Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Điếu văn tưởng niệm (GH Âu Châu)

29/08/201307:58(Xem: 15527)
Điếu văn tưởng niệm (GH Âu Châu)
ThichMinhTam


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT ÂU CHÂU

ĐIẾU VĂN TƯỞNG NIỆM
ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH MINH TÂM

Kính bạch Giác linh Hòa thượng,

Đốt nén hương tâm, chúng con lặng người, cơ hồ không muốn lay động hay bật lên một lời một tiếng nào trước Kim quan và di ảnh gần gũi, thiết thân.

Trong đạo tràng với đại chúng trang nghiêm vân tập, giữa vùng hương khói và đèn nến lung linh, tưởng chừng dáng Thầy hãy còn ngồi đó, đĩnh đạc uy nghiêm.

Thầy đã đi rồi, thật thế sao? Mới hôm nao, mắt từ bi trao gửi niềm tin đến những người đảnh lễ vấn an; tay hãy còn chắp - vui chào pháp lữ; miệng hãy còn cười - khích lệ môn sinh; mà giờ đây đã là cổ nhân lưu dấu trong dòng lịch sử Phật Việt, giũ mộng bình sinh, nhẹ bước nhàn du trên đường mây vời vợi.

Quỳ nơi đây, ngước nhìn di ảnh mà lòng vẫn còn bàng hoàng không dám tin. Nén hết niềm đau, muốn tỏ đôi điều, nhưng ngôn ngữ giấy bút hầu như vô dụng trước chí nguyện và công hạnh bao la của Thầy! Thôi cũng đành gói ghém lời quê, truy niệm cuộc đời 75 năm của Thầy qua những vần thơ mộc mạc chân tình:

Chín tuổi cắt ái, nguyện xuất gia

Bửu Tích, Bình Thuận, huyện Hòa Đa

Cầu Thầy học đạo, danh Nguyên Cảnh

Quét lá, thỉnh chuông, hạnh cao xa.

Mười ba (13) rời Thầy, bước tham phương

Nha Trang Hải-Đức Tăng-học-đường

Chí vượt cao vời non Trại-Thủy

Hạnh trải bạt ngàn nước trùng dương.

Mười sáu (16), Y chỉ sư-Huyền Quang 1

Sa-di phẩm-đức đăng giới-đàn

Viên Dungpháp tự Thầy khen hạnh

Minh Tâmđạo-hiệu tỏa thiền-quang.

Hăm mốt (21), tham học tại Già Lam 2

Giáo điển nội-ngoại đều bao hàm

Hăm ba (23), đã sớm đăng tòa pháp

Giáo Hội 3, Bồ Đề 4giảng-giáo kiêm.

Hăm lăm (25), hiệu-trưởng trung-học-trường

Bồ Đề Nguyên-Thiều, vang tiếng thơm

Hăm bảy (27), đăng đàn thọ đại giới

Lập hạnh, dấn thân, mở con đường:

Canh tân, phát triển nền Phật Việt

Khởi bước đăng-trình chí xuất dương

Nhật-bản giồi mài môn Phật-triết

Cao-học Đông-kinh danh bảng vàng.

Góp sức hoằng truyền nơi phương ngoại

Nhật-bản Chi bộ 5nguyện đảm đương

Tiếp đến, trọng nhiệm thêm Pháp quốc

Đất này từ đó hội nhân duyên.

Tàn xuân bảy lăm 6nước đổi thay

Mộng hồi hương đành cất từ nay

Đất Pháp chọn làm nơi hoằng pháp

Phật Việt ươm gieo ngay đất này.

Nương đức Thầy-Tổ: khai lập đạo tràng

Khởi bước khiêm nhường: Phật đường Khánh Anh

Đạm bạc sớm hôm dưỡng nuôi nhân lành, hạt tốt

Gieo khắp quê người ánh đạo từ bi.

Ôi, cao cả thay!

Bốn mươi năm, trì chí, bền lòng

Bước độc hành rảo khắp mười phương

Thuyết pháp, độ người, không nề lao nhọc

Tăng Ni, thiện tín kính ngưỡng về nương.

Đạo tràng học Phật dẫn đầu năm khóa 7

Khai nguồn trí tuệ cho khắp Châu Âu. 7

Đạo hạnh thâm sâu cỏ hoa vươn thành đại thụ

Chùa nhỏ sơ sài dựng thành đệ nhất danh lam.

Khánh Anh thiền tự: sừng sững trời Pháp quốc

Văn hóa quê người nở bừng hoa trái Việt Nam.

Ôi, kỳ vĩ thay!

Nào phải một phương gầy dựng cơ đồ đạo nghiệp

Lòng Thầy trùm hết cả bốn châu!

Giáo hội suy vi, tiên phong bắc nhịp hòa hiệp

Phật Pháp lụn tàn, chủ xướng “Tăng đoàn Việt Nam” 8

Minh Tâmlà đây!

Làm sao quên được ơn Thầy mênh mông biển cả:

Giữa lúc lòng người bối rối, hoang mang

Khẳng khái, kiên cường, chống đỡ con thuyền lâm nạn

Trí Thầy rọi sáng trên từng dặm đường trắc trở, gian nan

Viên Dunglà thế!

Nhớ mãi gương Thầy rạng soi trời đất:

Nhu hòa, nhẫn nhục, đón nhận từng mũi đao tên

Vạch lối, khai lộ, giẫm lên muôn trùng gai góc

Miệng vẫn hàm tiếu, chở che hậu học đi lên.

Minh Cảnhphi đài: trần lao tuyệt tích

Tâm Nguyênvô vật: sự sự viên dung.

Chí cả chưa tròn, nguyện đã mãn

Gậy trúc gõ nhịp đường vô chung.

Đã đến: đã làm tất cả việc

Đã đi: đã xả tận hư không.

Phiêu hốt dặm ngoài tâm vô sự

Tự tại nẻo về ý vô cùng.

Ngưỡng bạch Giác linh Thầy,

Chúng con biết, Thầy đã đến và đi như thế:

Suốt đời cặm cụi làm từ việc nhỏ đến việc lớn, mà chẳng một lần kêu ca than thở

Thành tựu to lớn mà chẳng bao giờ kể lể khoa trương.

Việc dễ, Thầy khích lệ người đảm đương

Việc khó, Thầy im lặng nhận một mình.

Cung cách ấy, một đời chúng con học không hết, hành không xong.

Phật Pháp suy tàn, lòng người ly tán, chúng con vẫn cần bóng cả để tựa nương

Thoảng khi thầm trách, sao Thầy đành vội lên đường

Nhưng nhân duyên đã như thế, nào dám níu kéo cản ngăn

Ngẫm lại hành trạng của Thầy: một đời tận hiến chưa từng một phút nghỉ ngơi

Ở hay đi thì nguyện đã tròn đầy.

Thôi thì Thầy cứ thong dong vượt ngoài ba cõi, đừng bận lòng hậu học kham việc dỡ dang

Con đường Thầy đi, chúng con đã tỏ, nguyện xin nối gót.

Giờ này quỳ trước Linh đài,

Gạt lệ thường tình, cất lời thô vụng tiễn đưa

Bậc đại sĩ hiếm hoi của nền Phật Việt

Lạy Thầy, ngưỡng lạy Thầy

Ngưỡng lạy ân cao muôn trùng.

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tôn Liễu Quán Pháp Phái Tứ Thập Tứ Thế, khai sơn Khánh Anh Tự, húy thượng Nguyênhạ Cảnh, tự Viên Dung, hiệu Minh TâmHòa Thượng Giác Linh liên tọa chứng giám.


__________________

CHÚ THÍCH:

1. Cố ĐLHT Thích Huyền Quang, Đệ tứ Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

2. Tu viện Quảng Hương Già Lam tại Gò Vấp do cố ĐLHT. Thích Trí Thủ thành lập.

3. Giảng sư GHPGVNTN tỉnh Phú Yên.

4. Giáo sư Trung học đệ nhị cấp tại trường Trung học Bồ Đề Tuy Hòa, Phú Yên.

5. Chi bộ trưởng Chi bộ GHPGVNTN tại Nhật-bổn.

6. Năm 1975, Cộng sản toàn chiếm miền Nam.

7. Hòa thượng Thích Minh Tâm khởi xướng tổ chức 5 khóa học Phật Pháp đầu tiên tại Pháp từ năm 1984 đến 1988, được tiếp nối và mở rộng thành Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu từ năm 1989 đến 2013 với 25 khóa luân phiên tại nhiều quốc gia của Châu Âu.

8. Hòa thượng Thích Minh Tâm là một trong những lãnh đạo chủ xướng thành lập Tăng đoàn hải ngoại đầu năm 2007 với danh xưng “Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại,” mỗi năm luân phiên tổ chức Ngày Về Nguồn - Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư để tạo cơ hội đoàn tụ, hòa hợp giữa Tăng Ni mọi tông phái.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/02/2013(Xem: 10390)
Từ những con người bình thường, không được sinh ra ở cung vàng điện ngọc, nhưng rồi trở thành những vị vua anh minh tài kiêm văn võ, tư tưởng và nhân cách cao siêu, mãi còn đọng lại với thời gian. Dù sống ở hoàng cung nhưng tâm lúc nào cũng vượt thoát, làm bậc đế vương nhưng hạnh vẫn là một sơn Tăng, ưa vui với gió nội mây ngàn, thở nhịp cùng đất trời nhân gian cây cỏ. Để rồi trở thành những người con Phật vĩ đại, trí tuệ và công hạnh thắm đượm cả không gian, thức tỉnh chúng ta trên bến bờ sinh tử của mê ngộ, đậm nét trong lòng người đến tận hôm nay. Bồ Tát Lương Võ Đế ( 463-549 ) của Trung Hoa và Trần Thái Tông ( 1218-1277) của Việt Nam, dù ở hai phương trời xa cách, sinh ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng cùng chung một tấm lòng, mang an lạc thịnh vượng đến cho nhân dân, và một hạnh nguyện chuyển hoá cứu độ quần sanh.
07/02/2013(Xem: 18910)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 7755)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 6571)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 6045)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 6608)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 7201)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 7010)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 11343)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 6361)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]