đảm đương trọng trách làm trụ trì để lo cho tổ đình, Ngài đã triệu tập chư tăng ni môn phái để thỉnh tân trụ trì và qua cuộc họp ngày 15/6/2001 (24/5/Tân Tỵ) có sự hiện diện đông đủ của chư tôn đức tăng ni trong môn phái, dưới sự chủ tọa của Hòa Thượng Thích Trí Giác, Ngài đã chính thức đề cử Đại Đức Thích Đồng Mẫn thay Ngài kế thế làm trụ trì Tổ Đình và được tất cả chư tăng ni trong môn phái hiện diện trong cuộc họp thống nhất. Như vậy Ngài chính thức làm trụ trì Tổ Đình từ sau khi Hòa Thượng Tăng Cang Thích Thiện Quả viên tịch năm 1962 cho đến năm 2001 là 39 năm. Tuy nhiên, trên thực tế, cả đời Ngài đã gắn liền với chùa Chúc Thánh, ngôi Tổ Đình chính của tôn môn Lâm Tế Chúc Thánh. Và chính sự tồn tại của Tổ Đình với mô hình kiến trúc còn như thời nguyên sơ của nó cho đến ngày nay đã nói lên công đức vô lượng của Ngài. Vì từ khi Ngài đến thế phát xuất gia tại đây vào năm 1920 cho đến trước năm 1975, thì quê hương đất nước chúng ta luôn luôn trong thời khói lửa chiến tranh, và nhất là ở một nơi thuộc vùng tiêu khổ kháng chiến như ở nơi đây. Đến năm 1975 thì Ngài đã 66 tuổi. Mặc dầu vậy, khi điều kiện cho phép thì Ngài cũng đã phát tâm trùng tu lại ngôi tháp tổ khi sơn cao 7 tầng nguy nga hùng vĩ như ngày nay và tháp sư tổ Bổn sư Ngài, Hòa Thượng Tăng Cang Thích Thiện Quả cao 5 tầng.

Về vấn đề tiếp đăng độ chúng, thì số đệ tử xuất gia của Ngài từ trước 1975 cũng rất đông đảo, nhưng sau ngày 30/4/1975 thì một số lớn đã hoàn tục, chỉ còn lại hai vị chính là:

- Đại đức Thích Hạnh Chánh, hiện đang tu học tại Ấn Độ, và

- Đại đức Thích Hạnh Thiện, hiện cũng đang tu học tại chùa Pháp Hoa, Nam Úc.

Ngoài ra, các vị đệ tử y chỉ của Hòa Thượng thì có:

- Thượng tọa Thích Hạnh Thiền, đương kim Ủy viên Kiểm soát BTS/PG/QN. Chánh đại diện PG/Hội An.

- Thượng tọa Thích Hạnh Trí, đương kim Trưởng ban nghi lễ BTS/PG/QN, chánh đại diện PG/Duy Xuyên.

- Đại đức Thích Hạnh Hoa, Trưởng ban Văn Hóa BTS/PG/QN, Phó Ban đại diện PG/Hội An.

- Đại đức Thích Hạnh Nhẫn, Phó Ban đại diện PG/Hội An.

- Đại đức Thích Đồng Mẫn, đương kim trụ trì Tổ đình.

- Đại đức Thích Giải Quảng, Trưởng ban HĐPT/BTS/PG/QN, chánh đại diện PG/Điện Bàn.

- Đại đức Thích Hạnh Minh.

- Đại đức Thích Hạnh Hòa.

Về đệ tử tại gia của Hòa Thượng thì rất nhiều, không thể tính kể hết được.

Với công đức cao dày của Hòa Thượng trong vấn đề duy trì Tổ nghiệp kế vãng tu lai, là một vị đạo cao lạp trưởng, được sơn môn tăng già tấn phong Ngài lên ngôi vị Hòa Thượng. Tại Quảng Nam, Ban Trị Sự Phật giáo tỉnh nhà cũng đã cung thỉnh Ngài làm chứng minh cho BTS.

Theo định luật vô thường sinh diệt, thân tứ đại cũ mục phải trả về cho tứ đại, sau một thời gian dài đau ốm, mặc dầu đã được tận tình lo liệu thuốc men, nhưng vì tuổi hạc quá cao, Ngài đã thâu thần diệt độ vào lúc 1 giờ 15 phút ngày rằm tháng 2 nhuận năm Giáp thân (4/4/2004), hưởng thượng thọ 96 tuổi, 71 hạ lạp, để lại vô vàn thương tiếc cho môn phái, môn đồ, pháp quyến, các cấp Giáo hội cũng như toàn thể đạo hữu Phật tử gần xa.

Hôm nay, trước giờ cung tống kim quan cố Đại lão Hòa thượng nhập bảo tháp, BTC chúng tôi thành kính viết lại đôi dòng tiểu sử của Hòa Thượng để tất cả cùng truy niệm công đức của Ngài đã cống hiến cho đạo pháp, cho môn phái, cho sự tồn tại của Tổ đình Chúc Thánh này, một trong những di tích liệt hạng đã được nhà nước nhận là Di tích lịch sử quốc gia. Ngưỡng mong giác linh Hòa Thượng thùy từ chứng giám.

Nam mô Chúc Thánh tự nguyên trụ trì Tân viên tịch tự Lâm Tế Chánh tôn đệ tứ thập nhất thế húy thượng Như hạ Truyện, tự Giải Lệ, hiệu Trí Nhãn Hòa Thượng Giác linh thùy Giám.

Ban tổ chức Lễ Tang

Cẩn soạn

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/03/2011(Xem: 7158)
Tôi biết tin GS Phạm Công Thiện mất qua trang web viet-studies của GS Trần Hữu Dũng post ngày 10-3. Dòng thông tin được dẫn từ báo Người Việt ở Houston, bang Tesas cho biết theo gia đình và Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất ở Mỹ xác nhận ông mất ngày 9-3-2011, thọ 71 tuổi. Trước khi mất dường như ông đã biết trước cuộc vĩnh ly này nên nhập định rồi ra đi nhẹ nhàng. Ngoài dòng báo tin của báo Người Việt còn bài viết cho người đã mất của nhà văn Viên Linh với tư cách bạn bè.
12/03/2011(Xem: 7331)
Phạm Công thiện, ông là ai? Có nhiều người đã hỏi như thế. Triết gia? Thiền sư? Thi sĩ? Văn sĩ? Hay là một người lang thang rong chơi trong cuộc đời ? Hay là nghệ sĩ với ước vọng thành một tài năng lớn của thế giới? Hoặc là một người đang trong cơn mộng du suốt cả đời? Trần Tuấn Kiệt trong một bài viết trong “Tác Giả Tác Phẩm“, xuất bản cách nay gần bốn chục năm, cũng nói về chân dung người thi sĩ rất mực nghệ sĩ này:
25/02/2011(Xem: 6930)
Lễ huý nhật Ôn Trí Thủ năm 2005 tại Quảng Hương Già Lam
19/02/2011(Xem: 5826)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn, đệ tử của Đệ Lục Tổ Sư Thiên Ấn Tự, Hòa Thượng Tăng Cang Thích Chơn Trung, thế danh Nguyễn Thái Long, pháp danh Như Kế, pháp tự Giải Tích, pháp hiệu Huyền Tôn. Ngài sinh năm Mậu Thìn (1928.Việt lịch: 4807) tại làng Châu Nhai, Huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam. Thân phụ, bán thế xuất gia là Đại Sư thượng Như hạ Quý (1874-1942), Thân mẫu là Cụ bà Thái Thị Túc, pháp danh Như Chỉnh, tự Giải Lý (1891-1945).
13/02/2011(Xem: 19605)
Ca Sĩ Gia Huy, Tên thật của Gia Huy là Đặng Quốc Hung. Anh đến Montreal, Canada vào năm 1991 để cùng đoàn tụ với gia đình. Anh hát lần đầu tiên tại vũ trường Chateau Du Parc tại Montreal. Lúc đó, anh hát với ban nhạc Phạm Mạnh Cường để trình bày những tác phẩm như "Máu Nhuộm Bãi Thượng Hải", "Mười Năm Tình Cũ" và "Lambada". Ngay sau lần trình diễn đầu tiên, Gia Huy trở thành một ấn tượng của dân chúng tại Montreal. Anh bắt đầu hát cho một số vũ trường tại địa phương như Bistro Dore, Miss Sai Gòn, và Đêm Sai Gòn. Tuy nhiên, mục đích của Gia Huy là nổi danh ngoài Canada và khuếch trương số khán thính giả đi khắp thế giới.
30/01/2011(Xem: 6087)
Hòa Thượng Thích Như Điển - Đệ Nhị Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTN Âu Châu - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
14/01/2011(Xem: 6205)
Hòa thượng họ Hồ Đắc, tên Cư, Pháp danh Tâm Thật, Pháp hiệu Thiện Châu, sinh ngày 23 tháng 2 năm 1931 tức ngày 7 tháng 1 năm Tân Mùi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, Tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ Thầy là Cụ Hồ Đắc Phách, thân mẫu là Cụ Nguyễn Thị Cần. Thầy xuất gia năm 16 tuổi (1947) và thọ giới tỳ kheo năm 1952. Bổn sư của Thầy là Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nguyên, Viện chủ Tổ Đình Tây Thiên (Huế).
07/01/2011(Xem: 7058)
Ông vua đầu tiên của nhà Trần và cũng là một thiền sư cư sỹ, Trần Cảnh (Trần Thái Tông) (1218-1277) đã để lại một sự nghiệp chính trị, một dòng văn học bất hủ, đến bây giờ vẫn mãi là kim chỉ nam, ngọn đuốc soi đường trong đêm dài tăm tối, cho những ai tìm phương vượt thoát, lộ trình cho những ai muốn đưa dân tộc tìm tới đỉnh cao của nhân bản và an lạc.
05/01/2011(Xem: 5875)
Về việc Hòa Thượng Đôn Hậu lên núi, ra Bắc trong vụ Tết Mậu Thân được thầy Trí Tựu, Trú Trì chùa Linh Mụ thuật lại như sau: (lúc 12:00 giờ trưa, ngày 12-3-2009 tại chùa Linh Mụ) Vào khoảng quá nửa đêm tối Mồng một Tết Mậu Thân, có một phái đoàn gồm quân nhân và người mặc thường phục đến thăm Ôn. Ôn đang bị bệnh, bệnh suyễn và xuất huyết dạ dày. Thầy ngồi đàng xa. Thầy Trí Lưu, thân phụ của thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, lúc đó là Tri Sự chùa Linh Mụ, ngồi gần Ôn. Họ mời Ôn về Huế họp. Ôn từ chối nói đau không đi được. Họ nói có người đưa Ôn đi. Sau đó người ta gánh Ôn đi trên một chiếc võng, từ chùa Linh Mụ, không về Huế mà rẽ về Chợ Thông thuộc làng An Ninh Hạ, đến La Chữ. Ban ngày núp, nghỉ, ban đêm đi. Sau một tháng đến Seopon giáp giới Lào. Máy bay trực thăng bay trên đầu mà không bắn. Trên đường đi, thiếu lương thực, bị hạm đội Mỹ pháo kích. Nhiều người bị chết vì đói và sốt rét. (Được kể lại sau 1975). Rồi sau đó từ Huế ra Hà Nội mất hết 4 tháng, đi theo đường Mòn Hồ Chí Minh đến
30/12/2010(Xem: 5815)
Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ, Nam Hải Điếu Đồ, sinh trưởng trong gia đình phong kiến quý tộc có nhiều danh vọng, quê gốc ở làng Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Cha và anh của ông giữ những chức vụ quan trọng trong phủ chúa Trịnh. Thời trẻ ông tập ấm một chức quan võ nhỏ của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Năm 1787, Tây Sơn ra Bắc diệt Trịnh, ông bắt đầu thời kỳ “Thập tải phong trần” (Mười năm gió bụi). Sau ông phục vụ nhà Nguyễn, làm đến Hữu Tham tri Bộ Lễ, từng được cử làm chánh sứ đi sứ Trung Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]