Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 16: Như Áng Mây Bay

25/12/201006:54(Xem: 8644)
Chương 16: Như Áng Mây Bay

NHƯ ÁNG MÂY BAY

Cuộc đời của Đại Lão Hòa Thượng
THÍCH ĐÔN HẬU
Đệ tử Tâm Đức phụng sọan
Thất chúng môn đồ ấn hành 2010 USA

QUYỂN NĂM:
CƯ TRẦN LẠC ÐẠO


Chương 16: Như Áng Mây Bay

Ngày 27-3-1992: Hòa Thượng Thích Quảng Ðộ trở về Sài Gòn.

Ngày 23-4-1992: Vào lúc 20 giờ Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu viên tịch, trụ thế 87 năm, 67 pháp lạp. Nghi lễ Nhập Tháp do Hòa Thượng Huyền Quang soạn, câu đối do Thượng Tọa Tuệ Sỹ sáng tác.

Ngày 2-6-1992: Chính phủ Võ văn Kiệt công bố đã đóng cửa tất cả các trại cải tạo trên toàn quốc.

*

* *

Vào đầu năm 1992 căn bệnh phổi đầy nước tái phát. Bệnh của Hòa Thượng ngày càng trầm trọng. Bác sĩ, y tá, Tăng Ni, Phật Tử ngày đêm săn sóc, nhưng bệnh tình của Hòa Thượng không thuyên giảm. Hòa Thượng viên tịch ngày 21 tháng 3 Âm Lịch.

Tiểu Sử trong trang 72 ghi: “Vào dịp Tết Nguyên Ðán, Hòa Thượng vẫn khỏe khi ngồi tiếp chuyện với chư vị Hòa Thượng, Thượng Tọa trong Hội Ðồng Lưỡng Viện đến vấn an và chúc thọ Ngài. Ðến giữa tháng Ba, pháp thể Hòa Thượng khiếm an.

Sau một tuần tịnh dưỡng, đúng giữa giờ Thìn, ngày Thân, tháng Thìn, vào lúc 8 giờ tối ngày 21 tháng 3 Âm Lịch, tức ngày 23 tháng 4, 1992, Hòa Thượng xả bỏ báo thân, an nhiên thị tịch. Hòa Thượng trụ thế 87 năm và 67 Pháp Lạp”.

Hòa Thượng đã trụ thế, tu đạo, hành đạo, ra đi NhưÁng Mây Bay.

Cuộc đời của Hòa Thượng không khác ngọn gió bay qua khóm tre thân thuộc trong thôn xóm Việt Nam, mát mẻ mà không hệ lụy; không khác con chim nhạn bay qua hồ nước lạnh, không lưu lại bóng hình, thanh thoát không trụ trước, nhẹ nhàng Như Áng Mây Bay. Cuộc đời của Hòa Thượng có thể được diễn tả trong 4 câu thơ:

Phong lai sơ trúc,

Phong khứ nhi trúc bất lưu thanh.

Nhạn quá hàn đàm,

Nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh.

TANG LỄ.

Trước khi viên tịch, Hòa Thượng để lại Lời Di Huấn cho hàng thất chúng đệ tử và Chúc Thư cho thành viên Hội Ðồng Lưỡng Viện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Trong Lời Di Huấn, Hòa Thượng lưu ý hàng đệ tử ba điều quan trọng đó là:

1. Sống hòa hợp.

2. Tang lễ tổ chức giản dị theo truyền thống.

3. Sắp xếp chỗ đứng chỗ ngồi của chư Tăng Ni, quan khách theo luật định.

Ba điều này thể hiện một cách cụ thể lối suy nghĩ và hành xử của một nhà tu, vì Hòa Thượng luôn luôn là một nhà tu dù ở hoàn cảnh nào, vị thế nào.

Trong Chúc Thư, Hòa Thượng cũng lưu ý đến ba điều quan trọng:

1. Tiếp tục công việc của Giáo Hội đúng theo Hiến Chương của GHPGVNTN.

2. Tổ chức Ðại Hội VIII khi hoàn cảnh cho phép.

3. Quan tâm đến tổ chức Phật Giáo hải ngoại.

Hòa Thượng không quên đặt nặng trọng tâm nếp sống Phật Giáo là thanh tịnh và hòa hợp. Ba điều trong Chúc Thư cũng thể hiện rõ ràng lối suy nghĩ và hành xử của một nhà tu, có trọng trách đối với ngôi nhà Phật Giáo. Và trọng trách ấy cần được thực hiện đúng theo Hiến Chương, đúng theo luật Phật trong thanh tịnh và hòa hợp.

Sau khi Hòa Thượng viên tịch, Hội Ðồng Lưỡng Viện và môn đồ đệ tử thành lập Ban Tang Lễ theo lời Di Huấn của Hòa Thượng. Giản dị mà trang nghiêm. Khiêm cung mà cẩn trọng. Hòa Thượng không muốn có những lời tán dương trần thế, vì cuộc đời tu hành, hoằng đạo của Hòa Thượng chỉ hướng vào việc phụng sự Ðạo Pháp, do đó Ban Tang Lễ tuy rất tri ân Ðại Diện chính phủ muốn truy tặng huân chương cho Hòa Thượng nhưng không thể tiếp nhận được.

Vì Ban Tang Lễ không tiếp nhận huân chương do đại diện chính quyền truy tặng nên đã xảy ra sự hiểu lầm khiến cho chư Tăng Ni môn đồ đệ tử ngồi tuyệt thực trước kim quan Hòa Thượng.

Nhưng rồi mọi chuyện đều được dàn xếp thỏa đáng, Nghi Lễ Nhập Quan được tiến hành.

Kim Quan của Hòa Thượng được tôn trí trang nghiêm trong điện Ðịa Tạng cũ tại chùa Linh Mụ suốt 10 ngày. Trong thời gian này, chư Tăng Ni Phật Tử luân phiên tụng niệm.

Hòa Thượng Huyền Quang đã soạn Nghi Dự Tiến để cúng dường, nói lên công hạnh của cố Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu.

50

Hòa Thượng Trí Ấn Nhật Liên trao Lời Di Huấn của Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống
cho Hòa Thượng Huyền Quang trước kim quan (Tiểu Sử, tr. 35)

52
Hòa Thượng Huyền Quang, quyền Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo
đảnh lễ kim quan đức Ðệ Tam Tăng Thống (Tiểu Sử, tr. 73)

51
Tăng Ni môn đồ tuyệt thực trước kim quan (Tiểu Sử, tr. 35)
53
Chư Ni luân phiên tụng niệm (Tiểu sử, tr. 73)

NGHI DỰ TIẾN.

Cao Tăng Trừng Nguyên Ðôn Hậu, sắc tứ Linh Mụ Ðại Lão Hòa Thượng.

TIẾT THỨ LÀM NGHI.

– Chuông trống Bát Nhã - Cử nhạc khai đàn

– Chủ lễ lâm diên - Cử nhạc tham lễ

– Chủ lễ niệm hương - Dâng hương - tác lễ

Chủ lễ hạ phủ xích, xướng:

Ðại hạn đến rồi!

Giường hạc an nhiên phút mộng tàn,

Nghìn thu vĩnh biệt nẻo nhân gian.

Pháp âm gió thoảng, hồn ngơ ngác,

Tăng tướng mây bay dạ ngỡ ngàng!

Tuy nhiên:

Ðạo nghiệp một đời ghi đá trắng

Hóa thân muôn thuở ngự hoa vàng

Niết bàn, sinh tử không hai lẽ

Duy nguyên Tôn Sư giáng đạo tràng

Tả bạch xướng: Ðảnh lễ giác linh tam bái

Chủ lễ hạ xích thủ, tuyên dương thân thế, đạo nghiệp:

Kính bạch tân tịch Ðôn Hậu Hòa Thượng giác linh:

Hòa Thượng Người:

Cùng tỏ ngộ lòng thiền, trong cửa Tây Thiên, vâng lời thọ ký

Người khai Phật trí tại chùa Linh Mụ nối nghiệp độ sinh.

Người là: Non nước anh linh, trăng sao tú khí

Ngọc vàng tinh túy, tùng bá kiên cường!

Phật pháp đống lương, tông môn cương kỷ

Tào khê pháp khí, thiếu thất gia trân.

Người đã từ:

Quảng Trị nhà Diệp giáng trần, nhân gian thác chất

Xuân kinh cửa Tùng đầu Phật, thế ngoại thê thần!

Lúc thiếu thời, Người:

Ðèn sách chuyên cần, rừng Nho biển Thánh

Bút nghiên kiểu hãnh, cửa Khổng sân Trình

Trau dồi lý thuyết Năm Kinh

Xôi nấu từ chương Bốn Sách

Học tập trí tri vật cách

Thực hành tâm chánh thân tu...

Người thường thao thức:

Không lẽ kiếp sống phù du, nhắm mắt hồn tiêu vĩnh kiếp

Cuộc đời hồ địch, xuôi tay mộng vỡ trường niên?

Biết hỏi ai mở cửa thâm huyền,

Biết nhờ ai chỉ đường diệu ngộ?

Thế rồi Người vào Thuận Hóa,

Tâm Tịnh cầu thầy thế độ,

Tây Thiên xin tổ xuất gia.

Và, từ đó Người sống cuộc đời đạo hạnh:

Thanh tịnh thi la, quang minh bát nhã,

Họ Thích. Người nguyện xây nghiệp cả,

Dòng Thiền, Người mong xây dựng tôn cao!

Người được bổn sư:

Truyền áo phương bào, giữa lúc trăng sao lóng lánh,

Xoa tay viên đảnh, trong khi sương tuyết lạnh lùng!

Bổn sư ân cần chúc dặn:

Trong cửa ta: Ðôn Hậu sau cùng, Trừng Giác Nguyên trước hết,

Làm đạo chớ mỏi mệt, dựng nghiệp phải siêng năng...

Người lên đường tham phương du hóa:

Ðến gõ cửa: Hồng Khê tham vấn Ðại Tăng

Thập Tháp thỉnh cầu Thượng Sĩ

Cơ thiền huyền bí, ý tổ mật nghiêm...

Người đã bao lần chịu gậy (Bảng) dưới thềm

Và, mấy độ nghe la (Hát) trong thất.

Trong cơ sự bất ngờ ấy đã làm cho Người:

Mộng tan nửa giấc, hồn tỉnh một đời

Cơ Thiền diệu ngộ không lời,

Ý Tổ tâm truyền khó nói...

Người đã phát nguyện:

Thuyền từ bể khổ đăng trình,

Xe pháp đường mê thông lộ.

Người đã: Chuyển luân pháp cổ, hàng phục quân ma,

Hiệu triệu pháp loa, hoằng dương Phật đạo.

Khuôn phò tổ quốc, cháu con Vạn Hạnh tiên sinh,

Vận động hòa bình, thầy tổ nhất chi hậu bối.

Ðộ sanh: Người mở mang Phật hội,

Tiếp chúng: Người xây dựng tăng trường.

Cũng có lúc: lụy tiết vấn vương, chim kêu phi tội.

Ðấu tranh đòi hỏi, Người bảo vô công,

Thừa kế Thích Tông, Tăng Thống đại vì chỉ giáo.

Duy trì Thánh Ðạo, Giảo Quyền Phó Viện chủ trì,

Người tượng trưng cho:

Ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh.

Tỏ lòng thấy tánh, trăng sáng nước trong,

Thanh cao Linh Mụ tổ phong,

Nghiêm túc thiền tôn đại hóa.

Vị tha vô ngã, kiến nghĩa năng vi,

Hưng từ vận bi, dương nhơn bất nhượng.

Cao cả thay, Tòng lâm long tượng,

Quí báu thay, Ðôn Hậu cao tăng!

Chủ lễ hạ thủ xích, cảm thán:

Thế nhưng, việc phải đến đã đến,

Thật vô khả nại hà.

Than ôi:

Ðạo tràng gió tạt từ đăng,

Pháp hội khói tan tuệ cự

Giờ này: Tăng Ni đau buồn khắp xứ.

Thiện tín thương tiếc mọi nơi!

Tòng bá lệ rơi,

Trống chuông buồn trổi...

Chủ lễ hạ phủ xích, tuyên Pháp ngữ:

Kính bạch Tân Tịch Ðại Lão Cao Tăng Giác Linh:

Biết bao giờ nghe thầy hỏi đá: Phật tánh vân hà?

Biết mấy thuở thấy Tổ cầm hoa: Pháp thân như thị!

Như Người đã biết:

Sanh tử, niết bàn bất dị,

Bồ đề, phiền não vô thù.

Chỉ ngậm ngùi: Nhất biệt, thiên thu,

Mong sao được: Tam sinh tái ngộ.

Tả bạch tiến: Kính bạch giác linh tân tịch Hòa Thượng:

Pháp sư vừa cúng dường cam lộ,

Linh giác đã nạp thọ đề hồ.

Giờ này: Giáo đoàn pháp phái hiếu đồ,

Trân trọng thượng hương bái thỉnh:

Hương hoa thỉnh, hương hoa phụng thỉnh.

Chủ lễ hạ phủ xích, thượng hương sơ thỉnh:

Nam mô nhất tâm phụng thỉnh:

Thạch Liêm tục diệm, Liễu Quán truyền đăng,

biển pháp mạc vận cân bằng, rừng thiền hậu sanh sư tượng.

Hôm nay Pháp tịch, phụng vị:

Sắc tứ quốc tự, Thiên Mụ đường thượng,

nối dòng Pháp Lâm Tế đời thứ 42,

húy thượng Trừng hạ Nguyên,

tân tịch bổn sư, Hòa Thượng Giác Linh, liên đài tọa hạ.

Duy nguyện:

Hương lòng vừa bén, linh giác đã hay,

Pháp tịch vừa bày, nguyện xin chứng giám.

Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh...

Chủ lễ hạ phủ xích, thượng hương tái thỉnh:

Nam Mô Nhất Tâm phụng thỉnh:

Xích tâm tôn giả, cầu Phật đại phu,

Ấn tâm chánh thống nghìn thu,

y bát chơn truyền muôn thuở.

Hôm nay Pháp tịch phụng vị:

Tây Thiên đường thượng,

Nối dòng Pháp Lâm Tế đời thứ 42,

Pháp hiệu Ðôn Hậu, pháp sư giác linh, liên đài tọa hạ.

Duy nguyện đài vàng hoa rải, đảnh báu hương xông,

linh giác cảm thông, quang lâm Pháp Hội.

Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh...

Chủ lễ hạ phủ xích. Thượng hương tam thỉnh:

Nam Mô Nhất Tâm phụng thỉnh:

Cổ chùy đại sát, lão nạp tổ đình.

Thoại đầu khám phá nghi tình,

công án phát minh tín giải.

Hôm nay Pháp Tịch phụng vị: Thiền tôn tự tổ,

Nối dòng Pháp Lâm Tế đời thứ 42,

Truyền giáo Sa Môn, Bổn sư Giác Linh, liên đài tọa hạ.

Duy nguyện: Thiền sàng an tọa, trượng thất cao cư,

Duy nguyện thùy từ, chứng minh công đức.

Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh...

Nam Mô Ðăng Bảo Tọa Bồ Tát.

Tả bạch xướng: Sơ hiếu trà. Lễ tam bái. Ðồng quì.

Chủ lễ hạ phủ xích. Vịnh 1:

Tôn linh báo hiếu lễ nghiêm trang,

Duy nguyện tôn sư giáng đạo tràng.

Lễ nhạc hương hoa dâng cúng dưỡng,

Cúi đầu đảnh lễ trước tôn nhan.

Kệ trà:

Tôn nhan ngôi sư tượng,

Tướng hảo vẫn huy hoàng.

Dâng hương hoa cúng dưỡng,

Cúi lễ trước linh sàng.

Chủ lễ tuyên sớ:

Nguy nguy Tăng tướng,

Trạo trạo uy quang,

Thiên thượng nhân gian,

Tùy duyên ứng cúng.

Nay có hiếu chúng,

Thiết lễ an linh,

Tỏ tấc hiếu tình,

Sớ văn bái bạch.

Duy nguyện tôn sư cảm cách,

Từ bi túc đại chứng minh.

Tuyên đọc văn sớ:

Kính bạch Linh Mụ Tân Tịch Hòa Thượng Giác Linh:

Chúng con cung kính nghe rằng:

Ðại Phật xuất sinh,

Tự có ngày niết bàn an nghỉ.

Cao Tăng nhập diệt,

Há không dịp đền đáp thâm ân?

Sự ấy rất cần,

Lý đâu lại chấp.

Sớ rằng: Nay có Tỳ Kheo, hiếu đồ Thích Nhật Liên,

Cùng bốn chúng Tăng Ni, mười phương thiện tín,

thuộc các tổ đình Thiền Tôn, Tây Thiên, Linh Mụ...

ở cố đô Huế.

Giờ này cung kính quì trước tổ đình,

chí thành dâng lên Sư Tọa:

Tâm Hoa Bát Nhã, đạo vị Thiên Trù,

Thanh tịnh trai tu, thiền duyệt pháp hỷ.

Ngõ đền ơn khai thị, hầu tỏ dạ tiếc thương.

Hiếu tĩnh hương phẩm cúng dường, linh giác ái liêm chứng giám.

Chúng con tự nghĩ: Tôn sư Người,

Pháp thân diệu trạm, Phật tính Trừng Thanh,

Thuyết pháp độ sanh, tham thiền kiến tánh.

Non thần viên đảnh, nghe nhiều thấy rộng phẩm cao,

Ruộng phước phương bào, giống Thánh hạt lành giá quí.

Người là: Trần lưu đạo sĩ, tịch tịnh thiền tăng.

Than ôi:

Ðau lòng trước cảnh sơn băng,

Xót dạ trong tình hà ẩm?

Rồi đây: Áo não khói mờ màu giáo phẩm,

Gậy giày mưa xóa dấu (gót) Tăng quan!

Giờ thì: Tịch mịch thiền sàng, cô liêu linh tọa!

Từ nay: Ai phò cơ cao nghiệp cả?

Ai truyền diệu kệ chơn thuyên?

Hải hà đức lớn khó đền,

Khe hát lòng hèn nào bổ.

Thổn thức vì: Song lâm thiên cổ,

Nghẹn ngào vì: Chính lý nhất triêu.

Nay thời: Pháp tịch lâm triều, tang nghi cập nhật.

Cẩn cụ sớ văn tuân thức, hòa nam bái bạch xin nghe:

Nam Mô Sắc Tứ Quốc Tự, Thiền Tôn tổ đình,

Linh Mụ Tự Tổ, Tân Tịch Cao Tăng Ðôn Hậu

Sa Môn Hòa Thượng Giác Linh tác đại chứng minh.

Phục nguyện: Một tánh linh minh,

Tây phương trực vãng,

Ba thân viên mãn,

chánh giác vị thành.

Chứng pháp nhẫn vô sanh,

ngộ chân thừa đại định.

Mong Phật thọ mệnh,

ứng hóa độ sanh.

Cẩn sớ.

Tả bạch xướng: Hiến trà. Lễ tam bái. Ðồng quì.

Chủ lễ hạ phủ xích. Vịnh 2:

Sắc hương mỹ vị y hồ soạn,

thành kính dâng lên trước bảo đài.

Một bát hòa la đầy đạo vị,

Cúng dường Hòa Thượng Sứ Như Lai.

Kệ trà:

Như Lai, người sứ giả,

Ứng cúng khắp mười phương.

Một bát y hồ soạn,

Xin thành kính cúng dường.

Mỹ Hương Trai Bồ Tát Ma Ha Tát.

Tả bạch xướng: Phụng thực.

Tụng: Cúng dường thanh tịnh Pháp Thân...

Tả bạch xướng: Chung hiến trà. Lễ tam bái. Hồ quì.

Chủ lễ rung linh. Vịnh 3:

Người từ đâu đến, đi về đâu?

Ðạo lý vô sanh quá nhiệm mầu.

Ðến chẳng tằng sanh, đi chẳng diệt,

Ðến, đi, dấu tích khó tìm cầu.

Kệ trà:

Tìm cầu chi dấu vết,

Chẳng đến cũng chẳng đi.

Lý vô sanh đã nêu rõ,

Ði, đến hỏi làm gì?

Tụng: Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh...

Chủ lễ hạ phủ xích: Hồi hướng:

Vừa rồi bao nhiêu công đức, bấy hương hoa,

Thành kính thiết tha nguyện cúng dường.

Linh Mụ phương trượng giác linh tọa,

Duy nguyện ai liêm, thùy từ minh chứng.

Cúi mong Người hãy dùng thần thông cảm ứng,

Diệu dụng thiêng liêng.

Gia hộ cho:

Thanh tịnh nhà thiền, trang nghiêm chốn tổ,

Trong sáng tôn phong Linh Mụ,

Vàng son Tổ ấn thiền tôn,

Ðạo pháp trường tồn, núi sông vĩnh điện.

Và mong được, sống thời:

Nghe pháp dưới sân Tiêu Diễn,

Tham thiền trong thất thần quang.

Nối dòng lịch sử vẻ vang,

Noi dấu ông cha rạng rỡ.

Trúc Lâm muôn thuở,

Yên Tử nghìn thu.

Tăng Ni thực học chân tu,

Thiện tín xây đời giữ đạo

Tôn thờ Tam Bảo,

Ðền đáp Tứ Ân.

Ðồng hòa: Nam Mô A Di Ðà Phật.

Chủ lễ hạ phủ xích. Tán lưu:

Ðại Tăng tang sự rất trang nghiêm,

Long vị, thiền sàng đã tạm yên.

Nghi trượng thiền môn còn tiếp diễn,

Xin Người an nghỉ tại Linh Sàng.

Linh Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát.

Chủ lễ phủ xích. Kết diện, xướng:

An linh lễ tất,

Hiếu sự sơ thành.

Chuông trống hòa thanh,

Lễ từ ba lạy. Lễ chung.

LỄ NHẬP THÁP.

Lễ cung nghinh kim quan của Hòa Thượng nhập bảo tháp được tổ chức trọng thể và trang nghiêm vào đúng giữa giờ Mão, ngày Mồng Một tháng Tư Âm Lịch, vào lúc 6 giờ sáng ngày 3 tháng 5 Dương Lịch.

Tham dự Lễ Nhập Tháp có đầy đủ chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa trong Hội Ðồng Lưỡng Viện Giáo Hội PGVNTN, cùng chư Hòa Thượng, Thượng Tọa đại diện các Miền, Tỉnh, Quận.

Ngoài ra còn có sự hiện diện của chư tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa trong Hội Ðồng Chứng Minh, Hội Ðồng Trị Sự Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, phái đoàn Ðại diện Hội Ðồng Chính Phủ, Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Ban Tôn Giáo, đại diện Bộ Văn Hóa Thông Tin, phái đoàn Tỉnh Ðảng Bộ Ðảng Cọng Sản Việt Nam tỉnh Thừa Thiên, Huế, phái đoàn Tỉnh Bộ Ðảng Cọng Sản Việt Nam tỉnh Quảng Trị, phái đoàn đại diện các cơ quan, đoàn thể chuyên nghiệp công tư, cùng hàng vạn tín đồ Phật Tử, hàng nghìn Huynh Trưởng, Ðoàn Sinh Gia Ðình Phật Tử Thừa Thiên, Huế

Bảo Tháp của Hòa Thượng được xây dựng phía sau điện thờ Ðức Quán Thế Âm, trong khuôn viên chùa Linh Mụ.

Kiến trúc ngôi bảo tháp thể hiện được đường nét đặc trưng về sự đơn sơ và giản dị nhưng không thiếu phần mỹ thuật đúng y theo Lời Di Huấn của Hòa Thượng.

Thượng tọa Tuệ Sỹ mô tả cuộc đời Hòa Thượng Linh Mụ trong hai câu đối:

54

Lễ Nhập Tháp (Tiểu Sử, tr. 41)

Thiên chu mê vụ, cử trạo kích kinh đào,

thanh đoạn cửu thiên, trường xướng vô sanh vô ngã.

Kiều mộc tằng nham, phất vân khuy hạo nguyệt,

ảnh phù không dã, thùy tri tức vọng tức chân.

Và Thượng Tọa dịch ra chữ Việt bằng văn vần:

Thuyền con giữa chốn mịt mù,

vung chèo cỡi sóng, đêm thu bão bùng.

Lời ca vang chín từng không,

diễn lời kệ ngọc vô sinh nhiệm mầu.

Cây cao trên đỉnh ngút ngàn,

xé mây lóa ánh trăng vàng mát trong.

Bóng cây tỏa khắp ruộng đồng,

ai hay tâm vật sắc không là gì.

55

Hòa Thượng Thiện Hạnh thay mặt Ban Tang Lễ
đọc lời cảm tạ quan khách sau Lễ Nhập Tháp.
(Từ phải sang trái: Ô. Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương
Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Ô. Vũ Thắng, Bí Thư Tỉnh Ủy Thừa Thiên, Huế,
Ô. Nguyễn Chính, Phó Ban Tôn Giáo Chính Phủ. (Tiểu Sử, tr. 75)

Trong Light of Asia (Ánh Sáng Á Châu) thi sĩ người Anh Edwin Arnold bằng lời thơ bóng bẩy đơn sơ, như bức tranh thủy mạc, diễn tả Phật nhập Niết Bàn, gọn ghẽ trong bốn giòng thơ ngắn:

He is one with Life

Yet lives not. He is blest, ceasing to be

Om Mani Padme, Om! The Dewdrop slips

Into the shining sea!

Tôi tạm dịch:

Người và Nguồn Sống biến thành nhất thể

Cuộc đời nhân thế đâu người trải qua.

Người xa sinh tử Ba Tà, đi vào tịch tịnh hư vô Niết Bàn

Úm Ma Ni Bát Mê Hồng! Giọt sương tan biến đại dương sáng ngời.

Cuộc đời của Hòa Thượng

“Phong lai sơ trúc,

Phong khứ nhi trúc bất lưu thanh.

Nhạn quá hàn đàm,

Nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh!”

Hòa Thượng Thích Huyền Quang trong Nghi Dự Tiến diễn đạt:

Người từ đâu đến, đi về đâu?

Ðạo lý Vô Sanh quá nhiệm mầu

Ðến chẳng từng sanh, đi chẳng diệt

Ðến, đi, dấu tích khó tìm cầu...

“Tứ đại đã về không, nhưng Pháp Âm và Pháp Thân của Hòa Thượng vẫn bất diệt giữa dòng đời sinh diệt.”

Với quần chúng Phật tử Mông Cổ, Hòa Thượng được ngưỡng mộ như bậc Thánh. Với hàng Phật Tử Việt Nam, Hòa Thượng được kính trọng như vị tôn sư. Với Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, Hòa Thượng là Ðức Ðệ Tam Tăng Thống, nhưng với hàng thất chúng môn đồ đệ tử, Hòa Thượng là Sư Phụ trong Gia Ðình Ðạo, là Ôn sống mãi trong lòng những người đệ tử thân thuộc, trong lòng con cháu của Ôn. Và một ngày nào đó, như lòng mong ước, những người đệ tử của Ôn sẽ gặp lại Ôn bên kia trời Tây, nơi thế giới Cực Lạc vô sinh vô tử, mãi mãi cùng Ôn không xa cách!

Ôn ra đi, để lại Ngôi Nhà Phật Giáo, cũng như Ngôi Nhà Việt Nam, tuy đã được kết hợp, nhưng vẫn còn nhiều hàng rào phân cách. Không biết khi nào, như ông Hồ Sĩ Khuê đã đặt câu hỏi: “Người bên này, người bên kia chiến tuyến, chịu tháo gỡ các hàng rào ý hệ, xé nát khẩu hiệu, bích chương, cùng mở lối cho nhau về lại Ngôi Nhà của ông cha?” (Hồ Sĩ Khuê: HCM, NÐD, và MTGP tr. 442)

Tiếng Ôn vọng lại từ Áng Mây Bay: “Tất cả chỉ là huyễn vọng. Ngày nào con người còn chấp trước, còn thị phi, thì không làm sao có thể nhìn mặt nhau, không làm sao tìm được cái an lành, êm ả, cái không khí thân tình của Ngôi Nhà do tổ tiên để lại...”

Nam Mô Tôn Sư Bồ Tát, Ân Sư Bồ Tát Ma Ha Tát.

thichdonhau-thap
Bảo Tháp của Hòa Thượng Thích Ðôn Hậu trong khuôn viên chùa Linh Mụ, Huế (2010)
c
Con cháu của Ôn quanh quẩn bên Ôn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 14838)
Nhân Vật Phật Giáo Thế Giới, do TT Thích Nguyên Tạng biên soạn từ 1990
01/10/2014(Xem: 8464)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 8541)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 10220)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 14130)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 8291)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 16950)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 11909)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 16633)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 12769)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]