Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

31. Đôi dòng về Ôn (Quảng Hương)

17/06/201407:49(Xem: 18523)
31. Đôi dòng về Ôn (Quảng Hương)

blankÔn “Tự Điển”, đó là “Nick name” mà con đã nghịch ngợm thầm đặt cho Ôn. Nếu điều này bị cho là mạo phạm thì con sẽ xin Ôn cho con thành tâm sám hối với Ôn, nhưng con vẫn muốn giữ “biệt hiệu” đặc biệt này độc quyền dành riêng cho Ôn.

Thật sự ngay từ buổi học đầu tiên, Ôn đã để lại trong con những ấn tượng không phải khó phai mờ, mà nói thật chính xác là không thể nào phai mờ được và những điều ấy được tô đậm thêm một cách rõ nét theo chuỗi thời gian những lần Ôn đến Úc tham dự khóa tu học Phật Pháp của hàng Phật tử chúng con, những người được diễm phúc làm “học trò” của Ôn hay những dịp Ôn đến thăm Tu Viện Quảng Đức.

Một trong những phước báu quý giá của con là được sinh ra và được trưởng dưỡng trong một gia đình thuần thành con nhà Phật. Cơ may đó đã tạo duyên đưa con đến Chùa từ nhỏ khiến con có khá nhiều cơ hội tiếp xúc, gặp gỡ các vị Thầy, Cô, Chú, Điệu ở nhiều Chùa, nhiều Tổ đình… Rồi đôi lúc bất chợt trong con lại xuất hiện một ý tưởng ngộ nghĩnh là có lẽ đời trước con cũng đã từng đi tu chăng? Hay từng vô Chùa làm ông Từ giữ Chùa hay sao mà hầu như khi gặp một vị tu sĩ nào trong lòng con cũng dấy lên sự kính thương, thấy gần gũi và thân tình như đã gặp tự bao giờ? Cho nên khi gặp Ôn có cái cảm giác như ruột rà của mình ngay.

Song song, bên cạnh đó, vì bản thân con cũng chỉ là một kẻ phàm phu bình thường, sự tu tập vẫn còn ở mức độ “ngó lên không bằng ai, mà ngó xuống cũng chẳng bằng ai” nên khi gặp gỡ hay tiếp xúc một người, tuy không nói ra bằng lời nhưng tâm vẫn động đậy để khởi lên sự âm thầm nhận xét, bình phẩm sơ khởi về người đó. Ôn cũng không bị “lọt sổ” nên ngay buổi đầu gặp Ôn, con tò mò quan sát từng điểm một để rồi chỉ biết thốt ra rằng: Ôn được sinh ra trên cuộc đời này cốt là để đi tu, bởi vì ngay từ dáng vẻ bên ngoài với cử chỉ trang nghiêm, nụ cười hiền hòa, cách trò chuyện điềm đạm… tất cả đã biểu hiện điều này hoàn toàn thật rõ rệt.

Nhưng điều khiến ở Ôn có một sắc thái, đặc điểm riêng mà không thể nhầm lẫn với bất cứ vị Thầy, Cô khác là khi ngồi nghe Ôn giảng Pháp thì mình cứ ngỡ như đang ngồi tra tự điển vậy, nhưng cuốn tự điển này đặc biệt ở chỗ không chỉ là tự điển song ngữ bình thường mà còn là tam ngữ, tứ ngữ… nữa mới “ngầu” chứ! Đã vậy khi đọc những cuốn sách, cuốn truyện do Ôn viết, con càng thấy “khâm phục” thêm nữa. Ôn cứ khiến con đi từ ngạc nhiên này qua kinh ngạc khác về vốn liếng kiến thức uyên thâm của Ôn, không chỉ về Pháp của Phật mà còn cả về ngôn ngữ, về sử học, về địa lý nữa. Ba con là người rất kén về việc chọn sách để đọc, những lần về thăm nhà sau này chị em con đều mang sách của Ôn cho Ba con đọc. Và con nhớ cuốn sách “Chuyện tình Liên Hoa Hòa Thượng” con vừa đưa là Ba con đọc miệt mài đến khi xong mới thôi và đó cũng là cuốn sách cuối cùng của Ôn mà Ba con được đọc.

Ôn thật ít nói, không biết Ôn có cố ý tiết kiệm lời nói không? Thôi thì cứ cho con tạm đoán già đoán non đi nhưng điều này lại hoàn toàn tỷ lệ nghịch với tấm lòng của Ôn dành cho hàng Phật tử, đặc biệt là Phật tử Úc Châu (mặc dù chúng con không phải là “con ruột” của Ôn). Con cảm nhận được điều đó qua những gì mà Ôn đã ưu ái dành cho Giáo Hội cũng như Phật tử Úc Châu trong những năm tháng qua.

Nhưng điều làm con cảm thấy buồn là sau này trong các khóa tu, con thường được phân công trong Ban hành đường, Ban trai soạn hay Ban Thị giả để lo cho quý Ôn, quý Thầy, Cô trong những bữa ăn, thì tội nghiệp thay cho con là vừa mới kịp thuộc bài về thói quen của Ôn “buổi sáng một ly cà phê sữa, buổi trưa một ly nước lọc và buổi chiều một ly sữa tươi” thì ngay thời điểm đó Ôn cho biết là sẽ không còn qua tham dự khóa tu học ở Úc Châu nữa. Không những chỉ riêng con mà hầu như tất cả học viên khóa tu đều buồn bã về “nguồn tin” tưởng Ôn nói chơi mà có thiệt này. Tuy nhiên, đã là con Phật rồi cho nên con hiểu được rằng cuộc đời này tất cả chỉ là giả tạm, có đó rồi mất đó, có hợp thì phải có tan. Ôn không tạm biệt lúc này thì Ôn cũng phải chia tay lúc khác mà thôi. Điều quan trọng và cốt lõi là những bài học Ôn dạy có được “học trò” của Ôn học và thực hành cho trọn vẹn để khỏi phụ lòng Ôn không, phải không Ôn?

Năm nay là sinh nhật lần thứ 65 của Ôn (con đang tính tuổi theo kiểu Tây phương chứ không tính tuổi theo kiểu “ăn gian” những tháng ngày nằm trong bụng Mẹ của người Việt mình) và kỷ niệm 50 năm xuất gia của Ôn. Con không có gì ngoài món quà “Đôi dòng về Ôn” xin được thành kính dâng lên cúng dường Ôn bằng tấm lòng chân thật của người con Phật, của người Phật tử xứ Kangaroo này. Con kính mong Ôn đón nhận món quà này với lòng đầy hoan hỉ và rồi con hy vọng Ôn sẽ suy nghĩ lại để thỉnh thoảng Ôn cố gắng sắp xếp qua Úc giúp “học trò” của Ôn vun bồi thêm những bài học bổ ích trong hành trang tu tập của chúng con nghe Ôn. Con ngưỡng nguyện mười phương Chư Phật luôn độ trì Ôn thân tâm vô lượng an lạc và công việc Phật sự luôn được thập phần viên mãn.

Nam Mô A Di Đà Phật


Melbourne Úc Châu, mùa Phật Đản 2558 (2014)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2011(Xem: 5204)
Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) sau khi khoác tăng bào ở tuổi 40 đã chu du khắp nơi để thuyết pháp, giảng kinh, khuyên dân chúng giữ gìn mười điều lành, và từng trở về kinh đô Thăng Long tổ chức lễ thụ Bồ tát giới cho vua Trần Anh Tông và quan lại triều đình.
09/08/2011(Xem: 5530)
'Vậy là đã 700 năm, 7 thế kỷ trôi qua từ khi Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông viên tịch, thể nhập vào niết bàn an nhiên tự tại. Cả dân tộc Việt Nam đều được biết đến Ngài là một bậc quân vương anh minh của đất nước Đại Việt, mà cũng là một vị Sơ Tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Nói đúng hơn, Ngài là một vị “Vua Phật” của Việt Nam.
08/08/2011(Xem: 5011)
Lễ húy nhật cố Hòa thượng Thích Phước Huệ (1875 - 1963) - chùa Hải Đức
08/08/2011(Xem: 5561)
"Vì sao Thượng hoàng Trần Nhân Tông không ở lại Vũ lâm hay lựa chọn một nơi nào khác trên đất nước Đại Việt mà lại chọn Yên Tử để tu hành?" - Câu hỏi được phần nào lý giải trong tham luận của Nguyễn Trần Trương (Phó Ban Dân tộc tỉnh Quảng Ninh) trong Hội thảo tưởng niệm 700 năm ngày Đức vua
07/08/2011(Xem: 13098)
Nói đến tinh thần "Hòa quang đồng trần" tức là nói đến tinh thần nhập thế của đạo Phật, lấy ánh sáng của đức Phật để thắp sáng trần gian, “sống trong lòng thế tục, hòa ánh sáng của mình trong cuộc đời bụi bặm”, và biết cách biến sứ mệnh đạo Phật thành lý tưởng phụng sự cho đời, giải thoát khổ đau cho cá nhân và xã hội. Thời đại nhà Trần và đặc biệt vua Trần Nhân Tông (1258-1308) đã làm được điều này thành công rực rỡ, mở ra trang sử huy hoàng cho dân tộc.
04/08/2011(Xem: 5331)
Hòa thượng Thích Bích Lâm, nguyên Phó Viện trưởng Viện Hoằng đạo, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam; nguyên Chánh Đại Diện GHPGCT Trung phần, Tổ thứ 3 Tổ đình Nghĩa Phương, Tổ Khai sơn các chùa thuộc Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương, Tông trưởng Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương (1921 - 1972).
30/07/2011(Xem: 7415)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
28/07/2011(Xem: 5849)
Hòa Thượng Thích Đạt Hảo, Hòa thượng Thích Đạt Hảo thế danh Lê Văn Bân, pháp danh Tánh Tướng, pháp hiệu Đạt Hảo, sanh năm Đinh Tỵ (1917), tại ấp Bình Hữu, xã Đức Hòa Thượng, huyện Đức Hòa, tỉnh Gia Định (1). Sư là con út trong gia đình có 6 anh chị em, 2 người trai bốn người gái; đặc biệt cả nhà có 8 người đều lần lượt xuất gia tu hành: -Phụ thân Lê Văn Bộn (1876- 1943), pháp danh Tánh Từ, pháp hiệu Đạt Bi. -Mẫu thân Ngô Thị Cờ (1884-1941), pháp danh Tánh Niệm, pháp hiệu Đạt Phật. -Chị thứ 2 Lê Thị Tình (1901-1970), pháp danh Tánh Hóa, pháp hiệu Đạt Đạo. -Chị thứ 3 Lê Thị Ưa (1904- ?) pháp danh Tánh Viên, pháp hiệu Đạt Thông. -Chị thứ 4: Lê Thị Luận (1907- ?), pháp danh Tánh Minh, pháp hiệu Đạt Quang. Chị thứ 5 Lê Thị Nghị (1909- ?), pháp danh Tánh Hồng, pháp hiệu Đạt Tâm -Anh thứ 6 Lê Văn Kỉnh (1915-1962), pháp danh Tánh Kỉnh, Pháp hiệu Đạt Xương. -Em út là Hòa thượng Thích Đạt Hảo.
15/07/2011(Xem: 7241)
Thiền sư húy thượng NGUYÊN hạ BÀNG - ĐẠI NGUYỆN tự CHÍ NĂNG hiệu GIÁC HOÀNG , thế danh LÊ BẢN, sinh năm Canh Dần 1950, tại thôn An Ngãi, xã Nhơn An huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Ngài sinh trong một gia đình nhiều đời sùng kính Tam Bảo. Thân phụ: Cụ ông LÊ TRÀ, thân mẫu: Cụ Bà TRẦN THỊ TÁM. Ngài là anh cả trong gia đình gồm có năm người con.
24/06/2011(Xem: 5976)
Vua Lê Đại Hành mất vào năm 1005, các hoàng tử tranh giành ngôi vua tạo nên cảnh khổ đau tràn ngập cho Dân Tộc, bên trong bị nội loạn, bên ngoài bị ngoại xâm đe dọa. Trước những thảm trạng đen tối u ám và đầy dẫy những thống hận đó, Vạn Hạnh thiền sư xuất hiện như một thứ ánh sáng phi thường quét sạch vùng trời giông tố để đưa vận nước bước vào thời đại huy hoàng thịnh trị.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]