Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Ngưỡng vọng Giáo sư Trần Phương Lan

02/04/201113:33(Xem: 5920)
6. Ngưỡng vọng Giáo sư Trần Phương Lan


Cô, một vì sao sáng trên nền trời tri thức, bằng sự ngưỡng vọng của người học trò, Cô vô cùng tuyệt vời trong lòng chúng tôi. Và rồi… cơn gió vô thường chợt đến, bảy mươi mốt tuổi xuân, Cô đã từ biệt cuộc đời, từ biệt cõi vô thường trên chuyến đò cuối cùng đưa khách sang sông…

Bên hiên nhà lắng nghe ngọn gió thổi

Mảnh trăng gầy mang một nỗi hoài mong.

Với gió, với trăng, với lòng đầy ưu tư khắc khoải, trái tim như thổn thức mang trong mình một nỗi nhớ về vùng đất kinh thành, nơi chan chứa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam, nơi uy nghi với hệ thống đền đài lăng tẩm, nơi nhẹ nhàng phảng phất buồn với núi Ngự, sông Hương cùng những điệu hò rất Huế chứa chan sắc màu của hoài cổ, yêu thương.

Vùng đất êm đềm, thâm trầm sâu lắng ấy, nơi sinh ra biết bao con người tài hoa, cống hiến cả cuộc đời trí tuệ cho quê hương đất nước, giáo sư Trần Phương Lan, người con gái của đất kinh thành mộng mơ, nơi đã làm lưu luyến bao thi nhân mặc khách. Bởi…

Gió chiều vương áo nàng thôn nữ

Quai lọng nghiêng vành chiếc nón thơ.

Cái dịu dàng, yêu kiều mềm mại của những cô gái với chiếc nón bài thơ đượm nhuần trong Cô, một dáng người mảnh mai cao ráo, nụ cười điềm tĩnh luôn hiện trên môi, ẩn chứa phong thái của sự sâu lắng và hiền hòa như người ta vẫn thường nói về Huế - “chẳng nơi nào có được, nét dịu dàng pha lẫn trầm tư”. Vâng! Chính cái dịu dàng và trầm tư ấy đã khiến bao thế hệ học trò chúng tôi không thể nào quên được Cô, người lái đò vẫn bao năm tận tụy trong sự hy sinh thầm lặng để đưa người sang sông.

Nguyên Tâm, người nữ đệ tử của Hòa thượng Thích Minh Châu, người đã phụng sự cho Đạo Pháp bằng cả một chữ “Tâm” trong sáng, tròn đầy, người đã góp phần vào việc xây dựng một ngôi nhà Phật giáo Việt Nam phát triển vững mạnh bằng chính trí tuệ học thức của mình, làm chiếc cầu nối, truyền tải giáo lý Phật Đà đến với tất cả mọi người bằng con đường dịch thuật. Hiện đã có rất nhiều các tác phẩm Phật học được Cô chuyển ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Việt, giúp mọi người có thể vượt qua được hàng rào cản về sự bất đồng ngôn ngữ, tạo điều kiện dễ dàng trong việc học Phật, trong thế giới “Phật pháp cao sâu quá nhiệm mầu”, lấy pháp Phật chuyển hóa nội tâm, chuyển hóa mọi nỗi khổ niềm đau trong cuộc sống. Một cuộc đời phụng hiến cho Đạo pháp và Dân tộc, Phật tử Nguyên Tâm (Giáo sư Trần Phương Lan), một tấm gương sáng cho đàn hậu bối học tập và noi theo. Bên cạnh con đường dịch thuật, Cô còn là Phó Trưởng khoa kiêm Giảng viên phụ trách môn Anh văn Phật pháp của Học viện Phật giáo Việt Nam tại Tp.HCM, đồng thời là cộng tác viên cho nhiều tờ báo như: Nguyệt san Giác ngộ, Tạp chí Văn hóa Phật giáo, v.v... Một Phật tử thiện tri thức với con đường dịch thuật và giáo dục đã cống hiến rất nhiều vào sự phát triển của Phật giáo Việt Nam và ươm mầm những bông hoa tương lai làm rạng rỡ cho Phật giáo nước nhà.

Đối với Cô, thời gian thật vô cùng quý báu, để xây dựng một nền giáo dục tốt một phần cũng phải nhờ vào sự cố gắng của người cầm phấn trong mỗi giây mỗi phút. Mở đầu mỗi buổi giảng vẫn là nụ cười thân mến với giọng nói nhẹ nhàng “Hello Brothers and sisters! How are you today? and How do you learn English well?” nghĩa là: Chào quý thầy, quý cô!, Quý thầy cô có khỏe không? Có chuẩn bị bài tốt không, và câu trả lời của chư huynh đệ vẫn luôn là “Yes, Madam!”. Thân thương lắm! Dù chỉ là những câu chào quen thuộc vào mỗi buổi đến lớp nhưng đã làm cho huynh đệ chúng tôi phải ngậm ngùi trong dòng lệ chiều nay của ngày đưa Cô về nơi an nghỉ cuối cùng. Nụ cười thân thương với ánh mắt hiền từ đã lắm lúc làm chúng tôi phải tự hổ thẹn với chính mình khi chưa chuẩn bị bài tốt. Suốt thời gian ngồi trên ghế Học viện với những giờ Anh văn Phật pháp, huynh đệ chúng tôi vẫn luôn được thức nhắc phải cố gắng học thật tốt, biết đọc, biết viết, biết dịch thuật, để trở thành những người đại diện cho Phật giáo Việt Nam, giao lưu Phật pháp với các nước trên thế giới, vì đây là thời kỳ hội nhập, ngôn ngữ vô cùng quan trọng để người với người hiểu nhau hơn, cùng nhau chung tay đưa Phật pháp đến với nhân loại. Những hy vọng vào một thế hệ trẻ tương lai cho Phật giáo Việt Nam cũng như tình cảm của Cô dành cho học trò mình vẫn luôn hiện sinh qua những trang sách dịch thuật, những thời giảng bài của Cô. Thân thương đến vô cùng!

Cô, một vì sao sáng trên nền trời tri thức, bằng sự ngưỡng vọng của người học trò, Cô vô cùng tuyệt vời trong lòng chúng tôi. Và rồi… cơn gió vô thường chợt đến, bảy mươi mốt tuổi xuân, Cô đã từ biệt cuộc đời, từ biệt cõi vô thường trên chuyến đò cuối cùng đưa khách sang sông…

“Thân xác này trả về cát bụi

Cõi hồng trần nhẹ gót ra đi”

Cô đã đi rồi, để lại bao thương tiếc bùi ngùi cho đàn hậu học hôm nay. Một bậc Thầy tri thức đã không còn nữa. Nước mắt huynh đệ lặng lẽ rơi giữa làn khói hương trầm trước di ảnh của Người.

Dòng Hương giang con nước thẫn thờ trôi

Như tiễn đưa người con xứ Huế

Niềm tiếc thương trở về lòng đất mẹ

Bến đò buồn đã thiếu vắng người đưa.

“Những gì cống hiến cho cuộc đời sẽ tồn tại mãi cùng thời gian”.

Mặc dầu thân xác không còn nữa, nhưng những gì Cô để lại cho sự nghiệp Hoằng pháp, cho nền học thuật, cho những người học trò hôm nay vẫn còn mãi lưu dấu cùng năm tháng.

Một tầm lòng cao quý

một Phật tử thuần thành

một bậc thầy khả kính

mãi mãi được khắc ghi.

Trong kinh, Đức Phật dạy: “Sanh như đắp chăn bông, tử như cởi áo hạ”, và rồi 17/02 năm Tân Mão, Cô đã trút bỏ huyễn thân giả tạm để về với quê hương thật sự của mình, ở đó an vui và thanh tịnh trong ánh sáng mười phương chư Phật. Xin cho con được nhất tâm cầu nguyện hương linh Người luôn được an nhiên, tự tại trở về Đâu Suất Đà Thiên của Bổn quốc Phật Di lặc, nơi Cô hằng mơ ước.

Sơn Trúc

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/07/2010(Xem: 6433)
Kính bạch Sư Tổ! Chúng con đang tập tiếp xúc với Người qua hình ảnh một bậc thầy già chốn núi rừng Dương Xuân. Một túp liều tranh, một bà mẹ già và với ba người đệ tử. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của Sư Tổ. Người có thời gian chăm sóc mẹ già và trao truyền những hoa trái tu học cho những người học trò yêu quý. Xuất thân từ làng Trung Kiên – một vùng đất Phật giáo ở Quảng Trị, Sư Tổ đã đến chùa Thiên Thọ (Báo Quốc) núi Hàm Long – Huế, để xuất gia học đạo với Thiền sư Phổ Tịnh, lúc đó Người chỉ mới lên bảy tuổi. Đến năm 30 tuổi, nhận thấy nơi Sư Tổ có chí khí của một bậc Xuất trần nên Sư Tổ được Bổn sư phú pháp truyền đăng với bài kệ: Nhất Định chiếu quang minh Hư không nguyệt mãn viên Tổ tổ truyền phú chúc Đạo Minh kế Tánh Thiên.
04/07/2010(Xem: 9518)
-Người đi tiên phong và nỗ lực không mệt mỏi cho sự nghiệp phát triển trí tuệ, từ bi và hòa bình- -Nhà lãnh đạo toàn cầu trong phong trào vì hòa bình, nhân quyền và sức khỏe cộng đồng-
14/06/2010(Xem: 4496)
Hòa Thượng Thích Bích Nguyên là một trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật giáo Lâm Đồng. Ngài họ Nguyễn, húy là Tùng, sinh năm 1898 tại làng Duy Hòa, xã Triệu Hòa, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Thuở nhỏ, bẩm chất thông minh, đĩnh ngộ. Thời tráng niên, lập nghiệp ở Lào, Hòa Thượng nhân đọc báo Từ Bi Âm mà ngộ đạo, thấy rõ cuộc đời vô thường, nuôi chí xuất gia. Đến năm 29 tuổi (1927), Hòa Thượng mới có đủ nhân duyên đầu sư thọ giáo với Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ, Trú trì chùa Hải Đức, Huế và đắc giới Sa di năm 1934. Năm 1936, ngài thọ Cụ túc giới với pháp hiệu BÍCH NGUYÊN, rồi theo học ở các lớp Phật học tại các Phật học viện Hải Đức, Bảo Quốc và Ấn Quang.
15/05/2010(Xem: 4343)
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Chí nguyện chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam Kỳ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc.
19/03/2010(Xem: 6360)
Một cặp kính trắng với sợi dây vòng ra sau cổ, năm ba con khỉ nhảy tung tăng trên vai, trên đầu, tóc tai rối rắm, áo quần cái dài, cái ngắn, kiểu đàn ông, đàn bà, đầy màu sắc sặc sỡ …đây là dáng người anh Bùi Giáng chúng ta thường gặp trên những nẽo đường Sài Gòn năm 1975 … Sau năm 1975 , anh Bùi Giáng về ở chung với chúng tôi trong nội xá viện Đại học Vạn Hạnh cũ (222 Trương Minh Giảng, nay là Lê Văn Sĩ). Vào thời điểm này, Đại học Vạn Hạnh không còn hoạt động, nên nội xá chỉ còn một số ít người ở lại với Hòa thượng Viện trưởng Thích Minh Châu. Chúng tôi quản lý chung, chú Chơn Thuần đi chợ và thị giả cho Hòa thượng Viện trưởng, anh Trần Châu phụ trách an ninh, anh Bùi Giáng thì nhận nhiệm vụ đi mua lương thực.
10/03/2010(Xem: 5173)
Bản thân tôi (Tín Nghĩa), rất ít có dịp thân cận với Ôn Già Lam. Điều dễ hiểu, vì tôi không xuất thân từ Phật Học Viện. Vả lại, mỗi lần Ôn về Huế (Bảo Quốc), thường vào dịp đầu xuân, thì đa phần Ôn hay đàm luận Phật sự với quý Ôn lớn như Ôn Linh Mụ, Ôn Trúc Lâm, Ôn Linh Quang, Ôn Từ Đàm và Ôn Bảo Quốc, . . . Đầu năm, Ôn thường hay nghe Đại luật (tức là dạy luật Tứ phần) cho hai chúng Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, thì tôi đạp xe ra học rồi về lại chùa. Vả lại, bổn phận của tôi ở chúng Trúc Lâm cũng tương đối bề bộn. Tuy thế, chính tôi lại có với Ôn ba kỷ niệm khó quên.
10/03/2010(Xem: 7658)
Bây giờ là những ngày cuối năm âm lịch. Thiên hạ cùng viết về Xuân, Tết. Tôi muốn viết về Ôn Già Lam và Tu viện Quảng Hương Già Lam. Ôn Già Lam là cách gọi tôn kính của những môn đệ và phật-tử hướng về Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ, vị viện chủ sáng lập tu viện. Trong tu viện, tăng chúng khi nói về ngài thì chỉ dùng chữ “Ôn” một cách gần gũi. Còn tu viện Quảng Hương Già Lam thì vẫn thường được gọi với cái tên thật ngắn: chùa Già Lam.
10/03/2010(Xem: 6060)
Ôn Già Lam, chỉ ba tiếng ấy thôi cũng đủ làm ấm lòng bao lớp Tăng sinh của các Phật Học Viện: Báo Quốc - Huế, Phổ Đà - Đà Nẵng, Hải Đức - Nha Trang, Già Lam - Sài Gòn. Ba tiếng nói ấy như trái tim của Mẹ ấp ủ đàn con qua suốt quãng đời dãi dầu mưa nắng. Ôn Già Lam, người đã hy sinh suốt đời mình để phụng sự cho Phật pháp, đào tạo Tăng tài qua nhiều thế hệ. Ôn đã khai phóng tinh thần thế học cho Tăng sinh các Phật Học Viện.
10/03/2010(Xem: 12780)
Sau năm 75 các Phật Học Viện đều đóng cửa. Các tăng sinh tại các Phật Học Viện đều trở về chùa cũ của Thầy Tổ để sinh sống và tu học. Thật tế, tu thì có mà học thì hầu như không. Có chăng là Thầy dạy đệ tử trong chùa. Những chùa có ruộng đất thì thầy trò tự túc canh tác để sinh sống. Sinh hoạt giáo dục và đào tạo tăng ni trẻ đã không còn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567