Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu sử HT. Thích Trí Nhãn

09/04/201318:53(Xem: 6743)
Tiểu sử HT. Thích Trí Nhãn

httrinhan

TIỂU SỬ

CỐ ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG Thượng TRÍ Hạ NHÃN
Nguyên trụ trì tổ đình Chúc Thánh, Hội An, Quảng Nam

Đại lão hòa thượng Thích Trí Nhãn thế danh là Đoàn Thảo, pháp danh Như Truyện, tự Giải Lệ, hiệu Thích Trí Nhãn. Ngài sinh ngày 10 tháng giêng năm Kỷ Dậu tức vào năm 1909 dương lịch, tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, Xã Thanh Hà, nay thuộc thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, Thị Xã Hội An.

Ngài là con thứ năm cũng là con út trong một gia đình có truyền thống Phật giáo lâu đời. Cha Ngài là cụ ông Đoàn Nhơn, mẹ là cụ bà Nguyễn Thị Có. Ngài có ba chị gái là Đoàn Thị Hồ, Đoàn Thị Trung, Đoàn Thị Hiếu và một anh trai tên là Đoàn Văn Thức. Người chị thứ ba của Ngài là Đoàn Thị Hiếu hiện giờ còn sống và thọ 99 tuổi.

Gia đình Ngài ở gần chùa Vạn Đức, thân sinh Ngài, cụ Đoàn Nhơn là bổn đạo thuần thành của chùa, thường lui tới lễ tụng. Ngài được theo cha đi chùa từ thuở nhỏ và đã tỏ ra có tiền duyên với đạo. Một lần nhân ngày Phật Đản, Ngài theo gia đình đi chùa và gặp Ngài Tăng Cang Thích Thiện Quả về chứng minh đại lễ tại đây, Ngài cảm mến đức hạnh của Ngài Tăng Cang và xin qui y thọ giới, được Ngài Tăng Cang cho pháp danh là Như Truyện. Năm ấy Ngài mới lên 10 tuổi. Thuở nhỏ Ngài đã học chữ Nho với ông nội và rất có năng khiếu viết chữ. Lúc bấy giờ sự học tập còn rất khó khăn nhưng nhờ hiếu học nên Ngài đã tự tập viết theo tứ thể trong lịch đại bản chữ Hán và viết rất thuần thạo các loại chữ chân, lệ, triện, thảo. Do vậy, Hòa Thượng Tăng Cang, nhân thế danh Ngài là Đoàn Thảo, đã cho Ngài pháp danh là Như Truyện (Truyện là âm đọc lúc bấy giờ của chữ Triện phát âm theo Hán Việt bây giờ). Đến năm 1920, được song thân cho phép, Ngài đã vào chùa Chúc Thánh xin xuất gia. Đến năm 1925 Ngài mới thọ giới Sa Di và được cho pháp tự là Giải Lệ. Đến năm 1933, Ngài được Hòa Thượng Bổn Sư cho thọ giới tỳ kheo và cho pháp hiệu là Trí Nhãn.

Sau khi Ngài đã thọ giới tỳ kheo được một thời gian thì được Hòa Thượng Bổn Sư, Tăng Cang Thích Thiện Quả cử làm phó trụ trì để giúp Hòa Thượng trong vấn đề điều hành công việc chùa. Trong thời gian này, vì tổ đình Vạn Đức lúc bấy giờ không có người nên chư sơn đã cử Ngài kiêm nhiệm làm trụ trì tổ đình Vạn Đức cho mãi đến sau này có Đại đức Thích Trí Nguyên đảm nhiệm, Ngài mới thôi. Đến năm Nhâm Dần 1962, sau khi Hòa Thượng Tăng Cang Thích Thiện Quả viên tịch thì Ngài mới kế nhiệm làm trụ trì tổ đình. Mặc dù trên danh nghĩa là phó trụ trì, nhưng mọi việc trong chùa đều do Ngài đảm đương và giải quyết cả, vì Hòa Thượng Tăng Cang tuổi già sức yếu, lại thường hay đau ốm. Mãi cho đến năm 2001 (Ngài đã 92 tuổi), sau cơn đau nặng, thấy sức không còn đủ đảm đương trọng trách làm trụ trì để lo cho tổ đình, Ngài đã triệu tập chư tăng ni môn phái để thỉnh tân trụ trì và qua cuộc họp ngày 15/6/2001 (24/5/Tân Tỵ) có sự hiện diện đông đủ của chư tôn đức tăng ni trong môn phái, dưới sự chủ tọa của Hòa Thượng Thích Trí Giác, Ngài đã chính thức đề cử Đại Đức Thích Đồng Mẫn thay Ngài kế thế làm trụ trì Tổ Đình và được tất cả chư tăng ni trong môn phái hiện diện trong cuộc họp thống nhất. Như vậy Ngài chính thức làm trụ trì Tổ Đình từ sau khi Hòa Thượng Tăng Cang Thích Thiện Quả viên tịch năm 1962 cho đến năm 2001 là 39 năm. Tuy nhiên, trên thực tế, cả đời Ngài đã gắn liền với chùa Chúc Thánh, ngôi Tổ Đình chính của tôn môn Lâm Tế Chúc Thánh. Và chính sự tồn tại của Tổ Đình với mô hình kiến trúc còn như thời nguyên sơ của nó cho đến ngày nay đã nói lên công đức vô lượng của Ngài. Vì từ khi Ngài đến thế phát xuất gia tại đây vào năm 1920 cho đến trước năm 1975, thì quê hương đất nước chúng ta luôn luôn trong thời khói lửa chiến tranh, và nhất là ở một nơi thuộc vùng tiêu khổ kháng chiến như ở nơi đây. Đến năm 1975 thì Ngài đã 66 tuổi. Mặc dầu vậy, khi điều kiện cho phép thì Ngài cũng đã phát tâm trùng tu lại ngôi tháp tổ khi sơn cao 7 tầng nguy nga hùng vĩ như ngày nay và tháp sư tổ Bổn sư Ngài, Hòa Thượng Tăng Cang Thích Thiện Quả cao 5 tầng.

Về vấn đề tiếp đăng độ chúng, thì số đệ tử xuất gia của Ngài từ trước 1975 cũng rất đông đảo, nhưng sau ngày 30/4/1975 thì một số lớn đã hoàn tục, chỉ còn lại hai vị chính là:

- Đại đức Thích Hạnh Chánh, hiện đang tu học tại Ấn Độ, và

- Đại đức Thích Hạnh Thiện, hiện cũng đang tu học tại chùa Pháp Hoa, Nam Úc.

Ngoài ra, các vị đệ tử y chỉ của Hòa Thượng thì có:

- Thượng tọa Thích Hạnh Thiền, đương kim Ủy viên Kiểm soát BTS/PG/QN. Chánh đại diện PG/Hội An.

- Thượng tọa Thích Hạnh Trí, đương kim Trưởng ban nghi lễ BTS/PG/QN, chánh đại diện PG/Duy Xuyên.

- Đại đức Thích Hạnh Hoa, Trưởng ban Văn Hóa BTS/PG/QN, Phó Ban đại diện PG/Hội An.

- Đại đức Thích Hạnh Nhẫn, Phó Ban đại diện PG/Hội An.

- Đại đức Thích Đồng Mẫn, đương kim trụ trì Tổ đình.

- Đại đức Thích Giải Quảng, Trưởng ban HĐPT/BTS/PG/QN, chánh đại diện PG/Điện Bàn.

- Đại đức Thích Hạnh Minh.

- Đại đức Thích Hạnh Hòa.

Về đệ tử tại gia của Hòa Thượng thì rất nhiều, không thể tính kể hết được.

Với công đức cao dày của Hòa Thượng trong vấn đề duy trì Tổ nghiệp kế vãng tu lai, là một vị đạo cao lạp trưởng, được sơn môn tăng già tấn phong Ngài lên ngôi vị Hòa Thượng. Tại Quảng Nam, Ban Trị Sự Phật giáo tỉnh nhà cũng đã cung thỉnh Ngài làm chứng minh cho BTS.

Theo định luật vô thường sinh diệt, thân tứ đại cũ mục phải trả về cho tứ đại, sau một thời gian dài đau ốm, mặc dầu đã được tận tình lo liệu thuốc men, nhưng vì tuổi hạc quá cao, Ngài đã thâu thần diệt độ vào lúc 1 giờ 15 phút ngày rằm tháng 2 nhuận năm Giáp thân (4/4/2004), hưởng thượng thọ 96 tuổi, 71 hạ lạp, để lại vô vàn thương tiếc cho môn phái, môn đồ, pháp quyến, các cấp Giáo hội cũng như toàn thể đạo hữu Phật tử gần xa.

Hôm nay, trước giờ cung tống kim quan cố Đại lão Hòa thượng nhập bảo tháp, BTC chúng tôi thành kính viết lại đôi dòng tiểu sử của Hòa Thượng để tất cả cùng truy niệm công đức của Ngài đã cống hiến cho đạo pháp, cho môn phái, cho sự tồn tại của Tổ đình Chúc Thánh này, một trong những di tích liệt hạng đã được nhà nước nhận là Di tích lịch sử quốc gia. Ngưỡng mong giác linh Hòa Thượng thùy từ chứng giám.

Nam mô Chúc Thánh tự nguyên trụ trì Tân viên tịch tự Lâm Tế Chánh tôn đệ tứ thập nhất thế húy thượng Như hạ Truyện, tự Giải Lệ, hiệu Trí Nhãn Hòa Thượng Giác linh thùy Giám.

Ban tổ chức Lễ Tang

Cẩn soạn

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 6908)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 859)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 33812)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 4712)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 4658)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 4618)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 4580)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 4895)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 4622)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7570)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567