Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bồ Đề Đạo Tràng... (Nhị Tường)

10/11/201319:14(Xem: 29968)
Bồ Đề Đạo Tràng... (Nhị Tường)

Canh_Tu_Vien_Quang_Duc (16)



Tu Viện Quảng Đức,
Bồ Đề Đạo Tràng Của Tôi

Một giấc mơ vẫn thường theo tôi trong giấc ngủ nhiều năm trước đây. Trong mơ tôi thấy mình trở về một ngôi chùa cũ, một ngôi chùa có cây đa và gác chuông. Tôi thấy mình trở về ngôi chùa đó không theo lối cổng mà vào bằng cửa sổ. Một giấc mơ lặp đi lặp lại như thế ám ảnh tôi trong nhiều năm trời. Có lần, trong mơ tôi thấy tôi đứng hầu hai vị sư phụ, một người có tên Định Huệ và người kia Thạch Huệ. Bạn bè bình luận rằng kiếp trước tôi là một chú điệu nghịch ngợm leo trèo hoang đàng như thế nên kiếp này mới cứ bị mơ hoài một giấc mơ như vậy. Sau này một người bạn khác lại chúc mừng và nói rằng con đường Giới Định Huệ là con đường trước kia của tôi, bây giờ tôi phải tiếp tục đi theo con đường ấy.

Tôi quyết tâm đi tìm ngôi chùa trong kiếp trước của mình. Đi qua nhiều tỉnh thành, tôi thường để ý ghé thăm các ngôi chùa, tìm hình ảnh quen thuộc như trong mơ, nhưng tôi thất bại. Năm 1998, khi bắt đầu làm quen với internet, cũng từ đó, tôi đi tìm ngôi chùa tiền kiếp của mình trên mạng.

Một lần, vào năm 2000, tôi ghé thăm nhà văn Võ Hồng. Ông nói cách đó vài ngày Thầy Nguyên Tạng có đến thăm và xin phép được post những tác phẩm của ông trên một trang web. Ông đưa cho tôi xem địa chỉ trang web: http://www.eisa.net.au/~quangduc; gần như là “tiền thân” của trang web www.quangduc.com ngày nay.

Lần theo địa chỉ, tôi đã nhìn thấy được trang web của Tu viện Quảng Đức lúc ấy, bài vở còn rất ít ỏi, còn sử dụng font VNI và rất nhiều lỗi chính tả. Lúc ấy cũng là lúc Thầy Nguyên Tạng kêu gọi Phật tử khắp nơi đánh máy bộ kinh Bát Nhã cùng những tác phẩm của nhà văn Võ Hồng. Trong tôi như có gì đó thôi thúc mình góp một tay cho trang web này, tôi gởi email đề nghị Thầy Nguyên Tạng cho tôi được sửa lỗi chính tả và đánh máy một tập kinh Bát Nhã.

Thuở ấy chưa có mạng ADSL, mỗi lần xài internet phải dùng đường truyền dial-up. Mỗi lần vào internet là mỗi lần liếc đồng hồ, mà tôi thường hay nói đùa là cứ một lần vào mạng là tốn mất khoảng 3kg gạo. Biết vậy, Thầy Nguyên Tạng copy gởi về cho tôi một đĩa CD-rom toàn bộ trang nhà Quảng Đức để tôi có thể sửa lỗi được dễ dàng mà không tốn tiền truy cập internet. Nhờ CD này, tôi đã được đọc nhiều bài vở của các bậc Chư Tôn Đức, và dần dần hiểu rõ về đạo Phật hơn. Bài đầu tiên mà tôi tình cờ đọc được, đó là bài Vượt Thoát Bộc Lưu của Thầy Nguyên Hùng, (bài của Thầy Nguyên Hùng là một trong những bài viết có mặt sớm nhất trên trang quangduc.com), bài viết này mang đến cho tôi một cách nhìn về đạo Phật khác với trước kia tôi vẫn nghĩ.

Sau khi đánh máy xong tập kinh Bát Nhã thì tôi bắt đầu góp một tay layout tài liệu cho trang nhà. Theo sự phát triển của internet thì trang web quangduc.com cũng dần thay đổi bộ mặt của nó. Từ font VNI chuyển dần sang font Unicode. Từ trang web chỉ toàn chữ là chữ, đã bắt đầu có những hình ảnh sống động. Những hình ảnh đầu tiên đó là những khuôn mặt trong trang tác giả và trang những cộng tác viên. Nhìn những chân dung đó, tôi thấy mình không phải đơn độc lặng lẽ làm việc một mình trong góc phòng, mà là đang được sống chung một đạo tràng với nhiều Thầy và bạn đạo khác ở khắp nơi trên thế giới này. Khởi đầu là hăm bốn tập kinh Bát Nhã vài ngàn trang đã được hơn 30 đôi tay ở nhiều quốc gia ngày đêm miệt mài gõ trong nhiều năm mà trong đó tôi biết có người đã đi lấy chồng bỏ cuộc không đánh máy nữa, có kẻ thì hoàn tất tập kinh của mình và đánh máy dùm phần của người khác, có người dở dang và cũng có người ngã bệnh… ra đi bên kia thế giới. Dù hoàn cảnh sống, hoàn cảnh địa lý, ước nguyện tâm linh mỗi cá nhân khác nhau, nhưng tất cả đều chung một mục đích hướng thiện khi thay vì dùng thời gian xem ti vi, đọc truyện thì lại tận tụy miệt mài ngồi đánh máy kinh. Do vậy, trang quangduc.com chẳng khác nào như một đạo tràng tu tập– và đó cũng là Bồ Đề đạo tràng của tôi. Không hiểu sao, cũng từ ấy giấc mơ về ngôi chùa xưa thôi ám ảnh tôi. Có lẽ vì tôi đã tìm được ngôi chùa và những vị Thầy cũ trong tiền kiếp của mình rồi chăng. Qua chương trình yahoo, paltalk, email,… tôi nhiều lần được hầu chuyện với các Chư Tôn Đức bên Úc. Thầy Nguyên Tạng tặng cho tôi một cái tên mà không giải thích ý nghĩa, để tôi tự tìm kiếm mãi sau này mới hiểu ý nghĩa của nó và thấy mình không xứng đáng được nhận chút nào: Linh Thoại. Hòa Thượng phương trượng chùa Bảo Vương cũng tặng cho tôi một cái tên khác với câu nói là “để sau này nếu có đi tu thì lấy tên là Phương Việt, hiệu là Thánh Dung; Phương Việt vì là đang sống ở nước Việt, còn hiệu thì căn cứ theo dung mạo mà đặt..…”. Biết là Hòa Thượng chỉ nói vui nhưng sao tôi cứ nhớ mãi và thắp lên cho mình một ước vọng “sau này”.

Năm 2002, tôi đã gặp Thầy Nguyên Tạng lần đầu tiên khi Thầy về thăm quê nhà, và vài năm sau nữa lại được Thầy Tâm Phương ghé nhà thăm, tôi cũng gặp được những người bạn đạo trên thế giới ảo giữa cuộc đời thật. Cứ như thế, tôi đã học hỏi, làm công quả trong Bồ Đề đạo tràng của mình hơn 10 năm rồi. Bạn bè lâu lâu gặp lại, lại hỏi: “dạo này còn layout trang Quảng Đức nữa không? Tôi cười không đáp, ai cũng biết câu trả lời.

Nha Trang, Mùa Phật Đản 2010
Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 6011)
Trận chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Vương Quyền năm 939 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử dựng nước của Việt Nam. Ngọn sóng Bạch Đằng Giang đã cuốn trôi đi nỗi đau nhục của người dân nô lệ, nhận chìm tham vọng của nòi Hán áp đặt lên đất nước ta trong suốt một ngàn năm. Từ đây Việt Nam không còn là một huyện lỵ của người Hán, từ đây một quốc gia đúng nghĩa đã xuất hiện dưới vòm trời Đông Á.
24/06/2011(Xem: 8397)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 5445)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 5907)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 6878)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 7584)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 5140)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 6561)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 6515)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 14440)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]