Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đại lão HT.Thích Diệu Tâm

03/08/201307:39(Xem: 9926)
Đại lão HT.Thích Diệu Tâm

HT Thich Dieu Tam
Vài nét về hành trạng Đại lão HT.Thích Diệu Tâm
TIỂU SỬ
                   Cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH DIỆU TÂM
              Thành viên hội đồng chứng minh GHPGVN.
              Nguyên Phó thường trực BTS Phật giáo tỉnh Đồng Nai từ khóa II đến khóa V.
              Chứng minh Ban Trị sự THPG Đồng Nai khóa VI, VII.
              Chứng minh Trường Trung Cấp Phật Học tỉnh Đồng Nai.
              Viện chủ chùa Phi Lai, phường Tân Tiến, Tp. Biên Hòa.
                                                     ----˜]™----

 

I.          THÂN THẾ:

Hòa Thượng họ Lâm, sau đổi họ Nguyễn, sinh năm Bính Thìn (1916), tại thôn Mỹ Trung, xã Hòa Thịnh, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên. Thân phụ là cụ ông Lâm Du Nhân, pháp danh  Tâm Nghĩa, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Mua pháp danh Tâm Đắc. Hai cụ thân sinh, do có túc duyên với Tam Bảo nhiều đời, nên đã hoan hỷ cho Hòa Thượng xuất gia từ nhỏ và đã phát tâm mua đất kiến tạo ngôi tự viện Phi Lai xã Hòa Thịnh, tạo thuận duyên tu học cho Hòa Thượng.

          Hòa Thượng có 7 anh em, 5 trai 2 gái, Hòa Thượng là người con thứ 2 trong gia đình. Cả gia đình đều trực tiếp tham gia vào sự nghiệp Cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc.

 

II.       ĐẠO NGHIỆP:

Vốn có chủng tử xuất trần, cho nên mặc dù hai cụ thân sinh muốn cho Hòa Thượng theo học chữ hán và ngành đông y, nhưng Hòa Thượng đã quyết tâm chọn con đường Phật đạo ngõ hầu thoát ly sanh tử. Hòa Thượng thuộc đời thứ 43 dòng thiền Lâm Tế và là thế hệ thứ 9 của thiền phái Liễu Quán.

- Năm 19 tuổi (1935) được sự cho phép của song thân, Hòa Thượng thọ pháp xuất gia với tổ Trừng Thân - Hoằng Nhơn tại tổ đình Phú Quang – xã Hòa Thịnh với pháp danh là Tâm Nguyện, tự là Thiện Tu.

- Từ 1937 - 1939: Hòa Thượng phát nguyện đi tham cầu Phật pháp với chư vị tiền bối như Yết Ma Vĩnh Tường, chùa Long Quang, xã Hòa Thịnh, Hòa Thượng Thiên Hòa tổ đình Kim Cang, Tp. Tuy Hòa.

- Từ 1939 - 1942: Tiếp tục chí nguyện đi cầu pháp, Hòa Thượng phát tâm cầu pháp với tổ Trừng Thành - Vạn Ân tổ đình Hương Tích, xã Hòa Mỹ. Trong thời gian này, Hòa Thượng được nghe nhiều bộ kinh luận Đại thừa do tổ Trừng Thành giảng, và Tổ ban pháp hiệu là Diệu Tâm.

- Năm 1943: Hai cụ thân sinh phát tâm tạo mãi đất, Hòa Thượng đã đứng ra kiến lập ngôi già lam Phi Lai tại xã Hòa Thịnh và Hòa thượng đã trú trì cho tới năm 1975 thì trao lại cho trưởng tử là Thầy Thích Thiện Đạo trông coi.

- Cũng trong năm 1943: Cùng với chư sơn Phú yên, Hòa Thượng đã đến tổ đình Thiên Đức tỉnh Bình Định nhân dịp Đại giới đàn, đảnh lễ Hòa Thượng Huệ Chiếu cần cầu thọ Cụ túc giới. Từ đây Hòa Thượng chuyên thọ trì pháp môn Tịnh độ và Mật tông, mở đạo tràng hướng dẫn Phật tử tu nhân hành thiện.

- Từ 1945 đến 1954: Đây là thời gian cuộc chiến tranh chống Pháp của nhân dân ta lan rộng và quyết liệt. Cùng với nhân dân xã Hòa Thịnh, Hòa Thượng đã tham gia kháng chiến, tích cực đóng góp sức người sức của vào sự nghiệp giành độc lập cho dân tộc. Với cương vị một người tu hành yêu nước, Hòa Thượng đã nắm giữ các chức vụ và công tác:

·        Hội trưởng Hội Phật Giáo Cứu Quốc xã Hòa Thịnh.

·        Hội phó Hội Liên Việt xã Hòa Thịnh.

·        Trưởng ban Kinh Tài Chi Bộ xã Hòa Thịnh.

          Trong thời gian này, Chùa cũng là trụ sở Ủy Ban Mặt Trận xã và Chi bộ xã Hòa Thịnh.

          - Từ năm 1954 - 1964: Sau khi hiệp định Genève ký kết, hòa bình được lập lại, nhưng đất nước bị chia đôi, Hòa Thượng trở về cương vị tu hành và hướng dẫn bá tánh tu tâm hành thiện.

          - Đầu năm 1964: Chùa bị máy bay Mỹ thả bom đốt cháy tiêu hủy, cộng với tình hình chiến tranh mỗi ngày mỗi gay gắt, Hòa Thượng phải tạm lánh về thành phố và bắt đầu vân du vào Nam hành đạo.

          - Từ 1964 - 1968: Trên đường Nam du hành đạo, Hòa Thượng đã được mời giữ chức vụ trụ trì chùa Đức Quang, quận Đức Tu, tỉnh Biên Hòa thời gian hai năm, sau đó đến tu học tại tổ đình Quán Thế Âm, quận Phú Nhuận.

          - Năm 1969: Như một nhân duyên tiền định, Hòa Thượng phát nguyện trở lại Biên Hòa và kiến tạo ngôi thảo am Phi Lai tại phường Tân Tiến. Qua bao thăng trầm hưng suy, ngôi thảo am ngày nào bây giờ đã là ngôi phạm vũ huy hoàng kiên cố, có bề thế về mặt tu tập và truyền thừa. Hòa Thượng cũng đã thành lập đạo tràng Niệm Phật, đạo tràng Bát Quan Trai, Hội Hiếu Nghĩa, tạo duyên lành để bá tánh quy ngưỡng Tam Bảo, tu tập chánh pháp, hướng thiện cuộc sống góp phần xây dựng con người và xã hội theo tiêu chí tốt đạo đẹp đời.

          Có thể nói, từ ngôi già lam Phi Lai này, công cuộc hoằng hóa của Hòa Thượng đã gắn liền với sự phát triển của Phật Giáo Biên Hòa - Đồng Nai, vùng đất có nhiều âm hưởng của Phật Giáo đàn trong.

          - Từ 1970 - 1977: làm Cố vấn Ban Đại Diện Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Biên Hòa.

          - Từ năm 1977 - 1981: làm Phó Ban Đại Diện Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tỉnh Biên Hòa.

          - Từ năm 1982 - 2007:  sau khi Phật Giáo được thống nhất ba miền, Hòa Thượng đã được mời giữ các chức vụ trong Giáo hội Phật Giáo Việt Nam và tỉnh Đồng Nai:

 

 

1.     Trung Ương:

·        Thành viên Hội Đồng Chứng minh Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam khóa IV, khóa V, khóa VI và khóa VII.

2.     Tỉnh Hội

·     Phó Ban Trị Sự tỉnh hội Phật giáo Đồng Nai các khóa I, II, III (1982-1996)

·     Phó Ban Trị sự thường trực Tỉnh hội Phật giáo Đồng Nai các khóa IV, V (1997-2007).

·     Chứng minh Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Đồng Nai khóa VI, khóa VII.

Hòa Thượng là một bậc thiền gia chân chánh, đạo đức sáng ngời, mật hạnh tinh chuyên. Hòa Thượng luôn được Giáo hội tin tưởng giao các chức vụ quan trọng và đã hết lòng tận tụy với các công tác Phật sự được Giáo hội giao phó.

Trong Phật sự truyền đăng tục diệm, Hòa Thượng được cung thỉnh tác pháp Phật sự quan trọng trong các Đàn giới từ năm 1982 đến nay như sau:

·        Giáo Thọ A Xà Lê đàn giới năm 1982, 1984, 1987 tại tỉnh Đồng Nai.

·        Yết Ma A Xà Lê đàn giới năm 1989,1997 tại tỉnh Đồng Nai và Bình Dương, Bà Rịa Vũng Tàu.

·        Hòa Thượng Đàn Đầu giới đàn Huệ Thành 2004,2007 và giới đàn Nguyên Thiều 2009.

          Với đạo đức sáng ngời, mật hạnh tinh chuyên, nên Hòa Thượng đã được cung thỉnh làm Đàn Đầu Hòa Thượng, Yết Ma Giáo Thọ nhiều Đại giới đàn ở Đồng Nai và các tỉnh lân cận. Hòa Thượng còn thường xuyên được mời chứng minh khai sơn xây dựng hàng trăm ngôi tự viện, chứng minh chú nguyện rót đồng hàng trăm tượng Phật và Đại hồng chung, truyền quy giới cho hàng ngàn Phật tử tại gia thuộc các tỉnh Phú Yên, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Thuận…

          Vì tương lai của đạo pháp, Hòa Thượng luôn luôn quan tâm đến phật sự đào tạo tăng tài, giáo dục tăng ni, nên đã được cung thỉnh Chứng minh và giữ chức vụ Trưởng Ban Kiến Thiết Trường Trung Cấp Phật Học Tỉnh Đồng Nai nhiều niên khóa.

          Ngoài ra, vì uy tín và đức độ, Hòa Thượng đã được mời tham gia Ủy viên Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam tỉnh Đồng Nai khóa V.

          Đầu năm 2004, nhận thấy sức khỏe đã suy giảm mà Phật sự tại chùa thì đa đoan, nhu cầu tu học của Phật tử đang phát triển nên Hòa thượng đã chính thức trao trách nhiệm điều hành quản lý Phật sự tại chùa cho đệ tử là HT Thích Thiện Đạo, để có thời gian tịnh tâm niệm Phật trong tuổi già sức yếu.

         

          Về Khen Thưởng:

Do có nhiều công đức trong hạnh nguyện phụng đạo giúp đời, giáo hội và chính quyền các cấp đã trao tặng nhiều bằng khen và tuyên dương công đức:

–       Bằng khen của Ủy Ban Trung Ương MTTQ Việt Nam

–       Bằng khen của UBND tỉnh Đồng Nai.

–       Bằng tuyên dương công đức của Hội đồng Trị sự GHPGVN và Ban Trị Sự Phật giáo tỉnh Đồng Nai.

Từ năm 2007 đến nay do tuổi già sức yếu không thể điều hành trực tiếp Phật sự, nên Hòa thượng đã được Chư Tôn giáo phẩm Ban thường trực Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Đồng Nai cung thỉnh vào ngôi vị chứng minh Ban Trị sự cho đến ngày viên tịch.

 

III.   VIÊN TỊCH:

Là bậc chân tu thạc đức, sáng ngời giới hạnh, tinh tấn không ngừng trên con đường lập hạnh tu và hoằng hóa, Hòa Thượng xứng đáng là một bậc "Tòng Lâm Thạch Trụ" đương thời. Hơn 90 năm hiện hữu giữa dòng đời, mặc dù tuổi cao sức yếu, Hòa Thượng vẫn tinh chuyên công phu ba thời, trong thì khắc kỷ lập đức, ngoài thì hoan hỷ làm hạnh, không từ khó nhọc không nệ hơn thua, nơi nào Phật sự cần Hòa Thượng có, nơi nào Hòa Thượng có thì Phật sự được thành tựu tốt đẹp, chư Tăng Ni, Phật tử từ Biên Hòa - Đồng Nai, Tp. Hồ Chí Minh cho đến các tỉnh lân cận đều rất kính mộ giới đức của Hòa thượng.

Thế rồi, luật vô thường lại đến, mọi sự hiện hữu trên cuộc đời qua các pháp hữu vi đều phải biến hoại. Niên cao lạp trưởng, Ngũ ấm xí thạnh, Hòa thượng đã an nhiên thâu thần thị tịch vào lúc: 14giờ 00" ngày 24 tháng 6 năm Quý Tỵ, nhằm ngày 31/ 07/năm 2013 trụ thế  98 tuổi, hạ lạp70 năm.

Hòa thượng đi về cõi Phật, đã để lại trong lòng đệ tử xuất gia cũng như tại gia vô vàn thương tiếc kính nhớ, Tăng Ni, Phật tử gần xa mất đi một vị đạo sư khả kính, một chỗ dựa vững chắc trên bước đường hướng về chân trời giải thoát, Giáo hội mất đi một bậc "Tòng Lâm Thạch Trụ" sáng ngời đạo hạnh đã hết lòng tận tụy hy sinh cho đạo pháp dân tộc.

Giờ đây, trước kim quan Hòa thượng chúng con xin thành kính cung tuyên tiểu sử của Hòa thượng để tỏ lòng tri ân công đức hóa độ của Hòa Thượng và cũng để nêu gương cho hàng hậu học noi theo. Giáo hội, môn đồ tứ chúng, Tăng Ni, phật tử gần xa xin thành kính đốt nén tâm hương dâng lên cúng dường Giác linh Hòa Thượng, cầu nguyện Hòa Thượng cao đăng thượng phẩm, quả chứng vô sanh, và kính xin Hòa Thượng bất vi bổn thệ, hồi nhập Ta bà, viên mãn bồ tát hạnh,  lợi lạc quần sanh, báo Phật ân đức.                       

Cung Duy: Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tôn Tứ Thập Tam Thế, Đệ Cửu Đại Liễu Quán Thiền Phái, Phi Lai Đường Thượng, Thượng TÂM Hạ NGUYỆN Tự THIỆN TU, Hiệu DIỆU TÂM Tân Viên Tịch Đại Lão Hòa Thượng Giác Linh, Liên Tòa Chứng Giám.

                                       

                                        Đồng Nai, ngày 31 tháng 7 năm 2013.

                              BAN THƯỜNG TRỰC BAN TRỊ SỰ TỈNH ĐỒNG NAI

                              VÀ MÔN ĐỒ PHÁP QUYẾN ĐỒNG PHỤNG SOẠN.

Hình Ảnh Lễ Phụng Tống Kim Quan cố Đại Lão HT Diệu Tâm Nhập Bảo Tháp    (18/09/13)

  • Những Hình Ảnh Phụng Tống Kim Quan Cố Đạo Lão Hòa Thượng thượng Diệu hạ Tâm nhập Bảo Tháp Tại Khuôn viên Chùa Phi Lai

    Cung Nghinh Hòa Thượng Thích Hiển Tu Phấp Trần và Sái Tịnh Bảo Tháp

    Cung Nghinh Chư Tôn Đức Trung Ương tiến hành lễ tống Kim quan

    Chư Tôn Đức Tăng Ni và Chính quyền các cấp trước Giác linh đường 

    HT Thích Thiện Nhơn đọc điếu văn

    HT trưởng tử dâng lời Tưởng Niệm Tôn Sư

    Dâng hương tưởng niệm

    HT Thích Minh Tâm Đương Vi Chấp Lệnh

    Đội hình Tống Kim Quan

    Ban Kinh Sư

    Đưa Kim quan ra khỏi Giác Linh Đường

    Môn đồ pháp quyến ngậm nguid tiển biệt Thầy

    Đưa Kim quan lên xe hoa 

    Xe Phật Đình

    Xe Chấp Lệnh

    Xe Các Cấp Lãnh Đạo Phật Giáo Trung Ương

    Xe Di Ảnh Lớn

    Xe Di Ảnh Nhỏ

    Xe Long Vị và Y Bát

    Xe Kim Quan

    Đoàn xe Chư Tôn Đức Tăng Ni Cung Tiễn 

    Đạo Tràng Niệm Phật Do Cố Hòa Thượng Thành Lập

    Cung Đón Kim Quan trở về Bảo tháp

    Nhạc Lễ và ban Kinh sư rước Kim quan Hòa Thượng

    Chư Tôn Đức Ni chấp Tay Cung Đón Kim Quan Nhập Bảo Tháp

    Đang Tiến về Bảo Tháp

    Kim Quan Nhập Bảo Tháp

    Môn Đồ Pháp Quyến tiển Thầy lần cuối

    Kim Quan Được Đặt trong Kim Tỉnh

    Bảo Tháp Của Hòa Thượng Tôn Sư

    Lễ An Vị Giác Linh tại Linh Đường

    nơi tôn trí di ảnh Hòa Thượng tôn sư

  • http://chuaphilai.com/newsview/vn/395/Hinh-Anh-Le-Phung-Tong-Kim-Quan-co-Dai-Lao-HT-Dieu-Tam-Nhap-Bao-Thap.html

  •  

     

        

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2010(Xem: 4867)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37217)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6145)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6109)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5753)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5644)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5923)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5459)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8769)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
23/10/2010(Xem: 11860)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua, và vài năm sau trở thành một nhà sư và đã để lại một di sản Thiền Tông bây giờ vẫn còn phát triển để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam. Ngài tên là Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của Nhà Trần và là vị sáng lập Dòng Thiền Trúc Lâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]