Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảm niệm Ân Sư (Môn đồ pháp quyến)

16/08/201304:03(Xem: 16849)
Cảm niệm Ân Sư (Môn đồ pháp quyến)

Thich_Minh_Tam

CẢM NIỆM ÂN SƯ

Của Môn Đồ Pháp Quyến
Cố Trưởng lão Hòa Thượng Thích Minh Tâm
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật


Kính bạch Giác linh Thầy,

Nhớ lại Giác linh xưa, Thầy là người Mẹ hiền nuôi lớn đàn con từ thuở nhỏ.

Nhớ lại buổi đầu đời Thầy là người Cha quý kính giảng dạy chúng con.

Đâu là lễ nghi phép tắc Thầy đã trao truyền.

Đâu là hạnh nguyện của buổi sơ tâm Thầy từng khai thị.

Hàng đệ tử chúng con đã nếm được mùi hương giáo pháp từ thuở đó, những tưởng rằng, Thầy là bầu trời Thái Hư để cho hàng đệ tử chúng con hít thở. Thầy là đại dương biển cả để cho chúng con tắm gội thanh lương. Thầy đã khai thân giới để chúng con nương nhờ cửa Phật mà tu hạnh xuất trần, ly dục. Thầy đã sinh ra mạng tuệ để chúng con hiểu được đâu là lý tưởng của bậc xuất gia, là bổn phận hộ pháp của người cư sĩ Phật tử, và cứ thế chúng con an lòng lo tu học.

Nào ngờ một sớm mây tan, giữa hư không sấm sét, chùa Khánh Anh vắng bóng Thầy từ đây.

Trước sân, sau vườn, Thiền đường, Chánh điện, đâu đâu cũng còn in đậm bóng dáng Thầy từ thuở Khai Sơn. Thầy đã khổ công xây dựng hai ngôi chùa Khánh Anh, từ thủa hàn vi, mái tranh vách đất. Thầy bôn ba ngàn dặm xứ người, lo toan trăm mối, chẳng quản nhọc nhằn công sức, chỉ mong Phật sự viên thành. Thầy nuôi Tăng Ni ăn học, dạy dỗ thành Tăng Tài. Thầy khuyến tấn hàng đệ tử tại gia, đầy đủ niềm tin Tam Bảo.

Nhớ người kể lại, từ thuở học Tăng, Thầy là một Tăng sinh ưu tú. Phật Học Viện Trung Phần Hải Đức Nha Trang, Thầy miệt mài Kinh, Luật, Luận, rồi xuất dương du học Nhật Bổn Thầy vẫn giữ tròn khí tiết của bậc Trượng Phu. Học cho mình, dạy cho người, Thầy đã làm tròn con đường Bồ Tát đạo. Ngày Thầy dùng hai tô mì gói, tối Thầy ngủ căn phòng nhỏ trên lầu. Nhưng Phật sự nơi đâu Thầy luôn hiện có. Từ Paris, Pháp quốc, đến Birmingham, London. Từ xứ đỉnh cao Na Uy cho đến vùng cây xanh Đức quốc, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan… Thầy chẳng chối từ. Mỹ quốc, Gia Nã Đại, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan... Thầy không quản ngại xa xôi, đáp chuyến bay đêm cho kịp Phật sự nơi đó.

Thầy như cát bụi hóa thân vào cát bụi. Thầy như mây trời đổ xuống những cơn mưa. Thầy như suối nguồn bồi đắp phù sa cho cánh đồng lúa chín. Thầy như nắng ấm nuôi lớn cỏ nội hoa ngàn, ngày thêm thấm nhuần hương sắc.

Nhưng hôm nay, Thầy ơi!

Ngọn đèn Thiền leo lét còn đâu?

Nơi Chánh điện, trên lầu

Dung nghi Thầy đã khuất,

Mờ mịt sương khuya thấm lạnh

Lời Kinh tiếng Kệ canh thâu

Khánh Anh hai chốn cúi đầu

Tiễn Thầy vào cảnh nhiệm mầu Vô Dư.

Kính bạch Giác Linh Thầy,

Trước nỗi đau mất mát này, chúng con bàng hoàng, ngơ ngác, biết làm sao Phật sự vẹn toàn cho cả hai nơi. Khánh Anh mới công trình còn dang dở, trang hoàng bày biện vẫn chưa xong. Công việc ngổn ngang, cần đôi tay Thầy chăm sóc.

Hỡi ơi! Rừng Thiền xào xạc

Bậc Chúng Trung Tôn cất bước ra đi

Tâm Thầy tự tại

Thân hiện oai nghi

Quẩy dép cỏ đi về còn tỏ rõ

Hai mươi lăm năm Khóa Tu giờ bỏ ngõ

Học viên Phật tử cúi đầu

Nhìn sau ngó trước mà đau thắt lòng

Thầy dấn thân một đời vì Đạo

Thầy lên đường kiến tạo phước duyên

Gieo mầm Phật học căn nguyên

Con đường Phật pháp lưu truyền sử xanh.

Trước Kim quan Thầy, hàng đệ tử Môn Đồ Pháp Quyến ai thành phủ phục. Đốt nén hương lòng tưởng niệm Ân Sư:

Ân Thầy lớn tựa Thái Hư

Tình Thầy thắm đượm chân như rạng ngời

Để từ đó chúng con theo dõi bước chân Thầy mà học hạnh lợi tha. Học cái nhân, cái nghĩa, cái tình đời, ý Đạo mà từ thuở sinh tiền Thầy đã thể hiện qua nếp sống tương chao với mọi người, với đồng môn pháp lữ. Chính vì tấm lòng bao dung, nhẫn nại cùng sự hy sinh mà Thầy đã lèo lái con thuyền Giáo Hội vượt qua bao nhiêu thác ghềnh thời đại. Khi thăng lúc trầm, khi buồn lúc vui, Thầy đều giữ lòng thanh thản. Dẫu biết thế nhân mạc trắc, lòng người ai biết nông sâu, nhưng Thầy vẫn hoan hỷ, độ lượng mà tha thứ, thông cảm.

Kính bạch Giác Linh Thầy,

Có ai ngờ, vừa xong Lễ Bế Mạc Khóa Tu Học Phật pháp Âu Châu kỳ thứ 25, ở Kurtu, Phần Lan, Thầy an nhiên, thâu thần thị tịch, để lại cho hàng Môn Đồ Pháp quyến chúng con nỗi đau thống thiết, đoạn trường tâm can. Chúng con đã khóc. Khóc không dừng khi hay tin Thầy không còn ở với chúng con dưới mái chùa Khánh Anh như tự thuở nào. Dẫu rằng chúng con không muốn tin là Thầy đã vĩnh viễn ra đi, nhưng sự thật hiển bày, Thầy đang nằm bất động trong Kim Quan trước mặt chúng con.

Than ôi! Bảy mươi lăm năm Thầy ở với đời

Năm mươi lăm năm sống Đạo

Từng bước chân nhẹ dạo khắp địa cầu

Hàng triệu con tim chỏi nhịp u sầu.

Thầy ơi! Tiễn biệt Kinh cầu hiến dâng.

Nam mô Từ Lâm Tế Chánh Tôn tứ thập tứ thế Liễu Quán Pháp Phái, khai sơn Khánh Anh Đường Thượng húy thượng NGUYÊN hạ CẢNH, tự Viên Dung, hiệu Minh Tâm, Giác linh Hòa Thượng thùy từ chứng giám.


Chùa Khánh Anh, ngày 15 tháng 08 năm 2013

Môn Đồ Pháp Quyến

Đồng Bái tạ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2013(Xem: 18217)
Nửa thế kỷ Tôn Sư vắng bóng, Ánh Đạo Vàng tỏa rộng muôn phương Hôm nay tổ chức huy hoàn Hằng năm kỷ niệm, đàn tràng tôn nghiêm. Môn đồ Tứ chúng ngưỡng chiêm,
06/02/2013(Xem: 7653)
Hòa thượng Bích Liên, thế danh là Nguyễn Trọng Khải, hiệu Mai Đình (Thận Thần Thị), sinh ngày 16 tháng 3 năm Bính Tý (1876), tại làng Háo Đức, phủ An Nhơn, nay là ấp Háo Đức, xã Nhơn An, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Ngài sinh trưởng trong một gia đình nho học, được theo nghiệp bút nghiên từ nhỏ. Cha là Tú Tài Nguyễn Tự, mẹ là bà Lâm Thị Hòa Nghị . Năm 20 tuổi, Ngài lập gia đình với cô Lê Thị Hồng Kiều, người làng An Hòa, (nay thuộc xã Nhơn Khánh cùng huyện). Năm 31 tuổi, Ngài lều chõng vào trường thi Hương Bình Định và đỗ Tú Tài. Ba năm sau, Ngài lại đỗ Tú Tài lần nữa. Từ đó, biết mình long đong trên bước đường khoa bảng, Ngài giã từ lều chõng, ở nhà mở trường dạy học, mượn trăng thanh gió mát di dưỡng tính tình, lấy chén rượu câu thơ vui cùng tuế nguyệt.
03/02/2013(Xem: 6479)
Tuệ Sỹ là ai mà thơ hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943, nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn, Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
20/01/2013(Xem: 5960)
Phạm Công Thiện(1/6/1941 - 8/3/2011), là một nhà văn, triết gia, học giả, thi sĩ và cư sĩ Phật Giáo người Việt Nam với pháp danh Thích Nguyên Tánh. Tuy nhận mình là nhà thơ và phủ nhận nghề triết gia, ông vẫn được coi là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của Sài Gòn thập niên 60 và của Việt Nam với những tư tưởng ít người hiểu và được bộc phát từ hồi còn rất trẻ. Dưới đây là bài viết của Tâm Nhiên nhân sắp đến ngày giỗ của ông.
12/01/2013(Xem: 6518)
Đã có rất nhiều sách vở, bài viết hoặc với tính chất nghiên cứu, hoặc là các bài giảng phổ cập bàn về tông Thiên Thai và kinh Pháp Hoa. Bài viết này nói đến vai trò, vị trí của Đại sư Trí Khải và tông Thiên Thai trong lịch sử Phật giáo, cũng như trong nền văn hóa tư tưởng của toàn thể nhân loại. Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589). Sông Dương Tử được lấy làm gianh giới phân chia giữa hai miền Nam và Bắc. Trong thiền sử, ta thường nghe nói đến câu Nam Năng (Huệ Năng)-Bắc Tú (Thần Tú), để phân biệt hai dòng thiền: Đại sư Thần Tú xiển dương Thiền tiệm ngộ ngay tại Trường An; Đại sư Huệ Năng phát triển Thiền đốn ngộ tại vùng Quảng Đông và lân cận. Bấy giờ Trung Hoa bị chia thành nhiều nước nhỏ, nước này xâm lăng và thôn tính nước kia, gây nên nhiều cuộc chiến tương tàn, dân chúng sống trong cảnh lầm than đau khổ.
07/01/2013(Xem: 7114)
Phần lớn độc giả biết nhiều đến các tiểu luận và các tập thơ phản chiến, nhưng ít người biết đến những bài thơ Thiền của Nhất Hạnh. Tôi xin trích một bài được nhà xuất bản Unicorn Press xuất bản trong tâp thơ Zen Poems của Nhất Hạnh vào năm 1976 (bản dịch Anh Ngữ) của Võ Đình. Bài này được in vào tuyển tập thơ nhạc họa vào mùa Phật Đản 1964
10/12/2012(Xem: 6926)
Cả cuộc đời 86 tuổi của Ngài Đội trời đạp đất, đã tròn chưa bản nguyện Kiếp tu hành 81 năm của Ngài Gánh vác hy sinh...
09/10/2012(Xem: 11125)
Thiền sư Lê Mạnh Thátcho rằng Vua Trần Nhân Tông là một nhân vật tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam nhất là vì tư tưởng hòa giải dân tộc của ông vẫn còn tính thời sự. Trả lời câu hỏi của BBC vì sao tư tưởng của Trần Nhân Tông (trị vì từ năm 1278-1293) và là Phật Hoàng, sáng lập ra phái thiền phái Trúc Lâm vẫn còn có tính thời sự đối với Việt Nam và cả quan hệ Mỹ - Việt cũng như Việt - Trung, Tiến sỹ Lê Mạnh Thát nói:
01/10/2012(Xem: 6184)
Kính bạch Giác Linh Đức Thầy, Dẫu biết rằng: “Cuộc đời là ảo mộng, vạn vật vốn vô thường, chuyển di không ngừng nghỉ, biến diệt lẽ tự nhiên, tử sanh không tránh khỏi.” Nhưng ân đức cao dày, tình thương nồng thắm, Đức Thầy đã ban cho hàng đệ tử chúng con, chẳng những được kết thành giới thân huệ mạng, mà còn mang lại cho cuộc đời giải thoát của chúng con vô vàn hạnh phúc… Ân đức ấy, mãi mãi khắc sâu vào cuộc đời tu học của chúng con vô cùng vững chắc, dù cho thời gian, sự vô thường có thay đổi...
22/09/2012(Xem: 6747)
Ni sư Thích Nữ Như Phụng nguyên là viện chủ chùa Long Vân , sinh tiền Ni sư là cố vấn ni chúng chùa Long Vân , làm Hóa chủ trường hạ trong 6 năm , trưởng phòng châm cứu từ thiện của chùa,thành viên mặt trận tổ quốc xã Tam Phước , trưởng bếp cơm từ thiện Bệnh viện đa khoa Long Thành. Suốt cả cuộc đời ni sư tận tụy cho sự nghiệp tu hành và hoằng dương Đạo pháp , một lòng chuyên tâm Niệm Phật A Di Đà , công quả viên mãn Ni sư an nhiên tự tại vãng sanh trong lúc đứng Niệm Phật cùng đại chúng trên Đại hùng bảo điện không gian tràn ngập hương cúng dường thanh tịnh .Sau khi làm lễ trà tì ngài để lại rất nhiều xá lợi minh chứng cho công đức tu hành tinh nghiêm của một vị cao ni.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]