Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hòa Thượng Thích Thiện Minh

10/04/201311:20(Xem: 10910)
Hòa Thượng Thích Thiện Minh


Thành Kính Tưởng niệm
Hòa Thượng Thích Thiện Minh

17.hoathuongthienminh

flowerba


Hòa Thượng Thích Thiện Minh


Một cái chết, sau 30 năm vẫn chưa sáng tỏ

-Viết thêm một bài về Ngài Thiện Minh, dù nhiều vị đã viết

-Viết, vì thấy thêm một bài của Tâm Nguyên trên diễn đàn baovechanhphap

-Viết, vì Mùa Hạ 2009, tịnh niệm An Cư, tưởng nhớ tiền nhân, làm gì cho hôm nay, và nhắc nhở hậu bối mai sauTương chao nhà quê Tăng Lữ

Một cái chết,

Sau 30 năm vẫn chưa sáng tỏ

Biết bao văn thư, đòi hỏi chế độ

Biết bao văn kiện, yêu cầu nhà cầm quyền

Cả Đảng, cả nhà nước, miệng ngậm kín như nêm

Không dám trả lời một câu thật cụ thể

Một cái chết

Sau 30 năm vẫn đen ngòm như bóng tối

Bóng tối của vô minh, sắt máu, bạo tàn

Bóng tối của ngục tù, rừng rú, dã man

Của khỉ, vượn, đười ươi đội lốt con người làm đau cả nước

Ngài, chỉ mặc áo nâu sồng, đầu trần, chân đất

Ngài, chỉ chiếc gậy trên tay, chống đỡ tấm thân

Chế độ trước, bị tù ngục phong trần

Chế độ sau, bị đập đầu bức tử

Vì Thầy là bộ óc cầm cân nẩy mực

Vì Thầy là bộ não tuyệt thế vô song

Ai nói tiếng tổ quốc tồn vong

Ai nói tiếng dân tộc anh hùng

Dù cây gậy hay củ cà rốt

Dù tư bản đỏ hay tư bản đen

Trời đất rộng nhưng không có chỗ đứng

Trước 1975, vì thể chế tự do, nên Ngài còn sống

Sau 1975, vì thể chế cộng sản, nên Ngài tiêu ma

Cái chữ lịch sử, văn hiến, quốc gia

Không thể nói với phường phi nhân vong bản

Họ chỉ nói, súng với đạn

Họ chỉ nói, ngục với tù

Cái ô nhục, nghĩa gì với thiên thu

Cái ô danh, sá chi tranh vân cẩu

« Giải phóng Miền Nam », chỉ là danh từ trống rỗng

« Chống Thực, phản Đế », chỉ là mị nước mị dân

Họ đã là Cộng Sản từ thập niên 1930

Mà cứ chính trị sa lông, mê ngủ, lựa lần

Hết Pháp, tới Nhật, rồi 9 năm kháng chiến, chui đầu vô rọ

Hiệp định Genève năm 1954

Một nửa đất nước Miền Bắc, tận cùng khốn khổ

Hai mươi mốt năm, một nửa Miền Nam, Quốc-Cộng mù mờ

Đấu tranh là chân chính, đường đường, nhưng như đi trong mộng trong mơ

Đến 30 tháng 4 năm 1975

Mắt không mở vẫn phơi bày sáng quắc

Vì Phật Giáo và Dân Tộc, nên Ngài phải chết

Vì Đất Nước và Quê Hương, nên Ngài cam phần

Dù bức tử tại Chí Hòa, rồi ép nhẹm ra Hàm Tân

Hay bất cứ nơi đâu, chỉ là địa điểm

Bởi, Ngài là một trong những bậc cột trụ

Bởi, Ngài là một trong những bậc cương thường

Thượng sách là triệt tiêu

Không có chuyện suy lường

Hơn nữa, đối với Cộng Sản, đâu có hạ hồi phân giải

Một cái chết, sau ba mươi năm

Thịt xương Thầy, đã trả về tứ đại

Một cái chết, sau ba mươi năm

Thân xác Thầy, đã cát bụi mù bay

Nhưng Trường Sơn, đỉnh núi tỏa cay cay

Nhưng Biển Đông, sóng triều loang muối mặn

Đạo Pháp và Dân Tộc, tràn đầy vị đắng

Đất Nước và Quê Hương, chìm ngập niềm đau

Mẹ Âu Cơ, tóc phơi bạc trắng hoa cau

Cha Long Quân, cau mặt đền thờ Tổ Quốc

Ba mươi năm, mà còn viết về Ngài

Bởi non nước nầy vẫn chưa hết khổ

Ba mươi năm, mà còn thương tiếc Ngài

Bởi, phải chi Ngài sống, để thấm nỗi niềm chung

Quê hương mình, chưa ra khỏi đường cùng

Dân tộc mình, bình minh chưa ló dạng.

Thích Nhật Tân vọng bái,

macgiang@y7mail.com

thnhattan@yahoo.com.au

ht-thichthienminh

HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN MINH
(1922 – 1978)

Cách đây 24 năm, ngày 15 tháng 9 âm lịch (17 tháng 10 năm 1978), Hòa Thượng Thích Thiện Minh, một người đã tận tuỵ vì đạo pháp và dân tộc đã âm thầm nằm xuống. Khi đã chọn thế đứng trong lòng dân tộc, sống và chết cho dân tộc, thì sự vắng mặt sau cùng của một con người tự nó, để lại nỗi nhớ tưởng sâu sắc cho những người còn sống. 

Trong niền tưởng nhớ chân thành về những hình bóng đã ngả dài trên chiều dài của lịch sử Phật Giáo và lịch sử Việt Nam hiện đại ấy, ban biên tập www.thuvienhoasen.orgtrang trọng ghi lại nơi đây Tiểu Sử Hòa Thượng và bài thơ “Mây Trắng Thong Dong” của Hòa Thượng Nhất Hạnh viết tưởng niệm khi nhận được tin báo tử; như là để tưởng niệm ngày giỗ thứ 24 của Ngài.

Ngày nghe thầy Thiện Minh tịch, tôi viết một bài thơ cho thầy, đó là bài Mây Trắng Thong DongThầy Thiện Minh ngày xưa học ở Phật học viện chùa Báo Quốc tốt nghiệp cùng một lớp với thầy Trí Quang. Thầy Thiện Minh là người rất thông minh, mau lẹ, tổ chức rất hay. Nếu cần một thầy ngồi chủ tọa một đại hội để giải quyết những vấn đề khó khăn thì người làm chủ tọa giỏi nhất, đưa đại hội đi tới sự thành công mau nhất đó là thầy Thiện Minh. Rất mau nhạy, rất thông minh. Trong cuộc tranh đấu của Phật Giáo Việt Nam cho nhân quyền dưới quyền ông Ngô Ðình Diệm, thầy Thiện Minh đã được cử làm trưởng phái đoàn Liên Tông, gồm đại diện của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam và các tổ chức Phật giáo khác, đứng ra thương thuyết với phái đoàn Liên Bộ của chính phủ. Bên phía chính phủ phái đoàn Liên Bộ (bộ Nội Vụ, bộ Xã Hội, v.v..) có Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ làm trưởng đoàn. 

Chúng ta biết thầy Thiện Minh mà hướng dẫn một phái đoàn như vậy là hay nhất. Trong khi họp, phái đoàn Phật giáo đã thành công. Bên chính phủ phải ký vào một thông cáo chung, tôn trọng quyền tự do của Phật giáo. Khi thông cáo chung được công bố, mọi người thấy đây là một thắng lợi lớn của phía Phật Giáo. Nhưng chính quyền không có thiện chí. Họ ký xong lại âm thầm phản bội lại thông cáo chung ấy. 

Trong cuộc tranh đấu của Phật giáo để chống chế độ độc tài, thầy Thiện Minh đã đóng một vai trò rất lớn. Khi chính phủ của xã hội chủ nghĩa lên, họ sợ thầy Thiện Minh nên đã bức tử thầy. Họ bắt thầy và ép thầy tự tử trong một nhà tù tại Sài Gòn. Thầy Thiện Minh phải xé áo làm dây để tự tử. Khi thầy tịch rồi, sợ quần chúng phản ứng mạnh nên họ đã chở thầy về Hàm Tân, một hai ngày sau mới báo tử. Thầy Trí Thủ và các thầy khác phải về Hàm Tân mới nhận xác được. Lúc đó tôi đang ở Phương Vân Am. (Pháp) Tôi nhớ buổi chiều hôm .đó, nhận được tin bên nhà, thầy trò làm việc suất đêm tìm những dữ kiện có được về thầy Thiện Minh, tổ chức họp báo, làm press release, báo cáo về cái chết của thầy Thiện Minh. Buổi sáng, khi làm xong công việc, tôi ngồi lại, tưởng niệm thầy Thiện Minh và viết bài Mây Trắng Thong Dong để cúng dường thầy. Mây trắng thong dong là một đám mây tự do. Thầy Thiện Minh bây giờ đã trở thành một đám mây trắng, thầy đã có sự thong dong rồi. Trong bài thơ, tôi dùng hai hình ảnh: đám mây và dòng suối; giống như hai người bạn. Mây và suối là hai cái khác nhau nhưng cùng một bản chất. Tôi nói ngày xưa tôi là dòng suối còn thầy Thiện Minh là đám mây. Một bên thì đi xuống để tìm ra biển Ðông, một bên thì thong thả rong chơi trên trời. Cả hai đều hẹn nhau đi về biển Ðông. Nhưng vì hoàn cảnh khổ đau, khó khăn cho nên đám mây đã biến thành mưa, rơi xuống:

MÂY TRẮNG THONG DONG

Nhớ thuớ xưa - khi ngươi còn là đám bạch vân bay thong dong 
ta theo nguồn múa ca đi về đại dương mênh mông, 
ngươi lưu luyến chốn đỉnh cao, lắng tiếng reo cười ngàn thông 
ta nhấp nhô trên sóng bạc, lên xuống vào ra muôn trùng.

Kịp đến khi thầy trần gian quằn quại lệ chảy thành dòng
thì ngươi biến thành mưa, nhỏ giọt tuôn tràn đêm đông
mây đen mịt mờ một phương chừ, mặt trời hấp hối
ngươi gọi ta về, cùng nhau giăng tay nổi trận cuồng phong.(*)

Lòng thảnh thơi đâu,
khi hoa ngàn cỏ núi còn rên siết hận bất công, 
ngươi đưa hai tay thiên thần, quyết tâm tháo bỏ cùm gông. 
trong khi bóng tối phủ đầy, họng súng đen ngòm bạo lực 
xương dồn thành gò cao chừ, 
trong khi máu đã chảy dài thành sông.

Hai bàn tay ngươi dập nát, thương ôi,
xích xiềng vẫn chưa tháo được
ta gọi sấm sét về bên ngươi,
quyết cùng bạo lực mở cuộc thư hùng gan dạ hơn người, 
trong đêm ngươi hóa thành Sư Vương rống lớn hàng vạn loài 
ma quái nghe ngươi, đã cầm cập run trong đêm sương.

Hiên ngang không lùi bước chừ,
dù phía trước dày đặc hầm chông
ngươi thản nhiên đưa mắt nhìn bạo lực chừ, 
như nhìn vào khoảng không.

Sống Chết là chi chừ, ép uổng nhau sao được ? 
ngươi gọi tên ta mà cười chừ, 
không một lời rên siết, dù tra tấn cùm gông.

Bây giờ thoát đi, xiềng xích không còn buộc nổi chân thân,
ngươi trở về kiếp xưa mây trắng,
thảnh thơi trên bầu mênh mông;
Ðến, Ði tự ngươi – đỉnh cao nào thích thú thì ngươi dừng lại, cưỡi trên sóng bạc đầu chừ, ta hát ru ngươi khúc hát bi hùng.

(*) Ðám mây gọi dòng suối về, tổ chức cuộc tranh đấu

HT. Thích Nhất Hạnh
(Trích Ðoạn Thả Một Bè Lau Truyện Kiều Dưới Cái Nhìn Thiền Quán, Lá Bối 2000).

htthienminh


(Xem tiếp)

----o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 5819)
Hòa Thượng thế danh Phan Công Thành, pháp danh Nguyên Trạch, tự Chí Công, Hiệu Giác Lâm, thuộc đời thứ 44 dòng thiền Lâm Tế, pháp phái Liễu Quán.
09/04/2013(Xem: 18650)
TUỆ SỸ, MỘT THIÊN TÀI CỦA VIỆT NAM : Thầy xuất gia từ thuở còn thơ và sống ở Lào, làm chú tiểu Sa Di sớm chiều kinh kệ, công phu bái sám, đó là bổn phận của người làm điệu, trong nếp sống nhà chùa. Dù chùa ở Lào hay Việt Nam cũng vậy, tụng kinh học luật là điều chính yếu của người xuất gia tu Phật. Bằng bản chất thông minh, thiên tư từ thuở nhỏ, cho nên sau khi xuất gia, Thầy đã miệt mài học hỏi kinh điển, siêng năng nghiên cứu nghĩa lý đạo mầu. Có lần được nghe quí Ngài kể lại, thời gian sống nơi chùa Lào, suốt ngày Thầy ở dưới bàn tượng Phật Bổn Sư thờ nơi chánh điện, để học kinh luật, sưu tra luận nghĩa, mà quí sư Lào sau một thời gian dạy dỗ, đã thấy được trí tánh thông minh của Thầy......
09/04/2013(Xem: 5651)
Khi viết về ông, tôi vẫn còn nguyên xúc động của lần đầu ra xứ Bắc tìm dấu tích về nhà trí thức Phật học này cho công trình biên khảo Chư tiền bối hữu công mà tôi đang thực hiện.Những mãng huyền thoại về cuộc đời của ông tôi được nghe qua nhiều người kể lại, mỗi nơi một ít, mỗi người thuật mỗi cách, đã gây cho tôi nhiều trăn trở, nghĩ suy và qua đó cảm nhận sâu sắc hơn về một nhân vật nhiều tài năng mà cũng đầy bất hạnh này.
09/04/2013(Xem: 5298)
Hòa Thượng Thích Thiện Thanh, thế danh Nguyễn Văn Sắc, nguyên quán làng Phú-Nhuận-Nha-Mân, tỉnh Sa-Ðét miền Nam nước Việt, sinh Năm Ất Hợi (1935). Song thân Ngài là Cụ Nguyễn Văn Xướng và Cụ Bà Huỳnh Thị Thâu.
09/04/2013(Xem: 5882)
Hòa thượng họ Võ, húy Trọng Tường, Pháp danh Tâm Phật, tư Tri Đức, hiệu Thiện Siêu, Hòa thượng sinh ngày 15 tháng 7 năm Tân Dậu (1921) trong môt gia đình thâm Nho tín Phật ở làng Thần Phù, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, thành phố Huế. Thân Phụ là C ông Võ Trọng Giáng, thân mẫu là Cụ bà Dương Thị Viết. Hòa thượng là con trưởng trong một gia đình có 6 anh em: 3 trai, 3 gái. Người em kế cũng xuất gia, đó là cố Thượng tọa Thích Thiện Giải, nguyên là Chánh Đại diện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Lâm Đồng; Trú trì chùa Phước Huệ - Bảo Lộc.
09/04/2013(Xem: 7092)
Thầy xuất thân trong một gia đình kính tín Tam bảo. Thầy là con út trong gia đình gồm 6 anh chị em. Cha là cụ Ông Lâm Sanh Thảo, một nhà trí thức yêu nước; Mẹ là cụ Bà Trần Thị Năm, một phật tử thuần túy và cũng là một người Mẹ mẫu mực đảm đang.
09/04/2013(Xem: 10117)
Thượng tọa Thích Chơn Thanh, thế danh Phan Văn Bé, sinh ngày 13 tháng 3 năm 1949 tại xã Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh, tỉnh Kiến Phong, nay là tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là Cụ ông Phan Văn Vinh, thân mẫu là Bà Nguyễn Thị Mến. Thượng tọa có 06 anh em, 2 trai 4 gái, Ngài là anh cả trong gia đình.
09/04/2013(Xem: 21590)
Cuộc đời tu tập và hành đạo của Thầy Minh Phát là bức tranh minh họa hiện thực sinh động lời dạy của Ðức Phật: “Này chư Tỳ kheo! Hãy du hành vì an lạc, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chư Thiên và loài người”.
09/04/2013(Xem: 9535)
Thuở nhỏ lòng ưa cửa Ðạo, mến chuộng nếp áo phước điền, ngưỡng trông tịnh xá Kỳ Viên, tha thiết lòng cầu xuất tục. 16 tuổi, xuất gia học đạo chùa Tây An, Châu Ðốc trước tiên, gần quý Thầy hiền, trau dồi Phật tuệ, bang sài vận thủy, tu sửa đạo tràng; 27 tuổi, cầu thọ tam đàn. Kể từ đó tinh chuyên tu niệm.
09/04/2013(Xem: 6760)
Đại lão hòa thượng Thích Trí Nhãn thế danh là Đoàn Thảo, pháp danh Như Truyện, tự Giải Lệ, hiệu Thích Trí Nhãn. Ngài sinh ngày 10 tháng giêng năm Kỷ Dậu tức vào năm 1909 dương lịch, tại xứ Đồng Nà, tổng Phú Triêm Hạ, Xã Thanh Hà, nay thuộc thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, Thị Xã Hội An.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567