Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những ngày xưa ấy

10/10/201316:50(Xem: 15590)
Những ngày xưa ấy

buigiangNHỮNG NGÀY XƯA ẤY...

1973, lúc chiến tranh còn phủ trùm khắp miền Nam, tuy loạn ly, nhưng phong trào văn học và văn nghệ Miền Nam khá phong phú, sung túc. Trong đó, phạm vi văn học nghệ thuật của Phật giáo được phát triển rầm rộ tại đại học Vạn Hạnh, cơ sở chính ở cầu Trương Minh Giảng cũ, nay là đường Lê Văn Sĩ.

Thế hệ trên 60 tuổi, sống tại Sài Gòn, nhất là trong giới sinh viên, trí thức, không ai là không từng nghe đến Phạm Thiên Thư, Phạm Công Thiện, Lê Mạnh Thát, Tuệ Sỹ, Phạm thế Mỹ, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Đức Sơn, Bùi Giáng, Trí Hải...Ngay cả một số giáo sư, Linh Mục như Thanh Lãng, Linh Mục Thanh, Lm Kim Định...cũng ảnh hưởng trào lưu sống dậy của Đại học Vạn Hạnh lúc bấy giờ.

Bùi Giáng là một trong những nhân vật nổi cộm, một nhân vật không thể lẫn lộn bất cứ bóng dáng ai, từ hình thể, diện mạo, tài năng, tư chất...Những hiện tượng rộ lên như trăm hoa đua nở đã tạo một dấu ấn cho Phật giáo nói chung và Đại học Vạn Hạnh nói riêng, mà từ lâu, dưới cặp mắt của giới trí thức, xem Phật giáo như một tôn giáo lỗi thời. Những nhân vật kể trên, tuy mỗi người đóng góp một khía cạnh làm sáng giá tư tưởng triết học , văn học của Phật giáo, nhưng tài năng của họ -" mỗi người mỗi vẻ, mười phân vẹn mười".

Riêng Bùi Giáng, mãi đến bây giờ, vẫn có người thắc mắc, vấn nạn về một thiên tài điên, thi sĩ điên...có người bảo, Bùi Giáng rất tỉnh, tỉnh hơn cả người tỉnh. Có lẽ quá tỉnh, tỉnh hơn người tỉnh thành người điên trước con mắt người tình bình thường chăng?

Trong đêm giao lưu thơ Gùi Giáng tại chùa Phổ Quang, giáo sư Trần Hữu Tá (miền Bắc) bảo: - "trước 1975, những sách báo của miền Nam được đưa ra Bắc cho giới trí thức nghiên cứu, ông ta đánh giá Bùi giáng là môt hiện tượng lạ".

Thực ra miền Nam không chỉ riêng Bùi Giáng là một hiện tượng lạ, Bình Nguyên Lộc từng thách đố giới trí thức phía Bắc bác bỏ luận cứ của ông ta khi xuất bản cuốn sách " Mã Lai Á, nguồn gốc dân tộc Việt; Lúc bấy giờ, miền Bắc làm gì có những nhân vật như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát...chứ chưa nói đến Bùi Giáng.

Chiến tranh càng thúc bách, cuộc sống người dân Miền Nam càng chộn rộn dồn dập như yêu vội sống cuồng; do áp lực của sống chết trước vô thường, giới văn học nghệ thuật cũng bị thúc bón để cho ra những hoa trái được mùa; chính vì vậy miền Nam xuất hiện nhiều anh tài về thi ca, âm nhạc, hội họa, tư tưởng, dịch thuật...

Riêng Bùi Giáng, không chỉ là thiên tài trong thi ca mà ngay cả ngôn ngữ. Khi phong trào kiếm hiệp của Kim Dung phát triển, Bùi Giáng nằm tại Vạn Hạnh, tự học chữ Hoa trong 6 tháng, ông ta trực tiếp đọc sách Kim Dung bằng Hoa Ngữ. Trên đầu giường, một đống bánh mì khô cứng, mốc xanh để ông ta gặm, cuối chân giường là lồng chim cuốc ( phong trào chim cuốc lúc bấy giờ) đã bị quên cho ăn.

Khi Vạn Hạnh được phong trào sinh viên trí thức có khuynh hướng chính trị làm náo, Bùi Giáng rút lui về Nhà Bè, trú trong ngôi chùa lá Huyền Trang, cách căn cứ Đặc khu Rừng Sát hơn 500m. Tuy chưa trang sức lỉnh kỉnh những đồ phế thải như những năm tháng sau 1975, nhưng cách ăn mặc cũng cho mọi người thấy ông ta không bình thường. Tờ mờ, chưa kịp mời ăn sáng, ông ta đã la cà các quán nhậu ở mũi tàu Nhà Bè, chiều tối mới trở lại tá túc trong căn chòi lá phía sau chính điện. Ít khi nào nhà chùa được mời ông ta một bữa cơm. Ngày nào ông ta ăn thì chiều hôm đó ông ta mang về hủ chao, chai tương, bảo rằng ông nhặt được hoặc bảo ai đó cho ông ta. Chứng tỏ ông ta không muốn nợ nhà chùa. Có hôm, bị bọn lưu manh móc túi đánh ông bầm mắt, tôi phải đưa ông ta xuống gặp Thiếu Tá Cảnh,(cháu gọi Thiếu Tướng Đổ Mậu bằng cậu). Thiếu Tá Cảnh là đại đội trưởng tiếp vận, viết vài giòng giới thiệu:" Đây là nhà thơ Bùi Giáng, yêu cầu anh em đừng hành hung làm khó" Thế là thi sĩ nhà ta đem ép nhựa tấm giấy đeo trước ngực làm bùa hộ mạng.
Buigiang-chandung

Ông ta lựa quán nào nghèo nhất,vào ngồi uống bia như uống nước lã, trẻ con nào vào mua hàng, ông ta xuất tiền trả thế và còn cho tiền chúng. Những cô gái không được lính ở căn cứ đặc khu Nhà Bè chiếu cố,vì quá xấu, ông ta vờ say xỉn, để lòi tiền cho họ móc. Ông ta xài tiền vô tội vạ không phải phóng đảng mà ông không muốn bị ràng buộc bởi tiền bạc và dùng nó để giúp kẻ khác một cách tế nhị như thế. Nhà xuất bản Võ Tánh là một trong ít nhà xuất bản kén chọn, luôn in sách của Bùi Giáng; biết tánh họ Bùi, ít khi nào họ giao hết tiền cho ông ta một lượt, cho dù bao nhiêu cũng chỉ chóng sạch trong một hai ngày.

Từ Nhà Bè về Sai Gòn hơn 15km, chở bằng xe Honda, phải mất nửa ngày. chạy một chốc, nhìn thấy quán nào thích, cứ bảo dừng xe, tấp vào cho ông ta uống bia. Không dừng theo ý thì ngồi sau ông ta nắm cổ áo nhật bình lôi lại như lôi giây cương ngựa. Nhiều lần không chịu nổi, buộc lòng thả ông ta muốn đi đâu tùy ý.

Một đêm trăng sáng, chùa Huyền Trang xa khu dân cư, ba bề sông rạch, lá dừa nước bao phủ trở thành một ốc đảo huyền ảo, gió rì rào từ sông lớn băng qua cánh đồng lúa, luồn vào rặng dừa nước. trên chiếc võng dưới chái lá hông chùa, Bùi Giáng tâm sự (có lẽ lúc đó nhà thơ tỉnh táo nhất) khi hỏi về thân thế của ông trong quá khứ, ông ta cho biết: -"ngày xưa dạy học ở Huế, trọ một nhà dân, có hai chị em nữ sinh dễ coi, Bùi Giáng thầm kín yêu cô em, không bao lâu, cô em lên xe hoa, hoảng quá, ông ta đành cưới đại cô chị. Thời gian ngắn khi con đầu lòng bị bệnh qua đời, cô vợ cũng quá vãng. Bùi Giáng bị khủng hoảng, bỏ dạy, về lại xứ Quảng. Cuộc vô thường đã nâng hồn họ Bùi lên tầng mây triết lý thi ca, từ đó Bùi Giáng thâm nhập triết học và suối thơ len lách sỏi đá cuộc đời , trổi dậy, nâng hồn thơ bềnh bồng trên tầng không siêu thực.

Cuộc định mệnh đưa Bùi Giáng qua những đâu, khó mà nối kết khi cuộc đời bãng lãng bềnh bồng đưa thi sĩ lên đỉnh trùng dương, tiếp giáp với sương khói mây ngàn cho đến ngày vĩnh biệt mà nhân thế chỉ biết chiêm ngưỡng, không đủ khả năng thẩm định tiếp xúc một ảo ảnh hư hư thực thực như Bùi Giáng.

Sau một năm trú tại chùa Huyền Trang ( nay biến thành nghĩa trang). Thi sĩ họ Bùi lang bạt về khu vực Bình Thạnh. Từ đó, chùa Già Lam, Trung Tâm Tịnh Xá, chùa Đồng Hiệp, Trương Minh Giảng cũ và một vài nơi thường thấy Bùi Giáng xuất hiện như kẻ không nhà.

Lúc còn làm chủ bút nội san Bát Nhã ở Thanh Minh Thiền Viện, mỗi khi muốn xin thơ của họ Bùi, phải đạp xe chạy quanh thanh phố như truy tìm một báu vật vô hình, đem theo xị rượu và món nhâm nhi nào đó. chịu khó ngồi vỉa hè với ông ta, gợi chuyện bên xị đế, nguồn cảm hứng từ con tim và hốc mắt sâu thẳm của Bùi Giang bắt đầu xuất hiện; vừa viết tốc ký, vừa lắng nghe những tràng giang đại hải do ngẫu hứng họ Bùi, không dám ngắt ngang hay hỏi bất cứ cái gì khi lão Bùi đang hứng. Đặc biệt, cho dù ông nói huyên thuyên, nhưng không bao giờ lệch ý ban đầu; có giao tiếp mới thấy trình độ uyên thâm văn học và triết lý cũng như sự tỉnh táo ẩn tàng trong bộ dạng người điên.
buigiang3

Sau 1978, suốt thời gian dài không được gặp con người vĩ đại ấy bởi hoạn nạn lao lý, khi biết họ Bùi thanh thản ra đi để lại sự quý kính cho đàn hậu học, cho giới thi ca văn học, và nền văn học Việt Nam đương đại, hân hạnh được tham dự đêm thơ kỷ niệm 15 năm vắng bóng của người, có thêm một vài kỷ niệm, nhận định về Bùi Giáng từ HT Giác Toàn, những thắc mắc về tỉnh và điên của nhà thơ họ Bùi mà hầu hết mọi người mãi cật vấn, giờ đây, người từng hân hạnh sống một năm với nhà thơ tại Nhà Bè năm xưa, từng giao tiếp hàn huyên thì biết rằng: " Bùi Giáng điên vì không ai hiểu Bùi Giáng, Bùi giáng quá Tỉnh vì chúng ta quá Điên chỉ nhìn nhau qua hình thức. Bùi Giáng muốn thể hiện sự tự do tuyệt đối bởi sự giam hảm của tập quán con người qua tính nhị nguyên thường tình. vì vậy nhà thơ can đảm sống theo cái mà không ai dám sống, dám lăn lộn với bụi đời, dám bươi rác tìm cái ăn. Mọi hình thái Bùi Giáng làm đều muốn vượt qua sự giam hảm của ý thức phân biệt thường tình như ngôn ngữ thi ca của họ Bùi vượt khỏi định tính xã hội. Phải chăng sự vượt thoát trước thời đại nên mọi người cảm thấy Bùi Giáng điên chăng?

Nếu Bùi Giáng thực sự điên thì không có những hồn thơ, lời thơ siêu thuyệt, vượt thoát, nhuốm màu triết lý như thế

Nếu Bùi Giáng điên thì không có cung cách tế nhị giúp người, bù đắp tương chao khi ăn cơm Tam Bảo.

Nếu Bùi Giáng điên, sao biết đeo tấm bản của Thiếu tá Cảnh để bảo vệ mình khỏi bọn du đảng quấy rầy lúc bấy giờ.

Nếu Bùi Giáng điên thì làm sao biết nhờ HT Giác Toàn đến thăm mẹ mình khi nghe mẹ bệnh?....

Nếu nhìn hình thức và hành động bên ngoài thì khó mà xác định mật hạnh của một vị Bồ Tát, chắc gì Bùi Giáng không là một Bồ Tát mật hạnh???

Nếu Bùi Giáng là một Bồ Tát mật hạnh thì chắc gì Bùi Giáng Điên hay Tỉnh? Vì Tỉnh và Điên chỉ là trạng thái đối đãi thường tình, chưa vượt thoát đến chân trời tự do tuyệt đối của tâm thức.

Kỷ niệm 15 năm ngày vắng nhà thơ họ Bùi- cẩn bái

MINH MẪN

10/10/2013

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 8337)
Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, thế danh Vũ Văn Khang, sinh ngày 23/12/1921 (Tân Dậu), tại làng Tiêu Bảng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Cụ Ông Vũ Đức Khanh, thân mẫu là Cụ Bà Đỗ Thị Thinh. Hoà thượng có 5 anh chị em, 3 trai 2 gái. Ngài là con thứ 4 trong gia đình.
09/04/2013(Xem: 6308)
Lý Càn Đức (Bính Ngọ 1066 - Mậu Thân 1128) là vua thứ 4 nhà Lý, con trai duy nhất của vua Lý Thánh Tông và Ỷ Lan phu nhân tức Linh Nhân hoàng hậu. Càn Đức sinh ra ở Cung Động Tiên, gác Du Thiềm (gác thưởng Trăng) vào tháng Giêng năm Bính Ngọ, niên hiệu Chương Thánh năm thứ 8 (23-2-1066), hồi vua Thánh Tông đã ngoài 40 tuổi. Một ngày sau ngày sinh thì được lập làm Thái tử, 6 tuổi vua cha mất, được tôn làm vua, tức vua Lý Nhân Tông. Vua có tướng hảo, tâm hiền, bản chất thông minh dũng lược.
09/04/2013(Xem: 7334)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con người và sự nghiệp Lý Công Uẩn. Giá trị lịch sử của một con người không chỉ ảnh hưởng đến tự thân mà dư âm giá trị lịch sử của con người đó còn ảnh hưởng trực tiếp đến muôn người khác từ thế hệ này qua thế hệ khác. Và quả thật, Vạn Hạnh Thiền sư là người có công rất lớn trong việc khai sáng ra triều đại nhà Lý thì Lý Công Uẩn là vị vua đầu tiên thực thi tinh thần Vạn Hạnh bằng tất cả sự thể nhập "Đạo Pháp - Dân tộc" trong một thực thể duy nhất.
09/04/2013(Xem: 13950)
Có lần trong tù, đói quá, Thầy Quảng Độ nằm mơ thấy được nhà bếp cho một cái bánh bao. Ăn xong thấy bụng căng thẳng, no nê, rất hạnh phúc. Sự thật là đêm ấy, trước khi đi ngủ, vì đói quá nên thấy uống nước cho đầy bụng dễ ngủ. Và Thầy đã đái dầm ra quần. Sáng hôm đó Thầy có làm một bài thơ.
09/04/2013(Xem: 7357)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
09/04/2013(Xem: 8689)
Từ ngày 18-23/5/1996 HT.Thích Minh Châu, Phó CT kiêm Tổng thư ký GHPGVN, Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, Hiệu trưởng trường CCPHVN... đã lên đường đến Thái Lan để nhận bằng Tiến Sĩ Phật Học Danh Dự (Honarary Doctorate Degree in Buddhist studies) tại Đại Học Phật Giáo Mahachulalongkornrajvidyalaya, Thủ đô Bangkok, Thái lan.
09/04/2013(Xem: 10946)
Thiền sư THÍCH ĐỨC NHUẬN, pháp hiệu Trí Tạng, thế danh Đồng Văn Kha, sinh ngày 14 tháng Chạp năm Quí hợi (thứ bảy, ngày 19 tháng giêng, 1924). Chính quán : làng Lạc Chính, xã Duyên Bình, huyện Trực Ninh, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Đồng Văn Trung và thân mẫu là bà chính thất Hà Thị Thìn hiệu Trinh Thục (cả hai vị đều đã mãn phần). Là con thứ tư trong một gia đình thanh bần - dòng quí tộc. Ngài có 2 anh, 1 chị và 3 người em dì bào (2 trai, 1 gái).
09/04/2013(Xem: 5767)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, thế danh là Lâm Văn Tuất sinh năm 1897 (Đinh Dậu) tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thân sinh là cụ Lâm Hũu Ứng và bà Nguyễn Thị Nương.
09/04/2013(Xem: 7948)
Hòa Thượng Bửu Chơn thế danh là Phạm Văn Thông, sinh năm Tân Hợi (1911) tại Sa Đéc – Đồng Tháp. Thuở thiếu thời Ngài sinh sống tại đất nước Chùa Tháp Campuchia, do đó Ngài thấm nhuần Phật Giáo Nam Tông vốn là quốc giáo của Vương quốc này. Sẵn có túc duyên Phật pháp nên vào năm 1940, Ngài xuất gia thuộc hệ phái Nam Tông. Sau đó Ngài vào rừng chấp trì hạnh đầu đà (Dhatanga) suốt mười hai năm. Năm 1951 Ngài được Phật tử Việt Nam cung thỉnh về Sài Gòn để truyền bá giáo pháp Nguyên Thủy
09/04/2013(Xem: 7128)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]