Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sóng lượn lưng đồi

13/08/201316:04(Xem: 6915)
Sóng lượn lưng đồi
chandungcohoathuong-dongminh-s

SÓNG LƯỢN LƯNG ĐỒI
(Tưởng niệm Giác linh HT. Thích Đỗng Minh, Phó Viện Trưởng Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam,
Trưởng ban phiên dịch Pháp Tạng Phật Gíao Việt Nam.)
Pháp tử: TỊNH MINH


Non nửa thế kỷ qua (1957 – 2005), phần lớn Tăng, Ni sinh tu học tại các Phật học viện miền Trung và miền Nam đều thọ hưởng ân đức dưỡng dục của Hòa thượng Thích Đỗng Minh, đặc biệt là những anh chị em tu học ở Phật học viện Hải Đức và Diệu Quang, Nha Trang. Những giờ lên lớp của Hòa thượng quả thật đã để lại trong lòng học trò những ấn tượng vô cùng thú vị và hiệu quả.

Những môn Thầy - xin được gọi như vậy để bày tỏ chút tình nồng ấm mà tôi đã được Thầy thương yêu dưỡng dục trong tám năm trời - thường giảng dạy là: bộ Luật trường hàng, Nhân minh luận, Duy thức tam thập tụng, Duy thức phương tiện đàm, Kinh di giáo, Kinh phát bồ đề tâm văn v.v…, nhưng hình như Thầy khoái dạy bộ Luật tỳ ni nhựt dụng thiết yếu, Nhân minh luận, và Duy thức học nhất. Những ai đã học với Thầy thì khó có thể không thuộc lòng bộ luật: Tỳ ni, Sa di, Oai nghi, Cảnh sách bằng chữ Hán, và danh hiệu 100 pháp trong Bách pháp minh môn. Cách dạy của Thầy cực kỳ sống động và đạt chất lượng. Thầy không dạy nhiều, chỉ năm mười câu mỗi khi lên lớp, nhưng định nghĩa, giải thích, minh họa, triển khai sự kiện và ngữ nghĩa rất mực phong phú, khiến học viên nào cũng nắm vững vấn đề, thuộc ngay tại lớp, và thấy lâng lâng trong lòng khi ra về. Đó là mục tiêu giảng dạy của Thầy. Thuộc lòng và thuộc lòng. Thầy muốn trang bị hành lý tương đối đầy đủ cho Tăng Ni sinh lên đường, tiếp nối tôn chỉ “Duy Tuệ Thị Nghiệp” của Đức Thế Tôn. Thầy đã gieo vào đầu óc, tâm tư, tình cảm học trò của Thầy những nét giáo điển cơ bản, vững chắc, thú vị mà suốt đời họ không sao quên được.

Nghệ thuật giảng dạy đương đại là ứng dụng phương pháp phát vấn (communicative approach), tức là nêu vấn đề cho cả lớp thảo luận. Mục đích là phát huy ý thức tập thể, kích thích năng lực sáng tạo, và thể hiện bản lĩnh tự tin trước cộng đồng sinh hoạt. Nếu học tập trong môi trường như vậy, học viên sẽ dần dần nâng cao khả năng lý luận, biến hóa, linh hoạt, sôi nổi trong từng chủ đề hay tình huống. Học kinh văn giáo điển, nhất là luật tạng, có phần nghiêm trang mẫu mực hơn, nhưng Thầy mỗi khi lên lớp là mang theo tiếng cười sảng khoái cho học trò, bất cứ dạy môn nào. Trong giờ học, Thầy hay hỏi bất tử, gây ngạc nhiên, lúng túng cho những ai tỏ ra chủ quan, giải đãi. Có lần đang giảng nhân minh luận, bỗng nhiên Thầy hỏi:

- Chú L.,“Tiền lộ mang mang vị tri hà vãng” là gì?

L. đang thì thầm nói chuyện với anh bạn bên cạnh, giật mình đứng phắt dậy, đáp giọng Quảng Ngãi:

- Bạch Thầy, “Tiền lộ moang moang vị tri hà voãng” là “Đường đời mịt mờ vạn nẻo về mô!” (1)

Cả lớp cười ầm lên. Có anh thấm ý, cười nghiêng qua ngả về, và Thầy cũng đứng cười hề… hề… hề…, rung cả hai vai.

Một lần khác, trong giờ dạy luật, Thầy đang hưng phấn đi đi lại lại trước bảng, giảng đoạn : “Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu…” (2) với cách minh họa (illustration) quyết liệt nhưng rất có duyên: mỗi bước đi, Thầy nhấc chân lên cao một chút rồi từ từ thả xuống, cho thấy đã là người xuất gia tu hành, làm đệ tử Phật, thì mỗi bước chân đi phải vươn tới phương trời siêu việt. Bỗng dưng Thầy dừng lại, quay nhìn xuống lớp, chỉ tay hỏi:

- Chú H., “Tam đồ bát nạn cu ly khổ” là gì? (3)

H. đứng lên cười bẽn lẽn, nhìn qua nhìn lại ra dạng cầu cứu, rồi đưa tay gãi gãi mang tai, ấp úng đáp:

- Bạch Thầy… “Tam đồ bát nạn cu ly khổlà… “Đã là cu ly thì ở đâu cũng khổ”.

- Hừ!… Biết vậy mà vẫn muốn làm cu ly!

Cả lớp được dịp phát cười sảng khoái. Có anh cười quá trớn, vừa sặc vừa ho, nước mắt nước mũi chảy ra tèm lem, làm cho nhiều anh khác rung chân, vỗ đùi, cười to hơn nữa! Ngồi mơ màng, tán tâm tạp thoại là bị Thầy “chiếu tướng” như vậy đó!

Trong tác phẩm The Art of Teaching (Nghệ thuật giảng dạy), Gilbert Highet lý luận rằng giáo viên dạy giỏi phải hội đủ bốn yếu tố: 1. Quán triệt bộ môn giảng dạy. 2. Đam mê nghề nghiệp. 3. Nhiệt tình công tác. 4. Yêu thương học trò. Quán triệt bộ môn thì tự tin trên bục giảng. Đam mê nghề nghiệp thì luôn cải tiến kỹ năng và đổi mới phương pháp. Nhiệt tình công tác thì được tập thể quý mến. Yêu thương học trò thì được học trò và xã hội kính trọng. Ngoài ra, một trong những phẩm chất quan trọng nhất của người giáo viên dạy giỏi là tinh thần khôi hài. Và mục đích chính của sự khôi hài là tạo mối quan hệ mật thiết giữa thầy và trò (The real purpose of humor is to create a close relationship between teacher and students).

Trong năm yếu tố nêu trên, Ôn Đỗng Minh không những có đủ mà còn vượt trội. Ôn mê dạy học. Ôn đã suốt đời cống hiến trí tuệ và nghị lực cho sự nghiệp đào tạo Tăng Ni theo hạnh nguyện “tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức”. Có lần Ôn tâm sự rằng trong chín năm kháng chiến chống Pháp, Ôn đã tham gia phong trào xóa nạn mù chữ bằng cách mở lớp học miễn phí tại chùa, dạy cho những con em nghèo khổ trong làng. Sau ngày giải phóng 1975, có những quan chức chính quyền đến thăm Thầy, ngồi bệt dưới đất, vò hai đầu gối Thầy mà thốt ra những lời thắm thiết: “Nhờ Thầy mà con có được ba chữ trong bụng. Hồi đó con biết đọc, biết viết, biết cộng trừ nhân chia là nhờ ơn Thầy”. Đấy!… Công hạnh của Ôn là vậy đấy! Thảo nào có một dạo sa sút tinh thần, gặp Ôn tại chùa Già Lam, tôi tâm sự:

- Con chán dạy học quá rồi Ôn ơi! Xin Ôn cho con lời khuyên!

Ôn cười chúm chím, nụ cười đầy ấn tượng đối với những ai dù chỉ một lần gặp Ôn, nói:

- Nếu như tôi có một điều ước, thì tôi ước làm ông cai giữ trường hơn là làm giám đốc ngân hàng.

Ôn ơi!… Chính nhờ lời động viên vi tế đó mà con còn được hân hạnh ngắm nhìn những tia nắng vàng lung linh trên hoa lá trước sân trường. Xin cảm ơn và đảnh lễ Ôn!” Nay Ôn không còn nữa. Ôn đã quảy không tâm vào tam muội vĩnh hằng, nhưng âm ba của Ôn, từ lưng đồi Trại Thủy Nha Trang, vẫn vang vọng, ngân xa, lan tỏa và thấm đẫm vào lòng Tăng Ni, Phật tử khắp bốn phương trời. Hy hữu thay!

Chú thích:

(1) Lời của một bài hát được giới trẻ ưa thích ở thập niên 60.

(2) Đã là người xuất gia thì mỗi bước chân đi phải vươn tới phương trời siêu việt, tâm tánh và hình tướng khác với thế tục, phát huy dòng giống thánh nhân, hàng phục ma quái, nhằm đền đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi.

(3) Tam đồ: hỏa đồ, huyết đồ, đao đồ, tức là ba cõi hình phạt nghiệt ngã: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Bát nạn: tám chướng nạn. Người nào rơi vào một trong tám nạn này thì khó mà tu hành thành đạt. 1. Địa ngục, 2. Ngạ quỷ, 3. Súc sanh, 4. Bắc cu lư châu (nơi cực kỳ sung sướng), 5. Vô tưởng thiên (cõi trời không còn tư duy), 6. Manh lung ám á (đui điếc câm ngọng), 7. Thế trí biện thông (giỏi biện thuyết chuyện thế sự), 8. Tiền Phật hậu Phật (trước Phật và sau Phật). Vậy “Tam đồ bát nạn cu ly khổ” là vượt thoát ba đường ác, tám cảnh khổ.

(Đã đăng trong Nguyệt San Giác Ngộ số 112 tháng 7 năm 2005)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 7357)
Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, thế danh Vũ Văn Khang, sinh ngày 23/12/1921 (Tân Dậu), tại làng Tiêu Bảng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Cụ Ông Vũ Đức Khanh, thân mẫu là Cụ Bà Đỗ Thị Thinh. Hoà thượng có 5 anh chị em, 3 trai 2 gái. Ngài là con thứ 4 trong gia đình.
09/04/2013(Xem: 5171)
Lý Càn Đức (Bính Ngọ 1066 - Mậu Thân 1128) là vua thứ 4 nhà Lý, con trai duy nhất của vua Lý Thánh Tông và Ỷ Lan phu nhân tức Linh Nhân hoàng hậu. Càn Đức sinh ra ở Cung Động Tiên, gác Du Thiềm (gác thưởng Trăng) vào tháng Giêng năm Bính Ngọ, niên hiệu Chương Thánh năm thứ 8 (23-2-1066), hồi vua Thánh Tông đã ngoài 40 tuổi. Một ngày sau ngày sinh thì được lập làm Thái tử, 6 tuổi vua cha mất, được tôn làm vua, tức vua Lý Nhân Tông. Vua có tướng hảo, tâm hiền, bản chất thông minh dũng lược.
09/04/2013(Xem: 6135)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con người và sự nghiệp Lý Công Uẩn. Giá trị lịch sử của một con người không chỉ ảnh hưởng đến tự thân mà dư âm giá trị lịch sử của con người đó còn ảnh hưởng trực tiếp đến muôn người khác từ thế hệ này qua thế hệ khác. Và quả thật, Vạn Hạnh Thiền sư là người có công rất lớn trong việc khai sáng ra triều đại nhà Lý thì Lý Công Uẩn là vị vua đầu tiên thực thi tinh thần Vạn Hạnh bằng tất cả sự thể nhập "Đạo Pháp - Dân tộc" trong một thực thể duy nhất.
09/04/2013(Xem: 12743)
Có lần trong tù, đói quá, Thầy Quảng Độ nằm mơ thấy được nhà bếp cho một cái bánh bao. Ăn xong thấy bụng căng thẳng, no nê, rất hạnh phúc. Sự thật là đêm ấy, trước khi đi ngủ, vì đói quá nên thấy uống nước cho đầy bụng dễ ngủ. Và Thầy đã đái dầm ra quần. Sáng hôm đó Thầy có làm một bài thơ.
09/04/2013(Xem: 6340)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
09/04/2013(Xem: 7481)
Từ ngày 18-23/5/1996 HT.Thích Minh Châu, Phó CT kiêm Tổng thư ký GHPGVN, Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, Hiệu trưởng trường CCPHVN... đã lên đường đến Thái Lan để nhận bằng Tiến Sĩ Phật Học Danh Dự (Honarary Doctorate Degree in Buddhist studies) tại Đại Học Phật Giáo Mahachulalongkornrajvidyalaya, Thủ đô Bangkok, Thái lan.
09/04/2013(Xem: 9782)
Thiền sư THÍCH ĐỨC NHUẬN, pháp hiệu Trí Tạng, thế danh Đồng Văn Kha, sinh ngày 14 tháng Chạp năm Quí hợi (thứ bảy, ngày 19 tháng giêng, 1924). Chính quán : làng Lạc Chính, xã Duyên Bình, huyện Trực Ninh, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Đồng Văn Trung và thân mẫu là bà chính thất Hà Thị Thìn hiệu Trinh Thục (cả hai vị đều đã mãn phần). Là con thứ tư trong một gia đình thanh bần - dòng quí tộc. Ngài có 2 anh, 1 chị và 3 người em dì bào (2 trai, 1 gái).
09/04/2013(Xem: 4873)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, thế danh là Lâm Văn Tuất sinh năm 1897 (Đinh Dậu) tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thân sinh là cụ Lâm Hũu Ứng và bà Nguyễn Thị Nương.
09/04/2013(Xem: 7015)
Hòa Thượng Bửu Chơn thế danh là Phạm Văn Thông, sinh năm Tân Hợi (1911) tại Sa Đéc – Đồng Tháp. Thuở thiếu thời Ngài sinh sống tại đất nước Chùa Tháp Campuchia, do đó Ngài thấm nhuần Phật Giáo Nam Tông vốn là quốc giáo của Vương quốc này. Sẵn có túc duyên Phật pháp nên vào năm 1940, Ngài xuất gia thuộc hệ phái Nam Tông. Sau đó Ngài vào rừng chấp trì hạnh đầu đà (Dhatanga) suốt mười hai năm. Năm 1951 Ngài được Phật tử Việt Nam cung thỉnh về Sài Gòn để truyền bá giáo pháp Nguyên Thủy
09/04/2013(Xem: 6142)
Hòa thượng thế danh là Võ Hóa, pháp danh Chơn Húy, pháp hiệu Khánh Anh, Ngài sinh năm Ất Mùi (1895) tại xã Phổ Nhì, tổng Lại Đức, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi nhỏ, Ngài theo học Nho, luôn tỏ ra là một Nho sinh xuất sắc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567