Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

42. Thầy tôi (Nguyên Hạnh HTD)

17/06/201408:05(Xem: 19428)
42. Thầy tôi (Nguyên Hạnh HTD)

blank
HT Thích Như Điển, Nguyên Hạnh và Diệu Thiện ngày
khánh thành Tượng Đài TN 12.9.2009 tại cảng Hamburg

Từ lâu tôi đã muốn viết về Thầy tôi, và lần này phải cảm ơn Ban Biên Tập báo Viên Giác đã cho tôi cơ hội bộc lộ tâm tư tình cảm của mình đối với một vị Thầy mà tôi luôn luôn tôn kính và ngưỡng mộ.

Ngày bỏ nước ra đi, qua định cư xứ người tôi cảm thấy bơ vơ hụt hẫng vô cùng! Những ngày đầu mới tới đây, tôi cứ ngỡ đi vào một cõi đời mà không định được tên, cái gì cũng mới, cái gì cũng lạ, gần mình đó mà cũng thật xa. Nhưng may mắn thay, tôi được gặp Thầy, từ đó niềm tin của tôi trở lại rực sáng như vạt nắng vàng tươi đang sưởi ấm bãi cỏ non xanh và sưởi ấm lòng tôi trong những ngày xa xứ!

Thầy tôi 65 tuổi đời và 50 tuổi đạo. Những ngày còn cắp sách đến trường Thầy là một học sinh xuất sắc. Rồi qua Nhật du học, về định cư ở Đức, lập nên chùa Viên Giác, tu viện Viên Đức và nhiều Chi Hội Phật Tử khác trên khắp nước Đức này.

Là một tu sĩ Phật Giáo, giỏi ngoại ngữ, viết văn, dịch kinh sách, yêu văn thơ; các tác phẩm của Thầy đã lên đến con số 62. Nhưng Thầy không chỉ chuyên tâm niệm Phật mà là người tin rằng trí tuệ và chỉ thông qua trí tuệ mới hoàn thành được nhiệm vụ hoằng dương chánh pháp. Do đó Thầy đã bị hiểu lầm là „con người trọng bằng cấp“ và xa rời nguyên tắc „tùy căn cơ chúng sanh mà độ“. Phước báu là tài năng và trí tuệ thì Thầy có thừa, ngoài việc dùng nhiều thì giờ để phiên dịch, biên soạn, sáng tác và in sách, in kinh, giúp cho Tăng Ni, Phật tử có thêm nhiều tài liệu nghiên cứu học tập, Thầy còn phổ biến giáo lý giải thoát và từ bi đến mọi tầng lớp Phật tử nữa.

Làm một vị Sư trong đời người thật là khó khăn, nhất là khi trên cõi đời này, bóng tối nhiều hơn ánh sáng. Con người phải kiên quyết lắm, nghị lực lắm mới giáo hóa được Phật tử vừa sống trong thế gian tục lụy, vừa trau giồi Phật Pháp. Và Thầy cũng chỉ là con người nên làm sao tránh khỏi những tình cảm: mừng, giận, buồn vui...

- Một vài đệ tử của Thầy than phiền Thầy nóng tính. Nhưng dần dà với thời gian Thầy cũng đã sửa đổi nhiều.

- Hoặc là trong những lúc say sưa giảng Pháp, Thầy hay chen ngoại ngữ vào vì quên rằng trong hàng Phật tử cũng có nhiều thành phần trình độ học vấn khác nhau, có người không hiểu được, nên Thầy không khỏi bị cảm nhận là xa rời thực tế.

Tuy nhiên đối với tôi, Thầy có nhiều ưu hơn khuyết, xứng đáng là một vị Thầy tôn kính của tôi .

Thầy tôi có một trí nhớ tuyệt vời. Lịch sử, ngày tháng, kinh sách... Thầy nhớ vanh vách. Từ 50 năm nay, Thầy chưa hề bỏ một thời kinh Lăng Nghiêm trong các buổi công phu khi gà chưa gáy sáng. Và trong 30 năm qua, trong mùa An Cư Kiết Hạ, mỗi đêm Thầy đều lạy đủ 300 lạy; có điều Thầy mà tụng Lăng Nghiêm, con không làm sao theo kịp được!

Mấy ai có được đức độ như Thầy, đạo tràng nào cũng mong có sự hiện diện của Thầy; Chi Hội nào gặp khó khăn, chỉ cần Thầy gióng lên một tiếng kêu gọi là Phật tử sẵn sàng đóng góp cúng dường.

Thầy có tiếng đúng giờ, do đó giờ học với Thầy không ai dám vào lớp trễ.

Đối với hàng ngàn đệ tử của Thầy, tôi chỉ là một hạt cát nhỏ nhoi giữa sa mạc, nhưng tôi vẫn ghi nhận được những cử chỉ hành động nhỏ nhặt của Thầy dành cho tôi cùng các Phật tử khác biểu hiện lòng từ tâm của Thầy trải rộng với mọi người.

Có lần tôi tham dự một khóa Giáo lý, tuy chưa mãn khóa nhưng tôi phải về để lo Phật sự khác và Thầy cũng có việc phải về vùng tôi ở nữa. Vậy là Thầy đã hỏi địa chỉ của tôi, ghi vào Navigation của chiếc xe để đưa tôi về tận nhà. Đó là khoảng thời gian tôi lấy làm sung sướng và mãn nguyện nhất vì đã được hầu chuyện rất lâu với Thầy vì Thầy chưa bao giờ đứng lâu với phụ nữ, mỗi người tối đa là 5 phút – và lần đó tôi đã quên hết mệt nhọc đường xa!

Tôi đã từng làm Trưởng Ban Trai Soạn khóa Giáo lý Phật Pháp tại Đức Quốc, quá vất vả vì phải lo cho hàng trăm người ăn uống, Thầy đã thăm hỏi tận tình mỗi khi có dịp đi ngang qua nhà bếp.

Hai lần họp mặt khó quên trong đời là hai dịp ra mắt sách „Những Cây Bút Nữ“. Không có Thầy, chúng tôi đã không có những tác phẩm ghi dấu một kỷ niệm đẹp trong đời. Đó là niềm vui tinh thần của chúng tôi, là một đốm lửa ấm áp rọi sáng trong lòng chúng tôi mãi mãi.

Thầy có quá nhiều việc phải làm, Phật sự đa đoan, vậy mà khi chúng tôi về chùa, có người phải thuê khách sạn, Thầy đã hỏi han và chia sẻ gánh nặng tài chánh cá nhân. Rồi lần ra mắt sách „Những Cây Bút Nữ 2“, Thầy lì-xì cho mỗi người một hồng bao…

Thầy là chất keo đã kết hợp các chị em những cây bút nữ chúng tôi đến từ muôn phương vì vậy hôm chia tay có chút gì ngậm ngùi dấy lên trong lòng chúng tôi như nỗi tiếc thương những phần đời tươi đẹp cứ hao hụt dần, có chút gì hoang vắng trong ánh mắt nhìn nhau ngập ngừng tiễn biệt, khiến tôi chợt nhớ lại điệu hò tha thiết trên những cánh đồng tĩnh mịch hoàng hôn xứ Huế sau mùa gặt đã qua, thửa ruộng chỉ còn trơ những cuống rạ đìu hiu:

Rồi mùa tót rạ rơm khô

Bạn về quê bạn biết (nơi) mô mà tìm ?

Thầy là người có lập trường chống Cộng rõ rệt, hơn mấy mươi năm rồi Thầy chưa hề về thăm lại quê xưa. Thầy luôn luôn tham gia các cuộc biểu tình, tuyệt thực khắp mọi nơi mà không biết mỏi mệt.

Thầy là người đã sáng lập ra tờ báo Viên Giác. Chưa có một tờ báo nào đã được tồn tại 35 năm như vậy, định kỳ 2 tháng một lần với con số xuất bản lên đến hằng ngàn và đã tung bay ra muôn phương, khắp thế giới.

Chúng tôi đã được vào thăm nơi ăn chốn ở của Thầy. Cứ tưởng cả một ngôi chùa Viên Giác to lớn như vậy, chắc là Thầy sẽ có một cơ ngơi huy hoàng sang trọng, không ngờ đó chỉ là một căn phòng nhỏ khiêm tốn, một chiếc giường gỗ mộc mạc đơn sơ mà kích thước chỉ vừa đủ cho con người của Thầy đúng với qui luật nhà Phật. Nhưng tủ sách và tủ hồ sơ của Thầy thì quá tuyệt vời! Thầy ghi không thiếu chi tiết nào, ai đóng góp cho chùa đều có lưu lại rõ ràng. Tôi có đóng góp chút đỉnh hằng chục năm về trước, khi đang xây chùa Viên Giác, tôi đã quên hẳn với thời gian, vậy mà Thầy đã lật sổ ra, chỉ đúng tên tôi, thấy mà giật mình!

Đừng tưởng Thầy tôi là người tu hành rồi không có ai yêu trộm nhớ thầm đâu nhá! Mỗi lần Thầy về hoằng pháp những khóa tu vùng tôi ở, tôi phải cử người canh cửa cho Thầy vì có người đã quá yêu Thầy nên bất chấp tất cả, miễn sao nhìn được mặt Thầy tôi họ mới thỏa lòng. Tội cho Thầy tôi, mỗi lần ra về, phải có người hộ tống và vội đẩy Thầy lên xe chạy cho mau! Tôi vẫn không quên được tiếng gọi thống thiết của cô ta, vừa chạy theo vừa gọi tên Thầy nghe mà não cả lòng, xé nát cả tâm can!

Tôi cũng quá xót xa cho cô Phật tử này, yêu không lối thoát. Có lần cô đã hỏi tôi: „Vì sao lại cấm cô yêu Thầy?“. Tôi trả lời: Không ai có quyền cấm cô yêu, nhưng cô nên cất giữ tình yêu này cho riêng cô và đừng quấy rầy Thầy mà mang tội!

Có lần cô đã vượt đại dương qua tận bên Úc, đến gặp Hòa Thượng Bảo Lạc –bào huynh của Thầy tôi- để nhờ Hòa Thượng can thiệp, yêu cầu Thầy tôi đừng bỏ mặc, xa lánh cô ta như vậy. Hòa Thượng Bảo Lạc cũng là một vị cao tăng, Hòa Thượng đã dùng lời khuyên giải cô ta mới chịu ra về.

Ôi! Thật chua xót cho một tình yêu đơn phương như vậy!

Con đường Thầy đi cũng lắm chông gai phiền lụy nhưng Thầy đã vượt qua tất cả, Thầy xứng đáng là một tấm gương sáng mà chúng tôi cần phải nương theo. Thầy đi đến đâu, Phật tử đều muốn có vinh hạnh được chụp chung hình với Thầy nên Thầy đã có thêm một biệt danh nữa là “siêu sao” !

Trong suốt 19 năm qua, nhờ tiền làm bánh của các cô trong chùa vào những dịp lễ lớn, cùng với tiền ủng hộ của quý vị Mạnh Thường Quân, Thầy đã dành dụm gần 1 triệu mỹ kim để cấp học bổng cho các Tăng Ni làm luận án Tiến Sĩ (650.000 MK cho các tăng ni ở Ấn Độ, 350.000 MK cho các Tăng Ni ở các nước khác). Nhờ vậy đã có hàng trăm vị tốt nghiệp học vị này.

Ân đức của Thầy để lại cho các Tăng Ni thật to lớn. Và Thầy vui vì những Đệ tử của Thầy luôn nương theo hạnh nguyện của Thầy mà đi. Chẳng hạn như Thầy Hạnh Giới, Trụ trì chùa Viên Giác vừa học giỏi vừa có từ tâm như Sư Phụ của mình! Thật quá cảm động khi 8 chị em chúng tôi về Chùa để làm lễ ra mắt sách Những Cây Bút Nữ 2, Thầy Hạnh Giới đã đích thân xuống bếp tự tay nấu đồ ăn sáng cho chúng tôi rồi tự mình làm tài xế đưa chúng tôi ra ga; nghĩa cử này làm sao chúng tôi quên được? Còn có biết bao nhiêu Đệ tử xuất sắc khác mà thành quả là do sự gieo trồng phước báu của Thầy, vậy thì xin Thầy hãy vui với thành quả của mình đi!

Nhân dịp sinh nhật thứ 65 của Thầy, con xin kính chúc Thầy tâm thân an lạc, Phật sự viên thành, chúng sanh dị độ.

50 năm trước có ai dám nghĩ đến 50 năm sau con được gặp Thầy ở một nơi chốn cách xa quê hương cả nửa quả địa cầu.

Con biết một ngày qua đi là một khoảnh khắc ngắn bớt trong cuộc đời mỗi người đem theo trên gót chân rời đi chút ngậm ngùi của ngày đang xế bóng bên ngoài nhưng con vẫn cầu mong Thầy còn nhiều sức khỏe và con đường Thầy đi vẫn luôn luôn tràn ngát hương hoa.

Nguyên Hạnh HTD, Tháng 3/2014

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/06/2012(Xem: 14959)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
30/05/2012(Xem: 8828)
Tín Nghĩa tôi đến định cư Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979, do nhị vị Hòa thượng Thích Thiên Ân và Hòa thượng Thích Mãn Giác bảo lãnh từ trại tỵ nạn Hongkong. Ngồi tính sổ thời gian thì cũng đã gỡ gần ba chục cuốn lịch. Giá như thời gian này mà ở trong tù thì cũng mục xương và chẳng bao giờ được thấy ánh sáng của thiên nhiên.
27/05/2012(Xem: 20710)
Tác phẩm Trí Quang Tự Truyện bản pdf và bài viết "Đọc “Trí Quang Tự Truyện” của Thầy Thích Trí Quang" của Trần Bình Nam
15/05/2012(Xem: 6351)
Trong đạo lập thân của người xưa – lập công, lập đức, lập ngôn– thì lập ngôn thường được cho là quan trọng nhất, vì đó là phần “hình nhi thượng”, là tinh hoa tư tưởng cá biệt của một dòng đời mang tính truyền thừa lâu dài và sâu xa cho hậu thế. Người đem hết năng lực tinh thần và tri thức của đời mình để lập ngôn thì thành nhà tư tưởng, triết gia. Người đem chất liệu đời mình để viết lại thì thành tác giả tự truyện, hồi ký.
09/05/2012(Xem: 8718)
Sự xuất hiện của Tổ sư Liễu Quán (1667-1742) như là một Bồ tát bổ xứ, thực hiện sứ mệnh lịch sử: Không chỉ duy trì và phát triển mạch sống Phật giáo Việt Nam giữa bối cảnh xã hội tối tăm, Phật pháp suy đồi mà còn thể hiện sự xả thân vì đạo; lập thảo am, ăn rong, uống nước suối, hơn mười năm tham cứu công án, tu hành đắc đạo.
28/04/2012(Xem: 5805)
Nhà văn cư sĩ Huỳnh Trung Chánh, còn có bút hiệu Hư Thân, sanh năm 1939 tại Trà Vinh, quê nội của ông. Suốt quảng đời niên thiếu ông sống nơi quê ngoại tại Cao Lãnh, tỉnh Sa-Đéc, Nam Việt Nam. - Tốt nghiệp Cử nhân Luật Khoa( 1961 ), Đại Học Luật Khoa Saigon. - Tốt nghiệp Cử nhân Phật Học (1967), Phân Khoa Phật Học và Triết Học Đông Phương, Viện Đại Học Vạn Hạnh, Saigon. Là một công chức dưới thời Việt Nam Cộng Hoà, ông đã nổi tiếng thanh liêm, chánh trực và hết lòng dấn thân để phục vụ đại đa số dân chúng Việt Nam theo hạnh Bồ Tát của Phật giáo. Ông đã từng giữ các chức vụ sau đây: - Lục sự tại Toà Án Saigon và Long An (1960 – 1962). - Chuyên viên nghiên cứu tại Phủ Tổng Thống (1962 – 1964). - Thanh Tra Lao Động tại Bộ Lao Động (1964 – 1965). - Dự Thẩm tại Toà Sơ Thẩm An Giang (1965 - 1966). - Chánh Án tại Toà Sơ Thẩm Kiên Giang (1966 – 1969) và Toà Án Long An (1969 – 1971). - Dân Biểu Quốc Hội VNCH tại Thị Xả Rạch Giá (1
26/04/2012(Xem: 19394)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
20/04/2012(Xem: 9689)
Hòa thượng Thích Thiên Ân, thế danh Đoàn Văn An, sinh ngày 22 tháng 9 năm Ất Sửu 1925, tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Thân phụ của Ngài là Đoàn Mễ, sau xuất gia là Thượng tọa Thích Tiêu Diêu một bậc tử đạo Vị pháp thiêu thân, thân mẫu là một tín nữ chuyên lo công quả ở chùa Báo Quốc và tu viện Quảng Hương Già Lam, Ngài là con trai thứ trong một gia đình có 4 anh em. Ngài xuất thân trong một gia đình thế gia vọng tộc, có truyền thống kính tin Phật pháp lâu đời. Nhờ duyên gần gũi Tam bảo từ thuở nhỏ, Ngài đã sớm mến cảnh thiền môn với tiếng kệ câu kinh, nên năm lên 10 tuổi (1935), Ngài theo bước phụ thân xin xuất gia đầu Phật tại chùa Báo Quốc, làm đệ tử của Hòa thượng Phước Hậu, được Bổn sư ban pháp danh là Thiên Ân, Ngài tinh tấn chấp tác, học tập thiền môn qui tắc, hầu cận sư trưởng. Năm Tân Tỵ 1941, khi được 16 tuổi, Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa di tại giới đàn chùa Quốc Ân – Huế, do Hòa thượng Đắc Quang làm Đường đầu truyền giới.
08/04/2012(Xem: 6131)
Hòa thượng thế danh Đoàn Thảo, sinh ngày 10 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân năm thứ 3 trong một gia đình nhiều đời theo Phật tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, xã Thanh Hà, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (Nay là thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là cụ ông Đoàn Văn Nhơn pháp danh Chơn Quang, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Có. Gia đình Ngài gần chùa Vạn Đức, lại thêm cụ thân sinh là tín đồ thuần thành của chùa, nên từ thuở nhỏ, Ngài thường theo cha đến chùa hàng đêm tụng kinh niệm Phật. Từ đó, chủng tử Bồ Đề lớn dần trong tâm và Ngài tỏ ra những biểu hiện rất có căn duyên với cửa Không môn của nhà Phật.
31/03/2012(Xem: 6954)
Hòa thượng thế danh Dương Đức Thanh, tự Liễu, pháp danh Như Nhàn, tự Giải Lạc, hiệu Trí Giác, nối pháp đời thứ 41 dòng Lâm Tế, thế hệ thứ 8 pháp phái Chúc Thánh. Ngài sinh năm Ất Mão (1915) tại làng Cẩm Văn, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, trong một gia đình nhiều đời kính tín Tam Bảo. Thân phụ là cụ ông Dương Đức Giới pháp danh Chương Đồ, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Phụng pháp danh Chơn Loan. Năm lên 3 tuổi, thân phụ Ngài qua đời, thân mẫu tảo tần nuôi con và cho Ngài theo học chữ Nho với các cụ đồ trong làng, được 5 năm mới chuyển sang học Việt văn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]