Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Tiểu Sử Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Châu

03/09/201201:25(Xem: 9943)
01. Tiểu Sử Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Châu

TIỂU SỬ

TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH MINH CHÂU

(1918 - 2012)



Hòa thượng họ Đinh, húy Văn Nam, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, Xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng Giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7), nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé. Vì vậy, Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm.

Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng Cao đẳng Tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ Tú tài Toàn phần tại trường Khải Định - Huế (nay là trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký tòa Khâm sứ, tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm làm việc tại đây, Hòa thượng thấy nhiều bất công trong khâu xét xử, người dân bị xử ép oan sai mà sức mình không xoay chuyển gì được nên đã xin thôi việc.

Từ đó, Hòa thượng tham gia tích cực vào các phong trào thanh niên Phật giáo, những mong góp tài sức cho việc xây dựng xã hội lành mạnh, cũng như phát huy chánh pháp mà ngài tin tưởng. Cuối thập niên 1930 đến đầu thập niên 1940, Hòa thượng là một trong những người sáng lập Đoàn Phật học Đức dục và Gia đình Phật hóa phổ (tên cũ của Tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam sau này).

Đến năm 1946, nhân duyên học đạo đầy đủ, Ngài cầu pháp với Hòa thượng húy thượng Trừng hạ Thông, tự Chơn Thường hiệu Tịnh Khiết (Đức Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN) tại Tổ đình Tường Vân, thuộc làng Hạ I, xã Thủy Xuân, thành phố Huế và được Bổn sư ban cho pháp danh là Tâm Trí. Năm 1949 (Kỷ Sửu) Ngài được Hội đồng Thập sư đặc cách cho thọ Tam Đàn cụ túc và Hòa thượng Bổn sư ban cho pháp tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung.

Sau khi đã nhập vào hàng Chúng trung tôn, Hòa thượng vẫn không ngừng sinh hoạt với Hội Phật học Trung phần, chuyên cần diễn giảng Phật pháp khắp các chùa Hội, hướng dẫn các thanh, thiếu niên của Gia đình Phật tử, đóng góp bài viết cho tạp chí Viên Âm, Từ Quang, Liên Hoa,… Chủ bút tạp chí Tư Tưởng Vạn Hạnh. Năm 1951, khi Hội thành lập trường Trung học Bồ Đề đầu tiên ở Huế thì Hòa thượng được mời giữ chức Hiệu trưởng.

Từ năm 1952 đến năm 1961, Hòa Thượng xuất dương du học và đậu bằng Tiến sĩ Pàli và Phật Học tại Đại Học Phật Giáo Nalanda, Ấn Độ. Sau 14 năm du học ở nước ngoài, Hòa Thượng trở lại quê nhà và giữ chức vụ Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh từ năm 1964 đến năm 1975, chuyên lo sự nghiệp giáo dục và phiên dịch Kinh Tạng Pàli, hầu đóng góp tích cực vào công cuộc đào tạo Tăng tài cho PGVN.

Khi Viện Đại Học Vạn Hạnh bị Nhà nước CSVN chiếm dụng năm 1975, Hòa Thượng sử dụng cơ sở Phân khoa Khoa Học Ứng Dụng tại Phú Nhuận thành lập Viện Phật Học Vạn Hạnh (1976). Những năm tiếp theo đó, Hòa thượng tham gia Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (năm 1981), tâm nguyện của Hòa thượng luôn đặt nơi việc giáo dục, đào tạo nhân tài cho PGVN, nên đã tuần tự thành lập và đảm nhận làm Hiệu trưởng, Viện trưởng các Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam (1981) cơ sở I tại Hà Nội; Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam, cơ sở II tại Sài-gòn (1984); Viện Nghiên Cứu Phật Học VN (1989) và Hội Đồng Phiên Dịch Đại Tạng Kinh VN (1991).

Dù bận rộn nhiều công tác Phật sự Giáo hội và giáo dục Tăng Ni, Hòa Thượng vẫn dành thời gian nhất định để dịch thuật và biên soạn kinh sách để truyền bá lời Phật dạy. Tính đến nay có trên 30 tác phẩm do Hòa Thượng dịch và biên soạn, các tác phẩm và dịch phẩm chính gồm có:

* Những dịch phẩm, Kinh Tạng Pàli:

  • Kinh Trung Bộ
  • Kinh Tăng Chi Bộ
  • Kinh Tiểu Bộ
  • Kinh Trường Bộ
  • Kinh Tương Ưng Bộ

a. Kinh Pháp Cú

b. Kinh Phật Tự Thuyết

c. Kinh Phật Thuyết Như Vậy

d. Kinh Tập

e. Trưởng Lão Tăng Kệ

f. Trưởng Lão Ni Kệ

g. Bổn Sanh (2 tập)

* Dịch từ Abhidhamma:

- Thắng Pháp Tập Yếu Luận (Abhidhamma Atthasangaha)

* Tác phẩm tiếng Anh của Hòa Thượng :

  1. Hsuan T'sang, The Pilgrim and Scholar(Huyền Trang nhà Chiêm bái và học giả - NS Trí Hải dịch ra Việt văn)
  2. Fa-Hsien, The Unassuming Pilgrim(Pháp Hiển nhà Chiêm bái khiêm tốn - NS Trí Hải dịch ra Việt văn)
  3. Milindapannha And Ngasenabhikhustra- A comparative study (Cư sĩ Nguyên Tâm - Trần Phương Lan dịch ra Việt văn)
  4. The Chinaese Madhyama gama and The Pli Majjhima Nikaya (A comparative study)- Luận án Tiến sĩ Phật học (NS Trí Hải dịch ra Việt văn)
  5. Some Teachings Of Lord Buddha On Peace, Harmony And Humadignity

Sách viết bằng tiếng Việt:

  1. Phật pháp (đồng tác giả)
  2. Đường về xứ Phật (đồng tác giả)
  3. Những ngày và những lời dạy cuối cùng của đức Phật
  4. Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa (dịch)
  5. Sách dạy Pli
  6. Dàn bài Kinh Trung bộ (chưa in)
  7. Toát yếu Kinh Trường bộ (chưa in)
  8. Toát yếu Kinh Trung bộ (chưa in)
  9. Chữ Hiếu trong đạo Phật (đồng tác giả)
  10. Hành thiền
  11. Lịch sử đức Phật Thích ca
  12. Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi
  13. Chánh pháp và hạnh phúc
  14. Đạo đức Phật giáo và hạnh phúc con người (2002)
  15. Những mẫu chuyện đạo (2004)
  16. Đức Phật nhà đại giáo dục (2004)
  17. Đức Phật của chúng ta (2005)
  18. Mở từ mở ra, khổ đau khép lại (2006)
  19. Những gì đức Phật đã dạy (2007)
  20. Hiểu và hành Chánh pháp (2008)
  21. Chiến thắng ác ma (2009)

Trên đường phát triển nền Phật học VN, Hòa Thượng luôn chủ trương truyền bá tư tưởng Phật học của ba bộ phái Phật Giáo lớn: Thượng Tọa Bộ, Nhất Thiết Hữu Bộ và Đại Thừa, và thường nghĩ đến phần giáo lý Phật Giáo căn bản chung cho các bộ phái để thiết lập cơ sở thống nhất về mặt tư tưởng Phật học.

Vào lúc 9 giờ sáng ngày 01/9/2012, nhằm ngày 16/7 Nhâm Thìn, Ngài thâu thần tịch diệt tại Thiền viện Vạn Hạnh, trụ thế 95 năm, với 64 hạ lạp.

Cuộc đời và Đạo nghiệp của Ngài là tấm gương sáng của một bậc Cao Tăng Thạc Đức, hi hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giáo dục Phật Giáo, dịch Kinh, viết sách, góp sức cho Pháp Luân thường chuyển, hoằng pháp lợi sanh, cho nhân sanh được an lành, hạnh phúc, hướng thượng, giải thoát. Sự ra đi của Ngài để lại bao nhiêu niềm kính tiếc của Phật giáo đồ trong nước lẫn hải ngoại.

Thành kính cầu nguyện Giác Linh Cố Hòa Thượng cao đăng Phật quốc và sớm hồi nhập Ta Bà, để tiếp tục công cuộc hoằng pháp lợi sinh.

Nam mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Tam thế, Xuân Kinh Tường Vân Tổ Đình Trú Trì, Vạn Hạnh Thiền Viện Khai Sơn, húy thượng Tâm hạ Trí, tự Minh Châu, hiệu Viên Dung Trưởng Lão Hòa Thượng Giác Linh thùy từ chứng giám.




ht-minhchau

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2011(Xem: 5125)
Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) sau khi khoác tăng bào ở tuổi 40 đã chu du khắp nơi để thuyết pháp, giảng kinh, khuyên dân chúng giữ gìn mười điều lành, và từng trở về kinh đô Thăng Long tổ chức lễ thụ Bồ tát giới cho vua Trần Anh Tông và quan lại triều đình.
09/08/2011(Xem: 5448)
'Vậy là đã 700 năm, 7 thế kỷ trôi qua từ khi Đức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông viên tịch, thể nhập vào niết bàn an nhiên tự tại. Cả dân tộc Việt Nam đều được biết đến Ngài là một bậc quân vương anh minh của đất nước Đại Việt, mà cũng là một vị Sơ Tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Nói đúng hơn, Ngài là một vị “Vua Phật” của Việt Nam.
08/08/2011(Xem: 4952)
Lễ húy nhật cố Hòa thượng Thích Phước Huệ (1875 - 1963) - chùa Hải Đức
08/08/2011(Xem: 5492)
"Vì sao Thượng hoàng Trần Nhân Tông không ở lại Vũ lâm hay lựa chọn một nơi nào khác trên đất nước Đại Việt mà lại chọn Yên Tử để tu hành?" - Câu hỏi được phần nào lý giải trong tham luận của Nguyễn Trần Trương (Phó Ban Dân tộc tỉnh Quảng Ninh) trong Hội thảo tưởng niệm 700 năm ngày Đức vua
07/08/2011(Xem: 13001)
Nói đến tinh thần "Hòa quang đồng trần" tức là nói đến tinh thần nhập thế của đạo Phật, lấy ánh sáng của đức Phật để thắp sáng trần gian, “sống trong lòng thế tục, hòa ánh sáng của mình trong cuộc đời bụi bặm”, và biết cách biến sứ mệnh đạo Phật thành lý tưởng phụng sự cho đời, giải thoát khổ đau cho cá nhân và xã hội. Thời đại nhà Trần và đặc biệt vua Trần Nhân Tông (1258-1308) đã làm được điều này thành công rực rỡ, mở ra trang sử huy hoàng cho dân tộc.
04/08/2011(Xem: 5248)
Hòa thượng Thích Bích Lâm, nguyên Phó Viện trưởng Viện Hoằng đạo, Giáo hội Phật giáo Cổ truyền Việt Nam; nguyên Chánh Đại Diện GHPGCT Trung phần, Tổ thứ 3 Tổ đình Nghĩa Phương, Tổ Khai sơn các chùa thuộc Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương, Tông trưởng Tông phong Tổ đình Nghĩa Phương (1921 - 1972).
30/07/2011(Xem: 7326)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
28/07/2011(Xem: 5760)
Hòa Thượng Thích Đạt Hảo, Hòa thượng Thích Đạt Hảo thế danh Lê Văn Bân, pháp danh Tánh Tướng, pháp hiệu Đạt Hảo, sanh năm Đinh Tỵ (1917), tại ấp Bình Hữu, xã Đức Hòa Thượng, huyện Đức Hòa, tỉnh Gia Định (1). Sư là con út trong gia đình có 6 anh chị em, 2 người trai bốn người gái; đặc biệt cả nhà có 8 người đều lần lượt xuất gia tu hành: -Phụ thân Lê Văn Bộn (1876- 1943), pháp danh Tánh Từ, pháp hiệu Đạt Bi. -Mẫu thân Ngô Thị Cờ (1884-1941), pháp danh Tánh Niệm, pháp hiệu Đạt Phật. -Chị thứ 2 Lê Thị Tình (1901-1970), pháp danh Tánh Hóa, pháp hiệu Đạt Đạo. -Chị thứ 3 Lê Thị Ưa (1904- ?) pháp danh Tánh Viên, pháp hiệu Đạt Thông. -Chị thứ 4: Lê Thị Luận (1907- ?), pháp danh Tánh Minh, pháp hiệu Đạt Quang. Chị thứ 5 Lê Thị Nghị (1909- ?), pháp danh Tánh Hồng, pháp hiệu Đạt Tâm -Anh thứ 6 Lê Văn Kỉnh (1915-1962), pháp danh Tánh Kỉnh, Pháp hiệu Đạt Xương. -Em út là Hòa thượng Thích Đạt Hảo.
15/07/2011(Xem: 7161)
Thiền sư húy thượng NGUYÊN hạ BÀNG - ĐẠI NGUYỆN tự CHÍ NĂNG hiệu GIÁC HOÀNG , thế danh LÊ BẢN, sinh năm Canh Dần 1950, tại thôn An Ngãi, xã Nhơn An huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Ngài sinh trong một gia đình nhiều đời sùng kính Tam Bảo. Thân phụ: Cụ ông LÊ TRÀ, thân mẫu: Cụ Bà TRẦN THỊ TÁM. Ngài là anh cả trong gia đình gồm có năm người con.
24/06/2011(Xem: 5893)
Vua Lê Đại Hành mất vào năm 1005, các hoàng tử tranh giành ngôi vua tạo nên cảnh khổ đau tràn ngập cho Dân Tộc, bên trong bị nội loạn, bên ngoài bị ngoại xâm đe dọa. Trước những thảm trạng đen tối u ám và đầy dẫy những thống hận đó, Vạn Hạnh thiền sư xuất hiện như một thứ ánh sáng phi thường quét sạch vùng trời giông tố để đưa vận nước bước vào thời đại huy hoàng thịnh trị.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]