Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

53. Một thời (Thiện Căn Phạm Hồng Sáu)

17/06/201408:36(Xem: 19990)
53. Một thời (Thiện Căn Phạm Hồng Sáu)

 (Để nhớ đến vị Thầy đầu tiên nơi đất mới)

  Thiện Căn Phạm Hồng Sáu

 

Tôi rời miền Nam Việt Nam đang giữa mùa Đông năm 1978. Những đám mây đen của buổi chiều ngày 19 tháng 11 cộng với những cơn gió Bắc thổi cực mạnh, đường sá, phố xá vắng ngắt tiêu điều. cảnh buồn mà lòng người lại càng buồn hơn, khi phải ngậm ngùi nhỏ lệ để bỏ lại quê hương, mất tất cả những ngày xanh của tuổi trẻ hứa hẹn cho tương lai và cả cho những người già định yên thân mồ mả… Đời sẽ ra sao, biết trôi dạt về đâu !?.... Bão tố hãi hùng, thân chìm dưới đáy biển ?!.., bất chấp sự không may nếu gặp phải những con hung ngư xé xác, banh thây hay sự kinh hoàng lâm vào tay thảo khấu ?!... Tất cả và tất cả đã bỏ lại sau lưng để đổi lấy „Quyền làm người“ và hai chữ „Tự do“ sau ngày 30 tháng 04 năm 1975, miền Nam Việt Nam lọt vào tay Cộng sản miền Bắc.

 Những lênh đênh vất vả, hiểm nguy trong cuộc hành trình đầy đau thương, nghiệt ngã nơi biển cả bao la với sóng gào gió thét, rồi cũng nhờ Phật Trời gia hộ nên cha con chúng tôi cùng những đồng bào, đồng hương đã vượt qua để tới được đảo Kochang, một hòn đảo nhỏ nằm ngoài khơi bờ biển Thái Lan. Và cũng nhờ lòng nhân đạo của nước Cộng Hòa Liên Bang Tây Đức lúc bấy giờ do ngài Thủ Tướng Helmut Schmitdt (SPD) và đặc biệt là ngài Ernst Albercht (CDU) Thủ Hiến Tiểu Bang Niedersachsen đã hứa khả nhận tất cả số người trên tàu của chúng tôi vào định cư ở Tiểu Bang do ngài lãnh đạo, nhờ vậy nên chính quyền Thái Lan không làm khó dễ, cho chúng tôi được phép lên bờ và tạm trú tại trại tỵ nạn Songkhla, một khu trại trước đây dùng làm trung tâm huấn luyện Biệt kích Thái nằm dọc theo triền núi đã bỏ hoang rất lâu và sau đó 10 ngày chúng tôi rời trại nầy để được „Ngày đi xứ lạ“ nhanh hơn so với những trại tỵ nạn các nơi khác.

Sau cơn mưa mùa buổi sáng ngày 12 tháng 12 năm 1978, lúc 09 giờ sáng, trước khi được thông báo có phi cơ của chính phủ Tây Đức sẽ hạ cánh xuống phi trường Hadyai tại tỉnh Songkhla để rước chúng tôi, Ban Quản Trại sắp xếp chia số người chúng tôi ra đi làm hai đợt, đợt đầu đi trước đợt sau một ngày và đoàn xe Bus của trại đã đến chờ chúng tôi ngoài cổng trại để chở bà con đi đợt đầu của chúng tôi ra phi trường. Tôi và đứa con trai của tôi được đi trong đợt đầu đó. (Phần nầy tôi đã viết chi tiết trong cuốn Nhật ký Hải hành "Một chuyến đi“ nên ở đây chỉ xin tóm tắt).

Đối với bà con đồng hương và tôi nỗi vui mừng có đến, nhưng trong thâm tâm không khỏi những ưu tư, lo lắng dạt dào… Bởi vì từ đây phải từ giã châu Á và quê hương Việt Nam thân thương của mình để chịu sự xa cách nghìn trùng, bỏ lại sau lưng những cao sơn hùng vĩ của ông cha đứng lặng lờ khi bóng chiều buông xuống và những dòng sông xanh nên thơ của bà mẹ nước chảy hiền hòa.

Những giọt nước mắt của bà con chúng tôi tự dưng rơi xuống trong ngậm ngùi và nghẹn ngào thốt lên thành tiếng than ai oán: - Thôi ta đã xa hết rồi !... Thương lắm bầy em ra đón bánh ven sông mỗi khi tan chợ có mẹ theo đò về, nhớ những ngày vui năm nào, khi Tết đến, hội hè, đình đám… Bữa sân trường mùa hè phượng nở, ve kêu… Tất cả và tất cả, nay đã nằm lại trong mây khói hắt hiu xa mờ.

Những nuối tiếc, buồn vui ngây ngất nhớ đến những chuyện thuở nào rồi cũng mau qua, khi tất cả bà con chúng tôi đã lên phi cơ và ngồi yên trong lòng của nó để chờ giờ cất cánh.

 Phi cơ đã rời phi đạo, bay trong một thời gian, tính ra cũng được khá lâu, tôi nhìn ra ngoài không gian bầu trời hãy còn tối và cảm thấy cái lạnh xâm lấn vào người, tôi đưa mắt nhìn xuống đất thấy ánh sáng lấp lánh lung linh muôn màu như một bầu trời sao đang xuất hiện. Bất chợt thấy cô chiêu đãi viên hàng không đi chậm rãi đến quan sát từng hàng ghế, bảo mọi người phải thắt dây an toàn nơi bụng và phi cơ bắt đầu giảm tốc độ, bay đảo quanh mấy vòng rồi từ từ đáp xuống đất.

Phi trường Hannover, cái địa danh ấy từ quê nhà tôi chưa từng nghe ai nói đến, tôi chỉ nghe nói đến Bá Linh (Berlin) hay Bonn là thủ phủ cũ, mới của Cộng Hòa Liên Bang Tây Đức, (CHLB/TĐ) nhưng rồi tôi cũng tự nhủ lòng mình: – Thôi thì đến đâu cũng được, miễn sao ở được đất nước tự do và nơi đó cho mình cùng tất cả bà con đồng hương của mình có cuộc sống ấm no, nhân bản là đủ rồi.

Phi cơ đáp xuống phi trường Hannover và chuyển hướng chạy đến đậu vào chỗ dành riêng cho hành khách xuống, trong khi mọi người đang ngồi để chờ sự cho phép của vị Chỉ huy phi hành đoàn (Capitan) cho xuống, người đầu tiên tôi gặp là Bác sĩ Nguyễn Xuân Trang, ông ta có khổ người trung trung, ốm ốm, nước da hơi trắng, mặt mày sáng sủa, tướng bộ thông minh và còn rất trẻ, ông ta đến chào mừng và thăm hỏi bà con mới đến. Tôi chưa hiểu được ông ta về chính kiến, chỉ biết rằng ông là Bác sĩ có nhiệm vụ chăm lo sức khỏe cho bà con Việt Nam tỵ nạn. Tự nhiên trong lòng tôi dấy lên niềm vui mừng và sự hãnh diện, bởi lẽ ở đất nước nầy vẫn có người Việt Nam của mình làm Bác sĩ. Sẵn dịp ông đến chỗ tôi đang ngồi, tôi gióng tiếng hỏi thăm chút đỉnh về ông, mới biết rằng ông là Sinh viên đi du học trong thời chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), người miền Nam và quê quán ở Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.

Người thứ nhì là một vị Sư rất trẻ cũng người Việt Nam, gọn ghẽ trong bộ tràng phục màu lam, người miền Trung nói giọng Quảng Nam đến từng hàng ghế, dừng lại chào mừng và hỏi thăm sức khỏe bà con. Bỗng dưng tôi cảm thấy thân tâm mình nhẹ nhỏm hẵn lên, bởi tôi nghĩ rằng mình có duyên may nên đến nơi nầy vẫn được gần Tam Bảo. Sau nầy tôi mới biết đó là Đại Đức Thích Như Điển, Thầy ấy cũng là một sinh viên được Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) thời VNCH gởi đi du học tại Nhật Bản, qua Tây Đức thăm bạn là anh Văn Công Trâm (lúc đó cũng là sinh viên đang đi du học, sau ra trường thành Bác sĩ) người cùng quê theo lời mời, rồi sẵn dịp có nhiều bà con Việt Nam đến tỵ nạn, Thầy xin tỵ nạn ở lại đây luôn để lo hướng dẫn và chăm sóc đời sống tinh thần cho bà con của mình.

Nói về tôi, tràng phục màu lam hay màu nâu sồng đó đã rất quen thân đối với tôi từ khi tôi còn thơ ấu và ngay cả lúc lớn lên, trong cuộc đời hải nghiệp bềnh bồng trên sông nước tôi thường gặp mỗi khi có dịp đi lễ Chùa, mỗi khi đến ngày lễ Phật, có khi ngay cả trên đường quê, đường phố hay những lúc giang hành trên những dòng sông nơi quê hương, nhưng sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đời, đạo của tôi bắt đầu lặng lẽ, sống lao lung trong cảnh cải tạo, đọa đày ở những nơi nước mặn phèn chua, nơi núi rừng hoang dã và cả quyền công dân của mình cũng bị tước đọat, muốn đi đâu phải có giấy phép lận theo trong người nên cảnh chùa chiền tôi không còn lui, tới thường xuyên như trước nữa. Không phải trong lòng tôi đã mất niềm tin, nhưng tôi muốn tránh sự liên lụy hay sự không may có thể xảy đến cho chính bản thân mình và gây phiền toái cho những người xuất gia đang tu hành nơi cửa Phật. Cộng Sản đã nói: „ Tôn giáo là bùa mê, thuốc lú cần phải tiêu trừ“ cũng như thời Cộng sản ở xứ Nga (tức Liên Xô bây giờ) chỉ riêng về tôn giáo, Vladmir Lenin đã biểu lộ một thái độ thẳng tay không khoan nhượng và hết sức độc ác. Chính Lenin là người khởi xướng bốn chiến dịch rộng lớn nhằm chống Chính Thống Giáo (Orthodox) một tôn giáo có tầm quan trọng bậc nhất ở xứ Nga.

- Chiến dịch đầu tiên từ tháng 11 năm 1917 đến năm 1919 : bắt đầu đóng cửa các Tu viện và một số nhà Thờ, tịch thu tài sản và tước quyền pháp nhân của Giáo hội.

- Chiến dịch thứ hai từ năm 1919 đến năm 1920: Khai quật thi hài các Thánh.

- Chiến dịch thứ ba từ cuối năm 1920. Chia rẽ Giáo hội Chính Thống Giáo, làm cho Giáo hội phân rẽ từ bên trong.

- Chiến dịch thứ tư: Từ đầu năm 1922: Cướp bóc hay nói theo từ ngữ của Lenin „ quét sạch“ tất cả các nhà thờ „giàu có“ đồng thời bắn chết với số lượng tối đa các nhà tu hành của Chính Thống Giáo.

(Tham khảo bài „Không có Thánh giá“ của Sử gia kiêm nhà báo nổi tiếng của Nga Atonoli Latyser đăng trên báo „Rossikaya Gazeta“ của Nga ngày 24.10.1929).

Chủ thuyết nầy của Vladmir Lenin đã được Cộng sản Việt Nam đánh giá trị cao và lấy nó làm cẩm nang thực hiện chính sách trị dân, đồng thời tôn thờ Lenin như một vị Tổ khai sáng, nên hiện nay ở miền Bắc Việt Nam có con suối đặt tên suối Lenin và một ngọn núi đặt tên Karl-Marx để ghi nhớ thâm ơn đồng thời kỷ niệm hai ông Tổ chủ thuyết Cộng sản của mình.

Trong buổi giao thời nơi đất khách, quê người xa lạ gặp được hai người nói trên đã cho tôi niềm vui mừng khó tả và cảm thấy mình có được hai sinh quan:

- Một người, người miền Nam ở Mỹ Tho cùng quê quán với vợ và một người ở miền Trung quê quán Quảng Nam cùng với mình. Lòng phấn khởi, tôi đứng dậy nắm chặt tay con tôi nối theo sau các đồng hương rời khỏi chỗ ngồi, đi dần đến cửa phi cơ để cùng họ đi xuống.

Sau thời khắc lễ nghi nghênh đón người mới đến của Đại diện Chính quyền Tiểu Bang Niedersachsen, nhân viên Caritas cùng với các anh chị em Sinh viên Việt Nam đang du học tại Tây Đức trong phòng tiếp tân ở phi trường, rồi chúng tôi rời nơi đó lên xe Bus để họ chở về cho tạm trú trại tỵ nạn Friedland (Đất Lành) gần thành phố Göttingen thuộc miền Trung nước Đức, mọi người trong lòng rất hân hoan nhưng cũng không khỏi những lo âu, buồn tủi cho số phận của mình.

Thắm thoát vào giữa tháng hai năm 1979, tính ra chúng tôi rời xa quê hương chưa đầy ba tháng, nay Tết Mậu Ngọ đến. Ngoài trời tuyết đã bớt rơi, đường sá thấy trống trải hơn, không còn tuyết phủ ngập như những ngày qua, nhưng cái lạnh vẫn còn lưu lại khắp đó đây trong không gian và trong cảnh vật.

Chiều hôm qua, trước một ngày sẽ đến đêm Giao thừa, có Đại Đức Thích Như Điển đến trại Đất Lành thăm viếng và làm lễ Cầu an cho bà con trong trại. Phòng ăn rộng rãi dành cho người tỵ nạn của trại được dọn dẹp sạch sẽ, bàn ghế chất lại gọn gàn để vào một nơi khác. Một bàn Phật được thiết trí trang nghiêm đặt ở trước bức tường nơi cuối phòng ăn, từ cửa chánh nhìn vào. Trên chiếc bàn trải khăn màu vàng, giữa bàn đặt tượng đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni và phía sau có tượng Phật A Di Đà, trên bàn phía trước các tượng Phật đặt lư cắm nhang, hai bên có đèn nhiều màu sắc… Tuy đơn sơ, giản dị, nhưng đối với bà con chúng tôi mới đến xứ người xa lạ nầy thì đó cũng đủ để cho tâm tư mình lắng xuống hướng về với Phật, nhớ quê hương trong buổi xuân về.

Với bộ y vàng của Thầy khi mặc hành lễ, khiến bà con chúng tôi ai nấy có cảm tưởng như đang ở trên quê hương, đất Tổ của mình và năm mới đi Chùa lễ Phật. Tiếng mõ, hồi chuông trầm bổng cảnh tỉnh hồn mê, tan biến ưu tư, phiền muộn, xoa diệu những lao đao vất vả trong các ngày hành trình. Bà con chúng tôi ai nấy đứng nghiêm trang chấp tay nguyện cầu trước Tam Bảo, xin cho quê hương được sớm thanh bình, người thân còn ở lại được vạn sự bình an, hạnh phúc và ngày trở về đất Mẹ mau chóng đến.

Tôi thủ chuông, anh Nha sĩ Khải (*) thủ mõ, mặc dù đã lâu lắm gặp những chướng duyên của thời thế, tôi và anh ít khi có dịp được làm công việc chuông, mõ nầy ở chùa, tuy vậy chúng tôi cũng không đến nỗi vấp phải nhiều nhịp lỗi. 

Buổi lễ Phật cầu an chấm dứt, Thầy đứng dậy chắp tay xây mặt lại nói lời chúc mừng năm mới đến cho bà con, nhắc lại những sinh họat rộn rịp vào dịp Tết ở quê hương mình, khiến bà con ai nấy đứng lặng yên vừa mừng vừa tủi thân rơi lệ. Bà con chúng tôi khóc không phải khóc vì hận thù mà khóc vì đã bỏ lại quê hương, mang theo vô vàn thương nhớ với bao nỗi ai oán, nghiệt ngã của cuộc đổi đời.

Lúc bấy giờ Thầy Như Điển là vị tu sĩ Phật Giáo Việt Nam trẻ tuổi duy nhất có mặt tại Tây Đức nầy, là người cứu cánh tinh thần cho những người đạo giáo có một không hai của chúng tôi, nên khi tan lễ Thầy ra về, bà con chúng tôi ai nấy đứng trông theo, luyến tiếc những giây phút có mặt Thầy ở đây sao mà ấm cúng quá !...

 

Để kỷ niệm lần đầu tới trại Đất Lành nhân mùa Tết đến, Thầy đã viết tặng cho tôi hai câu đối chữ Nho, mãi cho đến bây giờ tôi vẫn còn giữ lại, để nghiền ngẫm về một cái Tết tha phương một thời:

 

Xuân đáo bách hoa khai ư hải ngoại,

Thu lai thiên diệp mãn cố hương tha!...

 

Dịch ra Việt ngữ:

 

Xuân đến đất người hoa hé nở,

Thu về quê mẹ lá vàng rơi !...

 

 Là ký ức, là thời gian của tôi nơi trại tỵ nạn Đất Lành (Friedland) năm Mậu Ngọ 1979.

 

Willich tháng 05 năm 2014

Thiện Căn Phạm hồng Sáu

 

 (*) Nha sĩ Trần Đình Khải là Thiếu Tá Quân Y sĩ QLVNCH, tại Bệnh viện 3 Dã chiến Mỹ Tho. Ngoài ra anh cũng có phòng mạch riêng tại TP đó.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/06/2019(Xem: 18690)
Trang nhà Quảng Đức vừa nhận được tin buồn: Hòa Thượng Thích Quảng Thanh (1951-2019),Thế danh: Dương Thanh Tùng, sinh quán: Thanh Lương, Bình Thuận. Ngài là một thi sĩ nổi tiếng với bút danh Thanh Trí Cao. HT là Viện Chủ Chùa Bảo Quang, Santa Ana Đ, miền nam California, Hoa Kỳ, Ngài đã thu thần viên tịch tại Chùa Bảo Quang. vào lúc 12:46am, Chủ Nhật, Ngày 9 Tháng 6 Năm 2019 (Nhằm Ngày 7 Tháng 5 Năm Kỷ Hợi) * Trụ thế: 68 năm & 44 Hạ Lạp. Chương trình tang lễ của Ngài sẽ được công bố sớm. Chúng con thành kính nguyện cầu Giác Linh Hòa Thượng Cao Đăng Phật Quốc. Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật
24/05/2019(Xem: 9541)
“Xây chùa, tô tượng, đúc chuông Ba công đức ấy thập phương nên làm” “Phật Pháp xương minh do Tăng Già hoằng hóa Thiền môn hưng thịnh bởi Đàn Việt phát tâm”. Tu Viện Quảng Đức là ngôi nhà tâm linh cho cộng đồng người Việt từ năm 1990 tại vùng Tây-Bắc Melbourne, Úc Châu, và đến năm 2003 trong lễ Khánh Thành đã có tôn tượng Đức Phật Thích Ca thiền định trên tòa sen,
18/05/2019(Xem: 6385)
Cố chơn linh NGUYỄN VĂN BỐNSanh ngày: 20. 02. 1929 (11. 01. Kỷ Tỵ) tại thôn Đại Điền Đông, Diên Điền, Diên Khánh - Khánh Hòa. Trong một gia đình chánh tín Tam Bảo, là người con trai duy nhất trong năm chị em. Nội tổ Phụ qua đời khi Cố chơn linh lên 07 tuổi Lên năm 10 tuổi xuất gia tu học tại Tổ đình Chùa Thiên Quang, nay thuộc thị trấn Diên Khánh. Khánh Hòa. Qui y thọ phái, được Tổ Nhơn Duệ thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 42 cho Pháp danh là Tâm Biên. Năm 14 tuổi Tổ cho đi thọ giới Sa Di tại giới đàn Chùa Kim Long, thôn Phú Hòa, xã Ninh Quang- Khánh Hòa và Tổ cho Pháp Tự là Thiện Hiền.
11/05/2019(Xem: 6438)
Nhân duyên từ chiếc đàn Xuất thân từ vùng đất Hobart, thủ phủ và cũng là thành phố lớn nhất bang Tasmania (Úc), có niềm đam mê piano sâu sắc và được biết đến như là một trong những nghệ sĩ nhạc jazz có phong cách ngẫu hứng và tự phát trong biểu diễn, Tom Vincent luôn mang đến cho khán giả các cung bậc cảm xúc khó tả khi xuất hiện trên sân khấu. Đặc biệt, có những lúc biểu diễn, anh lại hình thành thói quen trò chuyện với khán giả trong khi các ngón tay chạy từ phím nhạc này sang phím nhạc khác
03/05/2019(Xem: 6981)
Hoà thượng họ Vũ, huý là Thanh Quát, pháp hiệu là Thích Trung Quán, sinh trưởng trong một gia đình thiện lương làm nông. Cụ ông là Vũ Đình Duật và cụ bà là Nguyễn Thị Nhiên. Ngài ra đời vào ngày 9 tháng 6 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Hạ Kỳ, phủ Nghĩa Hưng, Tỉnh Nam Định, Bắc Việt. Gia đình gồm bốn người con, hai trai và hai gái. Ngài là người con trai thứ hai trong gia đình.
02/05/2019(Xem: 10047)
Trang Nhà Quảng Đức vừa nhận được tin L Ni Trưởng Thích Nữ Như Châu, Trụ trì Tổ đình Huê Lâm, Sài Gòn, vừa viên tịch Ủy viên Thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương GHPGVN Phó trưởng Phân ban Ni giới Trung ương GHPGVN Phó trưởng Ban trị sự GHPGVN Thành phố Hồ Chí Minh Trưởng Phân ban Ni giới GHPGVN Thành phố Hồ Chí Minh Trụ trì Tổ đình Huê Lâm (Quận 11, TP. Hồ Chí Minh) Trụ trì Pháp Hoa Tịnh viện (Lâm Đồng)
01/05/2019(Xem: 9585)
HÒA THƯỢNG THÍCH NGUYÊN NHƯ Thành Viên Cố Vấn Giáo Hạnh Gia Đình Phật Tử Gia Định, Việt Nam Cố Vấn Giáo Hạnh Gia Đình Phật Tử Đức Thành Trụ trì chùa Tập Thành – Quận Bình Thạnh – Sài Gòn. Đã thu thần thị tịch lúc 16g36′ ngày 29/4/2019 Nhằm ngày 25 tháng 3 năm Kỷ Hợi Tại Tập Thành Cổ Tự – Quận Bình Thạnh – Sài Gòn Trụ thế 74 năm – 54 Hạ lạp. Lễ Nhập Kim Quan lúc 08g00 ngày 30/4/2019 (26.3. Kỷ Hợi) Tôn trí kim quan tại Tập Thành Cổ Tự, số 133 đường Ngô Đức Kế, phường 12, quận Bình Thạnh – Sài Gòn. Lễ Tưởng Niệm – Di Quan lúc 06g00 ngày 3/5/2019 (29.3. Kỷ Hợi) Sau đó cử hành Lễ Trà Tỳ tại đài hỏa táng nghĩa trang Phúc An Viên, quận 9, Sài Gòn. Nhất tâm nguyện cầu Giác Linh Cố Hòa Thượng CAO ĐĂNG PHẬT QUỐC
26/04/2019(Xem: 5782)
Chánh Trí Mai Thọ Truyền - một nhà Nho uyên bác, kiến thức tinh thông, quán triệt tư tưởng cả Nho - Lão - Phật. Ông xuất thân trên xứ dừa Đồng Khởi, nơi phát khởi bao tấm lòng yêu nước hy sinh của nhiều thế hệ. Là một nhân sĩ trí thức, có học vị cao, chức vụ lớn trong xã hội, nhưng Ông luôn nhân hậu với mọi người, chính trực trong công việc, từ hòa trong giao tiếp, đời sống thanh khiết, giản dị, luôn khắc kỹ bản thân. Khi bước vào đạo, Ông thọ Tam quy ngũ giới và được đặt pháp danh “Chánh Trí” từ Hòa thượng Thích Hành Trụ - một danh tăng kiệt xuất trong chốn tòng lâm phạm vũ của Phật giáo Việt Nam.
23/04/2019(Xem: 6929)
Cụ Chánh Trí – Mai Thọ Truyền ( Cụ - Cụ Chánh Trí ) sinh năm Ất Tỵ ( 1905 – 1973 ) , tại làng Long Mỹ , nay thuộc huyện Giồng Trôm tỉnh Bến Tre.Ngày Cụ sinh ra, chỉ chưa đầy 30 năm trước đó thôi, triều đình nhà Nguyễn đã ký hòa ước Nhâm Tuất , nhường sáu tỉnh Miền Nam ( Thường được quen gọi là “Nam Kỳ Lục Tỉnh” ) cho thực dân Pháp, trong đó có quê hương Bến Tre của Cụ. Suốt cả quảng đời từ sơ học đến tiểu học, Cụ được học hành đầy đủ theo chương trình giáo dục hiện thời. Có lẽ, với sở học và trí phán đoán nhậy bén của mình, Cụ Chánh Trí không khỏi chạnh lòng khi liên tưởng các diễn biến lịch sử trên nơi mình sinh ra, để khi có điều kiện, lê
14/04/2019(Xem: 6445)
Với anh em chúng tôi, những người thuộc thế hệ kế thừa, sống và dấn thân cho lý tưởng Đạo Pháp – Dân Tộc trong các đoàn thể Thanh Niên Phật giáo, đặc biệt Gia Đình Phật Tử, Bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám – 1897 - 1969( Từ đây xin tạm gọi bằng Pháp danh Tâm Minh)_là một nhân sĩ trí thức Phật giáo tiêu biểu nửa đầu thế kỷ 20, đồng thời là một cư sĩ Phật tử tiêu biểu nhất tiền chấn hưng Phật giáo và nhất là một người anh cả trong giới trẻ tu học có xu hướng tiến bộ, biết vận dụng thời cơ để tạo dựng nền tàng sinh động cho Phật giáo trước ngưỡng cửa bước vào thời đại mới.(a)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]