Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thầy giáo làng tôi

29/08/201310:04(Xem: 9934)
Thầy giáo làng tôi

Thich_Lieu_Phap
THẦY GIÁO LÀNG TÔI

(Kính tặng TT.Thích Liễu Pháp, trụ trì chùa Thiên Xá, Đồng Đế, Nha Trang)

TỊNH MINH

Sáng hôm ấy, một buổi sáng đẹp trời, gió hiu hiu mát, cảnh vật như đang chuyển mình đứng dậy, chuẩn bị chào đón mùa xuân sắp tới sau ba tháng mưa dầm gió rét. Cha tôi đang cuốc đất trồng rau trong vườn trước sân, thấy tôi thất thểu trở về, bèn hỏi:

- Sao không học mà lại “dìa”, có chuyện gì đó?

Chẳng nói chẳng rằng, tôi, tay trái cầm cuốn tập, cây viết, tay phải bê lọ mực, đi thẳng lại vỉa hè, ngồi bệt xuống đất và khóc hu hu.

- Có chuyện gì?… Sao tao hỏi mày khônh nói? Cha tôi gắt giọng.

Thấy tôi khóc nức nở, và biết tôi là đứa con dễ dạy, ham học, cha tôi dừng tay cuốc, vào xoa xoa đầu tôi, nói giọng an ủi:

- Nín!… Nín!… Có gì nói cho cha biết, chút nữa mẹ đi chợ “dìa” có bánh cho con ăn.

- Chú năm không dạy nữa! Tôi vừa mếu vừa trả lời.

- Sao chú không dạy?

- Không biết sao mà chú đứng nhìn tụi con một hồi rồi ôm chúng con nói:

- Thôi!… Chú bịnh quá, không dạy được nữa; các con lên ông thầy Sáu mà học nghen!

- Thì lại ông thầy Sáu mà học.

- Con sợ ổng đánh quá! Con nghe nói học trò không thuộc bài là ổng bắt nằm một chồng ba đứa, đánh từ trên xuống, thằng dưới cùng xẹp ruột luôn!

- Đấy!… “Dậy” mà có đứa nhỏ nào ở cái xốm này lớn lên biết đọc biết “diết”, biết cộng trừ nhơn chia mà không cảm ơn cái roi của ông thầy Sáu. Đó là chưa kể tiếng trống thùng thùng đều đặn mỗi ngày bốn lần cho bà con theo đó đi làm. Chỉ có mày là khác: “Bụt nhà không thiêng!”. Một mình một bóng mà dám xuống chồm dưới học. Mày tưởng chú năm Trinh tu hành là không đánh học trò hả? Có lúc dập mình đó con! Tụi bay mà không cho ăn roi thì ai trị cho nổi; phá như giặc!… Nhưng thôi, chú Năm không dạy, sợ ông thầy Sáu không học thì ở nhà học chữ Hớn: “Thiên trời, địa đất, cử cất, tồn còn…”. Cha tôi đọc một mạch, và… như được dịp chứng tỏ công lao đèm sách của mình cho con cái biết, ông trở ra vườn, vừa cuốc vừa cất giọng sang sảng. Nào là: “Nhơn chi sơ tánh bản thiện, tánh tương cận tập tương “diễn”. Nào là: “Quan quan thư cưu, tại hà chi châu, yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu…” Rồi thì: “Thiên kinh “dạn” điển, hiếu nghĩa “di” tiên; thiên thượng nhơn gian, phương tiện đệ nhất… (Muôn kinh nghìn điển, hiếu nghĩa làm đầu; dưới đất trên trời, giúp đỡ là nhất” v.v… Cha tôi đọc như vậy gần năm phút, rồi… bỗng dưng ông dừng cuốc, ngó tôi, hỏi:

- Nhưng mà tụi bay có đong đủ gạo cho chú không?

- Con thấy ít quá, mà gạo gì hẩm sì hà! Ba bốn tháng nay như “dậy” đó!

- Đấy, tao biết mà! Bay không đong gạo thì Chú lấy gì ăn để sống mà dạy tụi bay. Mỗi tháng đong cho Chú bốn lon gạo mà bay cũng không nhớ!

- Đúng rồi! Tôi đứng bật dậy nói. Để con đi kêu tụi nó đong gạo cho Chú chứ phần con đong rồi.

Thế là sáng sớm hôm sau, chúng tôi khoảng trên dưới vài ba chục đứa, tuổi từ mười đến mười hai, ngồi co ro trước am tranh bé nhỏ với túm gạo và tập viết trên đùi, nghe Chú tụng kinh mà không dám ho he nhúc nhích. Tụng kinh xong, Chú vừa mở cửa định bước ra thì khựng lại. Chúng tôi đứng phắt dậy, cúi đầu với lời chào thường lệ: A Di Đà Phật. Chú đứng nhìn chúng tôi sững sờ một lát rồi nhỏ nhẹ nói:

- Chú bịnh thiệt mà, các con không thấy chú ốm sao?

Chúng tôi vẫn ôm tập vở và túm gạo trước bụng ngó Chú trân trân. Khoảng vài phút sau, chú đưa ngón tay trỏ lên quẹt quẹt hai khỏe mắt, nói:

- Thôi!… Các con xuống trường rồi chút nữa Chú xuống.

Chúng tôi dạ một tiếng rất đều, ùa chạy vô phòng, căn phòng rộng chỉ đủ kê một chiếc chõng tre và một bàn thờ Phật bé nhỏ, đổ gạo vào thúng bên chân giường rồi vừa đi vừa nhảy cà khiểng xuống trường. Nói trường chứ thật ra là một căn nhà thô sơ, mái tranh vách đất, nằm giữa một khu vườn sáng chiều đều rợp bóng tre, rất thuận tiện cho học trò nô đùa, chạy giỡn. Và thế là chúng tôi được tiếp tục học tập và mỗi tháng hai lần, rằm và mồng một, được về chùa sư nữ Long Quang tụng kinh sám hối dưới sự hướng dẫn của Chú, nhất là được nghe và nhìn Chú chuyển trống trước khi hành lễ. Cái trống khổng lồ, đường kính khoảng một thước, dài khoảng hai thước, tiếng vang ầm ầm như sấm, và không biết vì sao mà tôi rất say mê theo dõi từng nhịp trống nhặt khoan với giọng hô trầm bỗng của Chú theo bài kệ:

“Lôi cổ đằng xao nghiệp chướng tiêu,

Tam luân cửu chuyển hướng tiêu diêu,

Thượng thông thiên giới quần tiên lạc,

Hạ thấu u quan chúng quỷ siêu.”

Tạm dịch:

Tiếng trống rền vang nghiệp chướng tiêu,

Ba hồi chín lược hướng tiêu diêu,

Vút tới trời cao tiên thánh khoái,

Thấu tận âm ti ma quỷ siêu.

Đặc biệt hơn nữa là được Chú dẫn đi đưa đám ma. Ban hộ niệm “nhí” của chúng tôi đã góp phần không nhỏ vào lễ nghi tống táng, an ủi người còn và tiếp dẫn kẻ mất. Mỗi khi thầy trò chúng tôi tụng bài sám “Hồng Trần” thì không ai là không khóc. Khóc mùi mẫn, khóc nức nở, khóc sướt mước, khóc chân thành. Không biết họ động lòng trắc ẩn trước cảnh sớm còn tối mất của người đã khuất hay cảm thương thân phận mong manh bèo bọt của chính mình:

“… Khi nào trong trướng ngoài màn,

Bây giờ nhà cửa xóm làng cách xa,

Khi nào mẹ mẹ cha cha,

Bây giờ bóng núi khuất xa nghìn trùng !…”

Chẳng hay chú Năm quỳ trước có khóc hay không chứ chúng tôi quỳ sau miệng tụng mà tay cứ quẹt nước mắt hoài. Nhất là ông thổi kèn, kinh tụng xong rồi mà ổng còn thổn thức với giai điệu cà giật: “te te… tò tò…” không liên tục, vì phải đưa tay lau nước mắt. Mọi người nhìn ông buồn cười mà nước mắt cứ tự nhiên chảy. Thế mới biết mãnh lực của âm thanh với sắc tướng, cảm xúc với thi ca, lòng người với pháp Phật.

Có lúc hai ba tháng không đi hộ niệm, chúng tôi hỏi:

- Sao lâu quá mình không đi tụng kinh đám ma hả Chú?

- Ông bà ông dải tụi bay, Chú cười nói, trù cho người ta chết hả? Đi “dìa” đầu hôm gà gáy, lủi thủi trong bóng đêm, xa hàng ba bốn cây số mà tụi bay thích hả? Tụi bay không sợ hả?!

Nói đến sợ, có một lần rằm tháng bảy, thầy trò chúng tôi nấu chè xôi, bày ra trên chiếu trước sân trường cúng cô hồn. Chú Năm ngồi tụng kinh, đám học trò tứ thời quần đùi chân đất chúng tôi quỳ lạy và ngồi sau lưng Chú. Đến lúc nghe Chú đocï:

“Mắt lồ lộ đôi tròng xem liếc,

mặt lam lam một tướng dị kỳ,

phóng hào quang khắp hết thiết vi,

quản nhứt thiết cô hồn chi chúng”.

Và:

“Le lưỡi ra chúng thảy hãi kinh,

phất cờ nọ quỷ đều hàng phục”.

thì chúng tôi nhìn nhau rùng mình, nổi da gà, kéo nhau ngồi sát lại mà cứ thấy ông “Thổ Địa” trợn mắt nhe răng lù lù xuất hiện trước mặt với đám cô hồn lố nhố xung quanh. Bây giờ nghĩ lại, biết đâu không trống không kèn, không mũ cao áo rộng, chè xôi đạm bạc như vậy mà thập loại cô hồn lại được bão mãn no nê.

Đấy! Thầy trò chúng tôi dạy dỗ, học tập và sinh hoạt ngoại khóa hai ba năm trời như vậy đó.

Đúng là thời giờ như tên bắn, ngày tháng tợ thoai đưa, mới đó mà đã ngót nửa thế kỷ. Biết bao cảnh vật đổi thay, biết bao sắc màu phai nhạt; chỉ có đạo phong và hạnh nguyện của thầy giáo làng tôi là trước sau như một:

“Tỳ kheo vui pháp Phật,

An trụ tâm từ bi,

Chứng đạt cảnh an tịnh,

Giải thoát pháp hữu vi”.

(PC. 368)

Và: “Một ngày không làm là một ngày không ăn”.

Thảo nào cuộc đời của Thầy khi thì khiêm tốn giữa lũy tre làng, lúc thì đạm bạc trên đỉnh đồi cao, và nay thì dung dị bên triền núi vắng. Nhưng mà:

“Làng mạc hay núi rừng,

Thung lũng hay đồi cao,

La hán trú chỗ nào,

Nơi ấy được an lạc”.

(PC. 98)

Nhân ngày Nhà Giáo Việt Nam 20/11/1996, xin gởi đến chú Năm, Thầy giáo khai tâm chúng tôi năm xưa và tất cả các Thầy Cô giáo suốt đời tận tụy với sự nghiệp giáo dục ở những nơi sơn cùng thủy tận, hút gió đèo heo những đóa hoa hồng tươi thắm nhất.

(Đã đăng trong tuần báo Giác Ngộ số 34, ngày 23/11/1996)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/10/2019(Xem: 3808)
Hòa Thượng Thích Huệ Quang (1927 - 2009) - Thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam - Chứng minh Ban trị sự Phật giáo tỉnh Khánh Hòa - Huynh Trưởng Môn phong Tổ đình Nghĩa Phương - Viện chủ Chùa Đông Phước, Phước Long, TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa
20/10/2019(Xem: 4742)
Hoà thượng Thượng HOÀN Hạ QUAN, thế danh Phạm Ngọc Thơ. Pháp danh NHƯ CỤ THIỆN. Pháp tự GIẢI TOÀN NĂNG. Pháp hiệu THÍCH HOÀN QUAN. Sinh ngày 16-09-1928 (Năm Mậu Thìn) tại làng Phước Long, nay là thôn Hoà Bình xã Nghĩa Hoà huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Song thân của Ngài là Phạm Công Phạm Khánh Lâm và Cụ bà là Trần Thị Thưởng. Cụ Ông và Cụ bà đã hạ sinh được 6 người con, gồm 2 trai 4 gái, Ngài là người con thứ 5 trong gia đình.
20/10/2019(Xem: 2327)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc. Năm 21 tuổi (1916) nhận thấy cảnh thế phù du, cuộc đời là vô thường, giả tạm, Ngài quy y thọ giới tại chùa Cảnh Tiên. Năm 22 tuổi (1917) Ngài được nhập chúng tu học ở chùa Quang Lộc trong tỉnh, được ban pháp danh Chơn Húy. Sẵn có căn bản Hán học vững chắc, Ngài thâm nhập kinh tạng rất mau chóng. Ngài lần lượt thọ giới Sa Di và nghiên cứu Kinh, Luật, Luận rồi thọ giới Tỳ Kheo Bồ Tát với pháp hiệu Khánh Anh. Khi tròn 30 tuổi, Ngài trở thành một vị giảng sư Phật học nổi tiếng.
20/10/2019(Xem: 5435)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc. Năm 21 tuổi (1916) nhận thấy cảnh thế phù du, cuộc đời là vô thường, giả tạm, Ngài quy y thọ giới tại chùa Cảnh Tiên. Năm 22 tuổi (1917) Ngài được nhập chúng tu học ở chùa Quang Lộc trong tỉnh, được ban pháp danh Chơn Húy. Sẵn có căn bản Hán học vững chắc, Ngài thâm nhập kinh tạng rất mau chóng. Ngài lần lượt thọ giới Sa Di và nghiên cứu Kinh, Luật, Luận rồi thọ giới Tỳ Kheo Bồ Tát với pháp hiệu Khánh Anh. Khi tròn 30 tuổi, Ngài trở thành một vị giảng sư Phật học nổi tiếng.
20/10/2019(Xem: 5085)
Cố HT. Bửu Chơn tên thật Phạm Văn Tông, sinh ngày 25/10/1914, tại làng An Hội ‒ Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Ngài là con của cụ ông Phạm Văn Dư và cụ bà Lê Thị Dương. Tuổi thơ, ngài học ở trường làng, trường Tây, nhờ siêng năng, chăm học nên đã đậu bằng Preme. Năm 1930, ngài sang Nam Vang làm công chức trong cơ quan Việt Nha địa chính.
20/10/2019(Xem: 4407)
Hòa thượng Phước Hậu, pháp húy Trừng Thịnh, pháp tự Như Trung, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 42. Ngài thế danh Lê Văn Gia, sinh năm Bính Dần(1866), nhằm Tự Đức thứ 15, tại xã An Tiêm, huyện Đồng Quan, tỉnh Thái Bình.
20/10/2019(Xem: 5619)
Hòa thượng Pháp húy Ngộ Trí, đạo hiệu Thích Huệ Hưng, thế danh Nguyễn Thành Chẩm, thuộc dòng Thiền Lâm Tế đời thứ 39, là đệ tử Sư tổ Vạn An (Sa Đéc). Ngài sinh năm Đinh Tỵ (1917) tại làng Mỹ Thọ, quận Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Thân phụ là cụ Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu, thân mẫu là cụ Trần Thị Mậu, pháp danh Diệu Thiệt. Năm 62 tuổi, cụ bà xuất gia thọ giới Sa di ni.
20/10/2019(Xem: 4171)
Quốc sư tên thật là Nguyễn Tấn Giao, sinh năm Kỷ Tỵ (1869) tại làng Phú Thành, phủ An Nhơn, nay là ấp Phú Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ Nguyễn Chánh Niệm, tự Hòa Bình, thân mẫu là cụ Nguyễn Thị Lãnh, ông bà đều là những Phật tửthuần thành. Năm 12 tuổi (1881), Ngài được cha mẹ cho phép xuất giatại chùa Thập Tháp, thọ giới với Hòa thượng Chí Tịnh (Minh Lý) được ban pháp hiệu là Phước Huệ. Một thời gian sau, Ngài được Bổn sư cho tới chùa Tịnh Lâm ở huyện Phù Cát, Bình Định theo học với Hòa thượng chùa Châu Long là Ngài Từ Mẫn. Năm 19 tuổi, Ngài trở về giữ chức Thủ khố của Tổ đình Thập Tháp. Năm 20 tuổi Ngài vào chùa Từ Quang ở Đá Trắng huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên theo học với Hòa thượng Luật Truyền (Pháp Chuyên). Ngài thọ đại giới năm 1889 và đắc pháp năm 1892 với Hòa thượng Luật Truyền.
20/10/2019(Xem: 4471)
Hòa Thượng Thích Mật Thể (1912 - 1961) Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
26/09/2019(Xem: 23044)
Ẩn mình trong dãy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ là xứ sở Bhutan, một quốc gia nhỏ bé nằm phía sau dãy Hy Mã Lạp Sơn, giống như Tây Tạng, một địa chỉ tâm linh huyền bí và khép kín với thế giới bên ngoài. Đặc biệt đây là một đất nước lấy chỉ số thu nhập GDP không phải là tiền bạc mà là hạnh phúc của con người. Tu Viện Quảng Đức sẽ tổ chức chuyến hành hương thăm viếng Bhutan và Tích Lan từ ngày 26/9 đến 12/10/2019, lệ phí trọn gói: $6,500, số khách giới hạn, xin quý Phật tử hoan hỷ đăng ký sớm. Hạn chót đăng ký và đóng tiền đầy đủ: 25/7/2019. Chuyến đi do Thượng Tọa Trụ Trì Thích Nguyên Tạng làm trưởng đoàn cùng với Đạo Hữu Tony Thạch (giám đốc công ty Triumph Tour) làm trợ lý cho Thầy để lo các công việc cần thiết. Xin quý Phật tử xa gần liên lạc về Tu Viện Quảng Đức (03.9357 3544 hoặc email:[email protected]) để ghi danh tham dự chuyến hành hương chiêm bái này. Chi tiết, xin quý Phật tử thường xuyên vào xem tại trang nhà: www.quangduc.com
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]