Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cuộc đời và Hành trạng Đức Đệ Nhị Tăng Thống (Đại Trưởng lão HT Thích Giác Nhiên, 1878 – 1979) thơ của Tỳ Kheo Thích Nhật Tân, do Phật tử Diệu Danh diễn đọc)

06/05/202003:48(Xem: 18231)
Cuộc đời và Hành trạng Đức Đệ Nhị Tăng Thống (Đại Trưởng lão HT Thích Giác Nhiên, 1878 – 1979) thơ của Tỳ Kheo Thích Nhật Tân, do Phật tử Diệu Danh diễn đọc)
ht thich giac nhienHT. Thich Giac Nhien
Cuộc đời và Hành trạng Đức Đệ Nhị Tăng Thống
(Đại Trưởng lão HT Thích Giác Nhiên, 1878 – 1979)

Bài viết: HT Thích Nhật Tân
Diễn đọc:  Cư Sĩ Diệu Danh
Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước


Kính lạy Giác linh Đức Trưởng lão Tăng Thống Đệ Nhị
Cuộc đời và hành trạng của Ngài dài hơn thế kỷ
Công đức hoằng khai nhiếp hóa của Ngài cao hơn núi cao
Tấm lòng từ bi độ lượng của Ngài sâu hơn biển sâu
Chữ nghĩa của trần gian làm sao phô diễn
102 tuổi, chuông mõ bi hùng, thiền môn bi nguyện
86 tuổi, chấn tích dẫn đầu chống đỡ oan khiên
Hạ Màu Cờ, trong lịch sử chưa vô đạo u minh
Họ ra tay, bởi vì đâu cho cửa chùa dậy sóng
Hơn một thế kỷ, cuộc đời Ngài dài cùng biến động
Nào Thực, nào Xâm, nào Xanh, nào Đỏ úa màu
Thương Dân thương Nước, ai lại không đau
Thương Đạo thương Đời, ai không thống nỗi
96 tuổi, Ngài nhận lãnh vai trò lớn nhất Giáo Hội
Nẩy mực cầm cân lèo lái con thuyền
Thế thời nhân ngã cao điểm đảo điên
Tăng Tín Đồ nức lòng ngưỡng tôn kính phục
Đệ tử của Ngài, những bậc siêu quần kiệt xuất
Một Thiện Minh, làm mờ sử sách đã ghi
Một Thiện Siêu, nghi trượng thiền môn, ai bì
Một Thiện Bình, đạo phong cốt cách, một cõi
Vai trò nào, Ngài không nắm
Cương vị nào, Ngài không làm
Như xưa có đóa Ưu Đàm
Thì nay có đóa A Hàm Thuyền Tôn
Đời Ngài, sắt thẹn e son
Hạnh Ngài, nước chảy đá mòn không pha
Công Ngài, đầy ắp Ta Bà
Đức Ngài, phủ kín ngân hà thái hư
Năm 102 tuổi, Xuân Kỷ Mùi, khi Tăng Ni đến thăm
Ngài nói: “để tôi ngồi dậy, nằm như ri, không phải lễ, chừ”
Ôi đức độ từ bi, núi Diệu Cao không đủ chỗ
Ngài còn dạy: “Quý Thầy đến thăm, tôi xin cảm ơn và cầu Phật gia hộ
Quý Thầy nhiều sức khỏe, kiên nhẫn trước mọi nghịch duyên
Phục vụ Giáo Hội, dìu dắt Tăng Tín Đồ, thật không có gì vui hơn
Tôi quá già rồi, chưa biết nay mai, trông mong quý Thầy gánh vác”
Xuân đang đến nhưng hoa sụt sùi nước mắt
Cành chưa héo mà nhụy khép mùi hương
Mồng Sáu Tháng Giêng 1979, Ngài nhập tịch diệu chơn thường
Nhưng “Vô thường thị thường” như Ngài từng dạy
Tổ đình Thuyền Tôn, tin nhanh hơn máy
Phủ Cố Đô và lan tận Sài Gòn
Lan vào Nam và tận cuối Cà Mau
Lên Cao Nguyên, đồng bằng, thôn trang, phố thị
Xuân Kỷ Mùi một chín bảy chín
Hoa không tươi mà chim cũng vắng tiếng cười
Chuông mõ vang vang, người nối sóng người
Kéo về Cố Đô, tiễn Ngài Tây cảnh
Ngài Đệ Nhất Tăng Thống, cũng Tháng Giêng Quý Sửu
Sáu năm sau, kính thương vĩnh biệt Tăng Thống hai đời
Tăng Tín đồ Phật Giáo Việt Nam thấm giọt châu rơi
Đời Một nửa XANH, Đời Hai toàn ĐỎ
Con muốn viết, nhưng thôi, xin không viết nữa
Thời như ri, học tiếng nói vô ngôn
Thế như ri, bất lập tự, hơn không
Thường nhi vô thường
Trụ nhi vô trụ
Nhưng đời sau, biết đâu mà tầm cú
Ngay đời nay, lộng giả biến thành chơn
Vài nét lưu, nhưng là tiếng vô ngôn
Xin kính bút cho trọn vẹn Bốn Đời Tăng Thống.

Nam Mô A Di Đà Phật


Chùa Pháp Quang, Brisbane, Úc Châu

Trước khi Vào Hạ (22/6/2012)
Thích Nhật Tân


Ghi chú:
Vì có viết ngưỡng tôn Ngài Đệ Tam, Đệ Tứ, mà không viết hai Ngài Đệ Nhất, Đệ Nhị, trong tôi chừng như có gì còn thiếu, có gì chưa vẹn. Lại biết Phật Giáo Úc Châu mở đầu Thiết Lễ Tưởng Niệm Tri Ân Bốn Đời Tăng Thống vào mỗi năm nhân Mùa An Cư, từ 2012 Nhâm Thìn trở đi. Nên tôi xin chân thành lui về dấu xưa, ôn và ghi lại đôi dòng dâng lên Giác Linh hai Ngài Nhất Nhị.

Tôi đọc hơn 3 lần rất kỹ Tiểu sử của 2 Ngài Đệ Nhất và Đệ Nhị Tăng Thống, xin hoàn toàn khâm thừa ngưỡng phục. Tuy nhiên, có thấy vài điểm không chuẩn có thể sơ suất trong lúc Phụng Soạn. Tôi xin mạn phép, chứ không dám gọi là phạm thượng, để quý Ngài trưởng thượng hữu nhiệm chỉnh lại hay không thì tùy, và chân thành nêu ra đây như một sự lưu chú cho hôm nay và mai sau.
Tài liệu Tiểu sử phổ biến rộng rãi, tôi đọc và trích từ nguồn:www.quangduc.com

Trong Tiểu sử Ngài Đệ Nhị, ghi: “Đến năm Canh Tuất (1895), Triều Duy Tân, Ngài cùng với Hòa Thượng Tịnh Khiết (Cố Đệ Nhất Tăng Thống GHPGVNTN) thọ Tam Đàn Cụ Túc tại Giới Đàn Chùa Phước Lâm (Hội An).” Xin thưa, Tiểu sử Ngài Đệ Nhất, ghi: “Sinh năm 1890. Năm 1905, 15 tuổi xuất gia”. Vậy thì, 1895 lúc đó Ngài Đệ Nhất mới có 5 tuổi, chưa xuất gia, làm sao có chuyện 1895 Tam Đàn Cụ Túc như trong Tiểu sử của Ngài Đệ Nhị?

Cũng trong Tiểu sử Ngài Đệ Nhị, ghi: “Sinh năm 1878. Năm 88 tuổi… đích thân dẫn đầu … mở đầu phong trào vận động đòi hỏi tự do tín ngưỡng và bình đẳng tôn giáo vào chiều ngày 14 tháng 4 năm 1963 (Quý Mão)”. Mạo nghĩ có thể lộn chăng, vào năm 1963, nếu tính tuổi Tây thì 85 mà tuổi Ta thì 86. Cho nên bài tôi viết xin ghi là “86 tuổi, chấn tích dẫn đầu chống đỡ oan khiên”.


 

  

 

***

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2010(Xem: 4936)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37280)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6162)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6116)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5761)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5646)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5927)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5461)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8778)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
23/10/2010(Xem: 11881)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua, và vài năm sau trở thành một nhà sư và đã để lại một di sản Thiền Tông bây giờ vẫn còn phát triển để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam. Ngài tên là Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của Nhà Trần và là vị sáng lập Dòng Thiền Trúc Lâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]