Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kính tiễn biệt Thầy

09/04/201318:39(Xem: 6999)
Kính tiễn biệt Thầy

 

htdn

Giác linh Thầy tôn kính

Giờ phút Thầy an nhiên xả báo thân, thì bên này hơn nữa đêm. Một Phật tử của Thầy ở miền Đông nước Mỹ, giọng đầm đìa nước mắt, khấp báo cho tôi tin Thầy đã từ biệt, lệ tiếc thương như tràn ngập, khắp đó khấp đây. Rồi Tuệ Sỹ, một hậu tấn, kẻ đồng tâm dễ thương của Thầy, mà tôi thường ví như một hạt kim cương hiếm hoi lẫn trong đá sỏi của Phật Giáo Việt Nam ngày nay, trong nổi cô quạnh bao la vừa sau một mất mát lớn lao đã ai tín cho tôi bằng lá thư không niêm mà tôi biết mỗi chữ cũng trĩu nặng nổi lòng.

Thầy đã sống một cuộc đời xứng đáng, phẩm cách vằng vặc như trăng rằm, chân tình rạt rào như sóng biển, để nay trong cuộc giã biệt này ai mà không tiếc, không thương, không tôn kính Thầy với hằng sa cảm xúc. "Thầy ra đi rất nhẹ nhàng" Đó phải chăng là cách sống trọn một đời dài của Thầy. Thầy nằm như đang ngủ, với gương mặt từ hòa, an nhiên. Đó phải chăng cũng là tất cả những gì có thực nơi Thầy mà chúng tôi hằng gặp gỡ.

Trong lặng lẽ, Thầy là gốc trầm thơm nơi núi sâu, là chiếc cột âm thầm chống đỡ ngôi nhà Việt Phật giữa ngữa nghiêng, là hơi thở hy vọng của một thế trận rã rời. Thầy sống như thế và cũng đã ra đi như thế.

Tuổi già, hạt lệ khô tưởng là khó chảy thành một giòng đau trước nổi niềm bao la thương cảm. Mà không, đôi mắt đã không từng dửng dưng với đời cũ đã rạt rào lệ xót trước niềm đau mới này. Một chia biệt rất bình thường nhưng rất đổi đột ngột, ngậm ngùi. Từ lúc biết rằng Thầy đã thực sự ra đi, tôi hay nhìn vào khoảng không bên ngoài cửa sổ, như lụt lội một dấu vết quen và tôi đã khóc, khóc Thầy bằng hai con mắt tin cậy từ lâu của tôi, về một sự vắng bóng đã mang theo rất nhiều kỳ vọng.

Nơi Thầy Chí cao- Nguyện lớn và Hùng tâm vẫn bằng lòng trú ngụ trong một thân xác khiêm tốn, nơi một đời sống hàng ngày đạm bạc, nơi một trái tim lúc nào cũng vui nghĩ tới người và mãi miết tìm hội cơ phụng sự. Việt Nam, trong "thời đại" của nữa cuối thế kỷ hai mươi, nếu có diễm phúc thấm nhuần chút nào "chất Phật" thì đó là một phần công lao đóng góp của Thầy, một người lúc nào cũng tha thiết "đem Phật về ngụ giữa đời" Thầy tình nguyện làm thân thuyền để chở Đạo và Đời, mời mọc ân cần những tâm hồn đời cảm rung theo lối đạo, khiến cho khu vườn thế gian một dạo thơm lừng hương Pháp. Làm báo, viết văn, soạn sách.cũng là để chở cái lý tưởng phụng sự nhân thế bằng con đường Phật, đem hạt giống "Tinh Hoa Phật học" gieo trồng trên miếng đất phàm lụy cho con người dài thêm tay hái! Thầy là ngọn đèn Pháp còn đầy dầu giữa đêm đông của Đạo, là ánh đuốc hùng tâm giữa bóng tối của Đời. Vắng Thầy rồi,

Đạo Pháp và Quê Hương có còn một hy vọng đổi thay? Chữ nghĩa tôi hôm nay được nói ra về Thầy, nhiều khi cũng trở thành trống rỗng, không đủ biểu trưng cho ý nghĩa của Một Cuộc Đời.

Thầy ơi, từ lâu, trong âm thầm tôi vẫn đợi một buổi trùng phùng với Thầy nơi quê cũ để mà tâm sự cho nỗi nhớ niềm mong. "Năm mươi năm ấy là bao nhiêu tình?" Từ một chỗ ngồi chung dưới gốc nhãn trên sân chùa Báo Quốc, tới những ngày Saigon thanh bạch dấn thân vào việc Đạo, đến những năm tháng lo toan cho tính mệnh Phật pháp và Quê hương qua tuyên ngôn "hóa giải"..Có phải lần cuối tôi với Thầy còn đi được với nhau là trên những chiếc xích-lô máy qua lại giữa một Saigon đã mất tên với những bao gạo nặng tình đi thăm những văn nghệ sỹ thân hữu đang lạc lõng giữa cuộc đổi đời! Bây giờ, Thầy đã đi trước, rồi thì nỗi đợi của tôi chỉ còn là niềm hờn tủi.

Ở nơi xa, tôi cúi đầu xin vọng bái Giác Linh Thầy một tâm thức hoàn toàn tự do và giải thoát đã có lúc mượn tướng để vào đời, hành Bồ tát hạnh, và nay an nhiên trở về tịnh địa.

Kính tiễn biệt Thầy!

Thích Mãn Giác.




-- o0o --


| Những sáng tác của Hòa Thượng Thích Đức NHuận |

-- o0o --

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 8326)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 5371)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 5837)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 6814)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 7502)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 5069)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 6505)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 6482)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 14369)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 13154)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]