Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Chiêm bái Phật hoàng Bảo tháp

21/09/201214:40(Xem: 7568)
05. Chiêm bái Phật hoàng Bảo tháp
CHIÊM BÁI PHẬT HOÀNG BẢO THÁP
Quang Hồng

Ngày 23 tháng giêng hằng năm là ngày “kỵ” tổ đời thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử - đại thiền sư Huyền Quang. Vị sư là đệ tử đời thứ ba của Phật hoàng Trần Nhân Tông, vị vua anh minh đã sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Xưa nay, Phật tử và dân du lịch vãn cảnh vẫn đến Yên Tử, lên chùa Đồng hành lễ. Nhưng ít ai biết còn có một di tích khác, về độ cao thì thấp hơn đỉnh núi có chùa Đồng và nằm ở sườn tây của dãy Yên Tử (Quảng Ninh). Khoảng 3 năm trở lại đây, những người theo học Phật pháp tìm đến đây nhiều hơn để được quỳ lạy trước Phật hoàng Bảo tháp bằng đá xanh cao 7 tầng giữa đại ngàn nguyên sinh và được chiêm bái di tích đã có 700 năm tuổi.


ThapCo-1
Tháp cổ 7 tầng bằng đá xanh đã 700 năm tuổi.

Khi nói tây Yên Tử, nhiều người không để ý đến chữ “tây” nên thường vẫn lầm tưởng là “Yên Tử” với chùa Hoa Yên, chùa Đồng giờ đã có cáp treo lên tận nơi, nên cũng ít người biết thế nào là “đường tùng”. Tây Yên Tử đơn giản là sườn tây của dãy Yên Tử, nơi Phật hoàng Trần Nhân Tông đã viên tịch và tổ đời thứ hai của Trúc Lâm thiền phái đã dựng tháp đá xanh 7 tầng. Chỉ cách Hà Nội gần 100km, tới ngã ba Đông Triều, rẽ vào Bình Khê rồi thêm 10km vào làng Phù Ninh, đến bến đò Hồ Thiên hay còn gọi là hồ Bình Khê.

Gia đình chị San làm nghề lái đò ở đây đã nhiều năm, nhận trông xe máy cho cả đoàn rồi đưa chúng tôi vượt hồ để leo núi. Nước hồ xanh ngắt vô cùng tuyệt đẹp khi những quả đồi nổi lên thành những hòn đảo soi bóng làn nước phẳng lặng xanh ngắt bởi đáy mọc đầy tóc tiên, rong đuôi chó. Đi men theo đường mòn ven suối, gặp một ngôi miếu nhỏ. Từ đoạn này, đường liên tục dốc, càng lên cao càng dốc, có chỗ gần như dựng đứng và trơn trượt.


Rừng không còn cây nào to, cùng lắm cũng chỉ nửa vòng tay ôm. Nhưng trúc thì mọc bạt ngàn. Hơi ẩm lạnh của những ngày đầu xuân phủ một lớp sương mỏng trên mũ, trên áo của những tay “du lịch bụi” như chúng tôi. Balô nặng trĩu vì phải mang gạo và đồ ăn cho 2 ngày. Vừa leo núi vừa ngẫm nghĩ về hơn 700 năm trước, vị vua Trần Nhân Tông đã từ bỏ ngai vàng tìm lên núi cao, khoác áo cà sa để tu hành. Chợt nghĩ, triều đại rồi cũng có lúc bị diệt vong, nhưng thiền phái Trúc Lâm thì tồn tại qua hết triều đại này đến triều đại khác.


ThapCo-2
Du khách chụp ảnh cùng nhà sư Thích Đạt Ma Trí Thông trên nền chùa cổ.

Chùa Hồ Thiên hiện ra giữa đại ngàn tây Yên Tử, có một bàn thờ Phật và 6 bức tượng. Nhà khách thì rộng, lát gạch đỏ, có đủ chăn chiếu cho khách nghỉ đêm. Giờ lên đến chùa thường là cuối buổi chiều, sắp đến giờ làm lễ. Buổi lễ chiều thứ bảy lại có thêm gần hai chục học sinh THCS là dân địa phương lên nghe sư thầy giảng về Phật pháp và được cùng làm lễ trong “chùa”. Ngôi chùa bằng tôn ở vị trí cao gần 1.000 mét so với mặt nước biển. Chùa Hồ Thiên giờ đây chỉ còn là vậy. Những dấu tích còn lại gần như nguyên vẹn chỉ còn lại tòa tháp bằng đá xanh cao 7 tầng đang lưu giữ xá lị của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Tòa tháp được tổ đời thứ hai, thiền sư Pháp Loa cho dựng sau khi Trần Nhân Tông viên tịch năm 1308. Tòa tháp vẫn sừng sững giữa đại ngàn cho dù đã bị đào bới săn tìm báu vật và bức tượng đá đen do Phật hoàng Trần Nhân Tông tạc cũng thất lạc. “Chứng nhân” còn lại ở đây từ thời Trần Nhân Tông đang tu hành đó chính là cây vải và cây đại. Cách đây vài năm, lâm tặc còn về đây chặt nguyên cả cành đường kính tới 60cm của cây vải này.

Một tháp gạch khác cũng còn, nhưng trong tình trạng bị mất đỉnh với bức tượng bị cụt đầu đã được thay bằng đầu bằng ximăng và thêm 2 tòa sen vốn là chân của 2 tòa tháp khác cũng được gắn lại bằng ximăng. Những tảng đá được người xưa đục đẽo tinh tế và vận chuyển chắc chắn là vô cùng khó mới lên đến được tận đây. Có thời gian, những khối đá đó bị vứt chỏng chơ, được nhà sư Thích Đạt Ma Trí Thông gắn lại bằng ximăng. Rồi nhà sư này bê từng viên gạch, từng cân ximăng xây lại vài công trình nhỏ cho du khách có chỗ nghỉ chân.


Theo chân nhà sư Thích Đạt Ma Trí Thông ra vị trí nơi trước kia là chùa Hồ Thiên của 700 năm trước, một vị trí mà bất cứ nhà phong thủy nào cũng phải thốt lên là thật đẹp. Nằm lưng chừng núi, trên một bãi đất bằng phẳng giữa hai sườn núi chạy về 2 phía, phía trước mặt xa xa là cả một quần thể núi non và Hồ Thiên phía dưới chân núi. 700 năm sau, chỉ còn lại những chân cột đá hoa sen mà nhìn về kích thước và ngẫm lại quãng đường leo núi thì thật khâm phục tại sao người xưa có thể đưa được lên đây.


Chiều sương Yên Tử hôm ấy, bữa cơm chay với mùi hương của lá cỏ nếp không hiểu sao lại rất nhiều ở đó, rồi tối ấy được sư thầy nói chuyện về Phật pháp, về Phật hoàng Trần Nhân Tông. Khi ngả lưng chợp mắt vẫn nghe thấy tiếng mõ tụng kinh thoảng xa.

(Lao động)

Bài viết liên quam đến chủ đề:
KHÁM PHÁ KHO BÁU BỊ BỎ QUÊN CỦA DANH SƠN YÊN TỬ: Kỳ vĩ, bí ẩn ở sườn Tây
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/11/2010(Xem: 8032)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
02/11/2010(Xem: 8134)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 4974)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37291)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6168)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6121)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5763)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5648)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5929)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5462)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]