Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu sử Tổ sư Minh Hoằng Tử Dung

08/04/201319:01(Xem: 6577)
Tiểu sử Tổ sư Minh Hoằng Tử Dung

Đối với Phật giáo Huế nói riêng, Phật giáo Nam Hà nói chung, tổ Minh Hoằng Tử Dung có một vị trí thật đặc biệt. Bởi xét cho kỹ, đây là vị Sơ Tổ của Thiền phái Tử Dung - Liễu Quán ở Huế.



    Thế nhưng, cũng như chư vị Thiền Tổ khác, sử cũ Việt Nam ta không có quyển nào ghi chép rõ ràng; thậm chí một dòng bi ký cho thật chính xác khắc trên đá cứng cũng không có. Sách Đại Nam nhất thống chí (1910) chỉ ghi: “Chùa Từ Đàm: Ở trên gò ấp Bình An. Tương truyền chùa do Tử Thông Hòa thượng dựng, lại có tên chùa Ấn Tôn”.

    Lời ghi chép quá đơn sơ, lại có phần sai nữa. Tử Dung chứ đâu phải là Tử Thông? Những tấm bia đá dựng ở chùa Chúc Thánh - Quảng Nam, lại chỉ nói Ngài là: “Người Đại Thanh, qua An Nam, trác tích Thuận Hóa, lập chùa Ấn Tôn”.


    To Su Minh Hoang Tu Dung

    Hòa thượng Minh Hoằng Tử Dung 


    Tuy nhiên, một sự may mắn là tại chùa núi Phụng Sơn ở phủ Bình Khang còn có một bản Chánh Pháp Nhãn Tạng khắc vào giữa tháng 5 năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748), và trong quyển Liệt Tổ thiền truyện của ngài Bổn Quả Khoáng Viên khắc tại Trung Quốc, sau các Đại sư ở Thuận Hóa trùng khắc và tục biên; một bản Chánh Pháp Nhãn Tạng của ngài Chơn Kim Pháp Lâm soạn năm 1889 (Hiện chùa Viên Thông - Huế tàng bản) đã giúp chúng ta biết được các chi tiết sau: 
     

    Vào cuối đời Minh, tông Lâm Tế rất long thịnh ở Thiên Đồng Sơn và Khánh Sơn. Tại Thiên Đồng Sơn có phái Thiên Đồng Viên Ngộ; từ chùa Thiên Đồng có ngài Thông Thiên được phong làm Quốc sư hiệu là Hoằng Giác gọi là Quốc sư Thông Thiên Hoằng Giác, ở vào đời thứ 31 dòng Lâm Tế. Ngài này truyền thừa theo kệ của ngài Vạn Phong Thời Ủy; chúng tôi gọi là “kệ chùa Thiên Đồng”:

                                                  祖  道  戒  定  宗 
                                                  方  廣  證  圓  通 
                                                  行  超  明  實  際 
                                                  了  達  悟  真  空 

                                                  Phiên âm:


                                                 Tổ Đạo Giới Định Tông,
                                                 Phương Quảng Chứng Viên Thông,
                                                 Hạnh Siêu Minh Thật Tế,
                                                 Liễu Đạt Ngộ Chơn Không.

                                                 Tạm dịch:

     
                                                 Giới định là tông chỉ,
                                                 Rộng khắp chứng thần thông;
                                                 Hạnh vượt sang bờ Thật,
                                                 Tỏ ngộ đến chơn không. 
     
    Đồng thời Ngài cũng biệt xuất kệ và ra khai sơn chùa Thiên Khai. Kệ của Ngài là: Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên...; cũng đồng thời Ngài tự đổi Pháp húy thành Đạo Mân Mộc Trần; đó là kệ chùa Thiên Khai.

    Ngài viên tịch vào triều Lê, không rõ năm nào chỉ thấy ghi ngày 16 tháng 11.

    Có thể Ngài đã qua Nam với nhiều Ngài có chữ “Minh” đứng trước, các Ngài có thể ở chùa Thiên Đồng, có thể ở chùa Thiên Khai, chùa Báo Tư v.v... Nhưng  đều đi một lần với ngài Nguyên Thiều Hoán Bích vào năm 1676 hoặc 1677, cùng đổ bộ lên Quy Ninh. Ở đây, chúng tôi sẽ nói đến mấy vấn đề cần yếu sau:

    Trong bộ sách Việt Nam Phật giáo sử lược (1942), đã được in lại nhiều lần, Hòa thượng Mật Thể cho rằng: Tổ Minh Hoằng Tử Dung qua Thuận Hóa một lần với ngài Thạch Liêm vào đời chúa Nguyễn Phúc Thái (1687-1691) để ngồi trên ghế Thập Sư ở giới đàn  chùa Thiên Mụ; sau giới đàn Ngài ra lập chùa Ấn Tôn. Đoạn này, rất cần đến sự đính chính của hậu thế chúng ta. Thứ nhất, ngài Thạch Liêm qua Thuận Hóa năm Ất Hợi (1695) đời Nguyễn Phúc Chu, chứ không phải qua vào đời chúa Nguyễn Phúc Thái. Thứ hai, đại giới đàn năm Ất Hợi (1695) mở tại chùa Thiền Lâm chứ nhất định không phải là ở chùa Thiên Mụ. Thứ ba, tất cả chư Tăng trong đại giới đó đều là người Trung Quốc đệ tử của Thạch Liêm Thiền sư chứ không có ai khác, cho nên Tổ Minh Hoằng Tử Dung không can dự đến giới đàn này.

    Cũng trong sách nói trên, Hòa thượng Mật Thể đã dịch câu này trong văn bia: “Nhâm Thìn hạ, Hòa thượng lai quảng tấn toàn viện” thành ra như thế này: “Năm Nhâm Thìn (1712) mùa hạ, Hòa thượng vào Quảng Nam dự lễ Toàn Viện” (?). Có lẽ Hoà thượng Mật Thể đã theo bản Pháp văn của Louis Sogny trong bài Le premier Annamite... ở B.A.V.H. Số 3 năm 1928, khi nói đến Tổ Từ Lâm. Thực sự, có lẽ câu ấy muốn nói rằng mùa hạ năm Nhâm Thìn (1712) ấy, lễ an cư kiết hạ được tổ chức rất quy mô ở thiền viện Thiền Lâm thuộc vùng đất rất rộng trước mặt chùa Từ Đàm hiện nay; có thể chư Tăng ở Thuận Hóa - Quảng Nam vân tập về đây và toàn viện đã cung thỉnh ngài Tử Dung ở Ấn Tôn gần đó đến làm Thiền chủ. Cách chấm câu ấy có thể là: “Hòa thượng lai, quảng tấn toàn viện” tức là Hòa thượng đến, coi sóc nhắc nhở chu đáo mọi việc và sách tấn, khuyến khích chư Tăng để khai lễ cho chư Tăng vào hạ.

    Phương pháp hoằng giáo của sơ Tổ Minh Hoằng Tử Dung đúng là phương pháp của chư Thiền Tổ trong phái Lâm Tế chánh tông; tức là trao công án cho đệ tử “tham”. Công án Tổ Minh Hoằng Tử Dung đã trao cho ngài Liễu Quán là: “Vạn Pháp quy nhất, nhất quy hà xứ?” (萬法歸一一歸何處). Yếu  chỉ của Thiền Lâm Tế là đốn ngộ. Không kể lâu hay mau, khi vị Đại sư tham công án đến tột cùng, hoát nhiên ngộ đạo. Vị Thiền sư ngộ đạo sẽ biểu lộ bằng một hành động mà thế nhân thấy rất kỳ quặc, khác thường; hoặc làm một bài “kệ” để trình Tổ. Thấy đệ tử đạt, Thiền Tổ liền ấn chứng, người ta còn gọi là “ấn khả”, và chính vị Thiền sư được ấn khả đó là Tổ kế thế của vị Tổ trước. 

    90tolieuquan2 
    Ngài Liễu Quán đắc Pháp ở Sơ Tổ Minh Hoằng Tử Dung đúng theo truyền thống Lâm Tế chánh tông ấy. Theo thuyết truyền thì trong kỳ kiết hạ năm Nhâm Thìn (1712); sau khi ngài Liễu Quán trình Kệ “Dục Phật” - rất tiếc là bài kệ này không được chép lại - Sơ Tổ Minh Hoằng liền "ấn khả". Từ giờ phút được ấn khả thì “y bát” của Minh Hoằng Tử Dung Sơ Tổ tại Ấn Tôn Hoàng Long Sơn, đã đi về núi Thiên Thai. Sau một thời gian Thiền phái Tử Dung - Liễu Quán phát triển rực rỡ khắp cõi Thuận Hóa và lan ra cả Nam Hà từ thế kỷ thứ XVIII, kéo dài cho đến tận ngày nay.

    Tháp của Tổ Minh Hoằng Tử Dung trước đây được xây dựng trong khuôn viên chùa Từ Đàm, nhưng sau đó do Pháp mở đường Nam Giao cắt vườn chùa làm hai mảnh, nên tháp của Tổ Tử Dung phải di dời qua gởi ở góc vườn chùa Báo Quốc. Chúng ta hy vọng một ngày nào đó có điều kiện sẽ thỉnh tháp của Tổ quay lại sân chùa Từ Đàm như thuở ban đầu vốn có của nó.

    HT. Thích Hải Ấn




    Ý kiến bạn đọc
    17/11/201921:47
    Khách
    Ngài Minh Hoằng Tử Dung qua Nam Hà cùng chuyến thuyền buôn theo Suc971 sơ Tổ Nguyên thiều qua đất Nam Hà truyền pháp phái Lâm Tế.Truy và so ra thế thứ của Ngài minh hoằng thogn61 thuộc dòng LT kệ Tổ đạo Giới định Tông thuộc thế hệ thứ 34 dưới Đức Sơ tổ NT 1 đời kể luôn ngài Minh Hải-Pháp Bào sau nầy Ngánh ra phái Chúc Thánh cũng đời 34;chí đến ngài Thiệt Diệu-Liễu quán thuộc đời 35 nhỏ dưới Đức Sơ Tổ 2 đời[Cùng 1 đời với Đức tăng cang Quốc Sư Thiệt Thành-Liễu Đạt mà triều đình tôn là Liên Hoa Thiền Sư].Nhân đây nói cho rạch ròi kẻo có ai đây dụng tâm Ém sự tiên khởi truyền pháp phái vô Nam hà của Đức khai Sơn 2 ngôi Đại Doanh Lam cổ Soái sắc tứ Thập Tháp;Quốc Ân và trùng tu Hà Trung;muốn coi rỏ vui lòng truy trong sách VN PG sử Lược của Ngài Mật THể chùa Trúc Lâm Huế
    Gửi ý kiến của bạn
    Tắt
    Telex
    VNI
    Tên của bạn
    Email của bạn
    20/10/2019(Xem: 4595)
    Viện chủ TỔ ĐÌNH SẮC TỨ TỪ QUANG (Đá Trắng - Phú Yên) Hòa thượng Thích Phúc Hộ, thế danh là Huỳnh Văn Nghĩa, sinh ngày 24 tháng 7 năm Giáp Thìn (1904) đời vua Thành Thái năm thứ 16 tại làng Triều Sơn, xã Xuân Thọ, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Song thân của Ngài là cụ ông Huỳnh Trung và cụ bà Trần Thị Nho.
    20/10/2019(Xem: 6735)
    Thân thế: Cố Đại đức thế danh Lê Quý Trúc Bảo, sanh vào ngày 23/3/1975 trong một gia đình nhiều đời theo Phật. Trong lần gia đình di cư đầu tiên vào Nam, song thân đã sinh Đại đức (ĐĐ) tại Tam Bình, Thủ Đức, Gia Định. Thân phụ là ông Lê Quý Triết, Thân mẫu là bà Hoàng Thị Tựu; nguyên quán Trà Trì, Hải Xuân, Hải Lăng, Quảng Trị. ĐĐ sinh ra trong gia đình có 8 anh em gồm 3 người anh trai, 2 em gái và 2 người em trai. Sau 30/4/1975 gia đình trở về nguyên quán Trà Trì, Quảng Trị. Đến tháng 7/1977 gia đình của cố ĐĐ lại một lần nữa di cư vào Nam và trú ở vùng kinh tế mới tại Châu Thành, Đồng Nai. - năm 1981-1986, cố ĐĐ học trường Tiểu học Quảng Thành, Châu Thành, Đồng Nai - năm 1986-1990, cố ĐĐ học trường Trung học cơ sở Kim Long, Châu Thành, Đồng Nai.
    20/10/2019(Xem: 4627)
    Hòa thượng sinh ra và lớn lên trong một gia đình khoa bảng nho học, nhưng dường như vốn có túc duyên nhiều đời với Phật pháp nên từ lúc thiếu thời khi còn đi học tại trường Trung học Dũng Lạc Hà Tây, Hòa thượng đã có xu hướng tìm hiểu Phật giáo. Đến năm 19 tuổi (1953) Ngài lặng lẽ từ biệt gia đình cùng người thân, từ giã nơi chôn nhau cắt rốn lần bước đi tìm thầy xuất gia cầu Đạo để hoàn thành ước nguyện của mình.
    20/10/2019(Xem: 4986)
    CỐ TRƯỞNG LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TRÍ HẢI Thành viên Hội Đồng Chứng Minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Chứng minh Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Quảng Trị Nguyên Phó trưởng ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Quảng Trị Trú trì Tổ đình Sắc tứ Tịnh Quang – Quảng Trị; Tổ đình Hải Đức – Huế THÂN THẾ Hòa thượng họ Võ, húy Viết Hữu, nối pháp dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 41, pháp danh Không Cẩn, tự Trí Hải. Hòa thượng sinh năm Tân Tỵ [1941] tại thôn Phương Lang, xã Hải Ba, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Hòa Thượng xuất thân trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo, thân phụ là Cụ ông Võ Viết Linh – pháp danh Nguyên Minh, thân mẫu là Cụ bà Nguyễn Thị Diệm – pháp danh Nguyên Huệ. Ngài là người con út trong gia đình có 8 anh chị em.
    20/10/2019(Xem: 7580)
    Hòa thượng là người làng Triều Thủy, xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tên thật là Nguyễn Đình Hiệp, sinh năm 1938, mất năm 1973 tại Sài Gòn. Sinh trong một gia đình thuần Phật có 9 anh em 4 trai 5 gái mà Hòa thượng là con út. Thân phụ là cụ Nguyễn Đình Thắng, pháp danh Tâm Minh, tự Diệu Dụng. Thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Lang, pháp danh Tâm Lạc.
    20/10/2019(Xem: 5109)
    Cố Đại Lão Hoà Thượng Thích Hộ Giác (1928 – 2012) – Phó Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. – Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam. – Nguyên Tổng Thư Ký Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam. – Nguyên Thành Viên Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo. – Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Cư Sỹ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. – Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Hoằng Pháp Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. – Nguyên Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Xã Hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. – Nguyên Phó Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. – Nguyên Tổng Thư Ký Hội Đồng Lãnh Đạo GHPGVNTN Hải Ngoại. – Nguyên Chủ Tịch Văn Phòng II Viện Hoá Đạo GHPGVNTN Hải Ngoại Tại Hoa Kỳ. – Nguyên Chủ Tịch Hội Đồng Điều Hành Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam Tại Hoa Kỳ. – Viện chủ Tổ Đình (PHV) Pháp Quang; chùa Nam Tông; chùa Xá Lợi Phật Đài (Việt Nam). – Viện chủ Pháp Luân Tự, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ.
    20/10/2019(Xem: 5166)
    Hòa thượng đạo hiệu Thích Minh Cảnh, thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 40. Hòa thượng thế danh Nguyễn Hữu Danh, sinh ngày 12-11-Đinh Sửu (1937) tại làng Mỹ Tho, quận Cao Lãnh (Đồng Tháp). Hòa thượng xuất thân trong gia đình kính tin Tam bảo, thân phụ là cụ ông Nguyễn Minh Biện, pháp danh Minh Chiếu, thân mẫu là cụ bà Trần Thị Mậu, pháp danh Diệu Thiệt. Hòa thượng là người con út, là con thứ 9 (miền Nam gọi là thứ 10) trong gia đình có 9 anh chị em, với bốn người anh, chị xuất gia tu học.
    20/10/2019(Xem: 4581)
    TIỂU SỬ HÒA THƯỢNG GIỚI NGHIÊM (THITASÌLA MAHATHERA) (1921 - 1984) Nguyên: - Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravàda) Việt Nam. - Thành viên Hội Đồng Chứng Minh Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. - Phó Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam. - Phó Chủ Tịch Hội Hữu Nghị Việt Nam - Campuchia.
    20/10/2019(Xem: 16732)
    Hòa thượng Giác Khang thế danh Tô Văn Vinh sinh năm 1941 tại tỉnh Bạc Liêu. Thân sinh là cụ ông Tô Khanh. Thân mẫu là cụ bà Trần Thị Vén. Gia đình có 5 trai, 5 gái. Hòa thượng là con thứ 8 trong gia đình. Hòa thượng tốt nghiệp Tú Tài và học Cao đẳng Sư phạm. Ra trường đi dạy học ở Cái Côn – Cần Thơ.
    facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
    Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
    nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

    May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
    Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
    may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
    the Land of Ultimate Bliss.

    Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
    Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
    Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
    Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
    Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
    Website: http://www.quangduc.com
    http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
    Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
    [email protected]