Than ôi!
Biển Nam Hải chập chùng sóng bạc,
Núi Phổ Đà bát ngát đường mây,
Quán Âm đại điện còn đây,
Trời thu lãng đãng bóng Thầy khuất xa.
Xót thay! Nhớ lại năm xưa, rừng hoang u tịch, cô thân chích bóng, vượt suối trèo đèo; giữa cỏ cây đồi dốc cheo leo, tâm Bồ Tát ngại gì sương gió.
Hết lòng vì Đạo, một dạ thủy chung, canh núi ban rừng, đắp nền xe cát; nuôi hạnh cả hoằng dương chánh pháp, lập nguyện cao tự độ độ người; hai mươi năm khổ hạnh ngược xuôi, góp hoa lá trang nghiêm Phật độ.
Vừa cất chùa Giác Hải, lại xây điện Quán Âm, tiếp đào giếng Cam Lồ, xong thành lập thiền xá.
Biết bao lúc đi trong nắng hạ, lại lắm phen bước giữa giá đông, đêm hai thời tịnh chỉ nghiêm cần, ngày một bữa rau dưa đạm bạc.
Giới pháp truyền đạt, đạo nghiệp vun trồng; chí những mong liễu ngộ tâm tông, biến trần cảnh thành ra Phật cảnh.
Cất thêm nhà Tăng, xây thêm nhà giảng; rồi mở trường, đúc chuông, đào hồ, dựng tháp; thỉnh Pháp khí để hộ trì chánh pháp, xây ngọ môn để trấn át ma vương, mãi lạc quan giữa hư ảo đoạn thường, mắc thêm điện cho cảnh thêm mầu nhiệm.
Thênh thang trời biển, một dải non bồng; hoa vô ưu bừng giữa trời đông, thuyền bát nhã cập bờ Nam Hải.
Kính lạy Thầy! Chúng con nhớ mãi, cảnh đêm đêm gió mưa tơi tả, rừng âm u đổ lá lưng đèo; bờ đá rêu chập choạng lần theo, vin gậy trúc xuống đồi dạy chúng.
Từng ánh hồng rơi, từng cơn gió lộng; nét tài hoa đượm thắm nghĩa ân tình.
Dưới mái tranh nghèo, ấm vọng nhịp kinh; lời gấm dệt chắp thành thơ diễm tuyệt.
Bóng Thầy biền biệt, âm hưởng còn đây; nghĩa sắc không theo con nước vơi đầy, lý trung đạo ngược xuôi dòng nhị đế.
Thầy thường dạy chúng con: “Không là không của vô vi tuyệt đối, có là có của tuyệt đối vô vi; không là không của bát nhã chơn không, có là có của nhất thừa thực tướng. Không để tự độ, có để độ người”.
Cho hay! Giữa nhân gian trang trắng vỗ tay cười, rung thiền trượng lên đồi non nhập định.
Chao ôi! Viết sách, dịch kinh, lập chùa, độ chúng; bao công hạnh như mùa thu lá rụng, còn chăng là trong diệu nghĩa chân thường.
Dâng Thầy một nén tâm hương,
Cho vơi giọt lệ vô thường quặn đau.
Hạc vàng chừ đã bay cao,
Tùng lâm nay lại thắm bao tình người.
Ai về thăm núi Ông Sư,
Nghe trong cây cỏ tiếng cười diệu âm.
(Đầu thu năm Mậu Ngọ 1978 – trước điện Quan Âm trên đỉnh núi Ông Sư – thôn Xuân Tự, xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa.
Đã đăng trong tuần báo Giác Ngộ số 72, Đặc San Vu Lan, ngày 16/8/1997)