Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu Sử Ni Trưởng Thích nữ Huyền Tông

03/08/201403:32(Xem: 7059)
Tiểu Sử Ni Trưởng Thích nữ Huyền Tông




blank
Chân dung cố Ni trưởng Huyền Tông



Tiểu Sử 
Ni Trưởng Thích nữ Huyền Tông




I. THÂN THẾ

Hòa Thượng Ni thế danh Dương Thị Ngọc Cúc, sinh năm 1918 tại phường Đức Thắng, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, là con gái lớn của Cụ ông Dương Ngọc Vinh pd: Tâm Quang và Cụ bà Trương Thị Mau

II. ẤU THƠ
Lúc tuổi còn thơ, ngày hai buổi Hòa Thượng Ni cùng bạn bè cắp sách đến trường, tuy sống trong nhung gấm nhưng có lẽ do tiền căn túc thế nhiều đời đã có chủng tử Phật Pháp tu học nên Hòa Thượng Ni lạnh lùng không màng đến sự sung túc vật chất và tình cảm êm ấm gia đình cha mẹ mà luôn mơ ước một nếp sống cao đẹp, lý tưởng hơn. Ước mơ ấy được Hòa Thượng Ni ấp ủ trong lòng từ thuở còn là nữ sinh bé bỏng, chẳng biết tâm sự cùng ai. Ngày lại qua ngày, Hòa Thượng Ni chẳng thấy vui thích gì trước sự giàu sang phú quý của gia đình, ngọc ngà, châu báu không làm Hòa Thượng Ni động tâm, tình yêu đôi lứa không lay động tâm hồn thanh thoát. Mỗi ngày qua, chí hướng xuất trần của Hòa Thượng Ni càng được ung đúc mạnh thêm hơn. Tuy nhiên, với tuổi còn non trẻ, tâm trạng của Hòa Thượng Ni như một chú chim non nhìn trời rộng mây xanh, muốn bay mà lông chưa phủ cánh.

III. THỜI GIAN TU HỌC

1. Xuất gia thọ giới

Nhân duyên đã đến, năm 1934, Hòa Thượng Ni 16 tuổi được mẹ dẫn đi Chùa Long Hải (Mã Loạn – Phan Thiết). Tại đây Hòa Thượng Ni thọ Tam quy ngũ giới với Cố Đại lão Hòa Thượng Thanh Nguyên, được pháp danh thượng Trừng hạ Tấn. Cũng trong dịp này, Hòa Thượng Ni đã cảm nhận sâu sắc nếp sống thoát tục thanh cao của đời tu sĩ, Ngài cùng với người Cô họ của mình (Cố Hòa Thượng Ni Huyền Học) quyết tâm bỏ đời gấm hoa theo cuộc đời áo nâu vào năm 17 tuổi, tuy nhiên giấc mộng trốn nhà vào chùa xuất gia bị vỡ kế, gia đình Ngài càng để ý ràng buộc chặt chẽ hơn.Qua năm sau, hai Cô Cháu tổ chức lần thứ hai, lần này với bao nhiêu khó khăn gian khổ cuối cùng Hòa Thượng Ni đã thoát khỏi vòng dây ràng buộc của gia đình. Ngài tìm đến Chùa Hải Ấn TP.Sài Gòn và xin phép Cố Trưỡng Lão Hòa Thượng Ni viện Chủ cắt tóc ngay để biểu lộ tinh thần quyết chí xuất gia đối với song thân người, lúc ấy đúng giờ Ngọ ngày rằm tháng 7 năm Bính Tý (nhằm ngày 3 tháng 7 năm 1936). Năm 1936 Hòa Thượng Ni được thọ giới Sa Di Ni, pháp hiệu là Huyền Tông, Bổn Sư Ni của Ngài là Cố Trưỡng lão Hòa Thượng Ni Thích Diệu Tịnh. Năm 1937 thể theo yêu cầu tha thiết của song thân Hòa Thượng Ni, Cố Đại lão Hòa Thượng Ni Thích Diệu Tịnh đã cho phép hòa Thượng Ni lãnh ngôi chùa làng Bình Quang tại phường Bình Hưng, thành phố Phan Thiết để hướng dẫn Phật tử tu tập và cũng như để gần giũ gia đình dễ dàng thăm viếng. Ngày 19 tháng 2 năm Mậu Dần (1938), vía Quan Âm, Hòa Thượng Ni được thọ giới Thức Xoa Ma Na tại chùa Bình Quang. Giới đàn do Cố Trưỡng Lão Hòa Thượng Ni Diệu Tịnh tổ chức. Hòa Thượng Ni nỗ lực tinh tấn tu học, trau dồi giới hạnh, nghiêm trì giới đức.

Năm Canh Thìn (1940) ngày Lễ Khánh Đản Đức Phật Bổn Sư. Hòa Thượng Ni Thọ Cụ Túc giới tại Chùa Vạn An, tỉnh Sa Đéc. Có lẽ do phước duyên nhiều đời vun bồi, Hòa Thượng Ni đã thăng tiến rực rỡ trên con đường bẩm thọ giới pháp như cánh én gặp xuân về. Cả ba giới đàn Ngài đều bẩm thọ ân triêm giới phẩm.

2. Học Phật Pháp
Từ năm 1936 đến 1940, Hòa Thượng Ni được thọ giáo với Thầy Bổn Sư Diệu Tịnh tại chùa Hải Ấn và Bình Quang. Với tinh thần thiết tha cầu học, Hòa Thượng Ni luôn khát khao từng giọt cam lồ pháp nhũ vì vậy mà không chỉ một mình tự nghiên cứu học tập kinh điển, mà Ngài còn chu du tham vấn học tập kinh điển từ các bậc Tôn Đức ở miền Trung. Với tư chất thông minh và đức tính cần mẫn Hòa Thượng Ni sớm đã thấu triệt diệu lý của đạo mầu, đủ để hướng dẫn cho chính mình và cũng như cho đồ chúng trên con đường giải thoát.

IV. CÔNG TÁC XÃ HỘI VÀ GIÁO HỘI
Mùa thu năm 1945, cao trào cách mạng chống Pháp giành độc lập tư do cho Tổ quốc và dân tộc đã bùng lên và lan tràn khắp lãnh thổ Việt Nam, Hòa Thượng Ni đã ý thức được sự tương quan mật thiết giữa đời và đạo, sự gắn bó thiêng liêng giữa Phật giáo và dân tộc có truyền thống từ mấy ngàn năm, Hòa Thượng Ni đã dũng cảm tham gia phong trào Phật giáo cứu quốc tại tỉnh Bình Thuận và thành lập Gia Đình Phật Tử từ năm 1946 đến 1950. Mặc dù dưới sự cai trị chặt chẽ của chính quyền thực dân Pháp và mạng lưới mật thám bủa vây khắp nơi, nhưng trước tiếng gọi lâm nguy của Tổ quốc, Người vẫn kiên trì bền gan tích cực mọi công tác bí mật ủng hộ phong trào cứu nước.

Năm 1963, tranh đấu dành tự do tín ngưỡng, Ngài quyết tâm thiết tha kêu gọi chư Ni và Phật Tử trong Tỉnh Thành, biểu tình chóng chế độ Ngô Đình Diệm. Năm 1964, sau cuộc tranh đấu cho tự do tín ngưỡng của Phật giáo với chính quyền họ Ngô ổn định, công tác Phật sự tại tỉnh nhà trở nên bề bộn, nghĩ đến sự trường tồn của ngôi Tam Bảo, Ngài không quản ngại tuổi già sức yếu đã đứng ra nhận lãnh hai công tác cùng lúc:
1- Trưởng Ban Ni Bộ Bắc Tông tỉnh Bình Thuận.
2- Quản lý trường Trung Học Bồ Đề Phan Thiết.

V. PHẬT SỰ TRÙNG TU CÁC TỰ VIỆN
Năm 1945, Hòa Thượng Ni quyết định bằng mọi cách đúc cho được pho Tượng Đức Bổn Sư Thích Ca bằng đồng để thờ. Bắt tay vào việc chẳng mấy ngày, Ngài gặp nhiều trở ngại khó khăn, nhưng với ý chí dũng mạnh, với đức tin trọn vẹn trước Hồng ân Tam Bảo, Ngài không lùi bước. Cuối cùng Tượng Phật được hoàn thành, tướng hảo trang nghiêm, hiện được tôn thờ tại Chánh điện Tổ Đình Bình Quang. Năm 1949 – 1950 Ngài trùng tu Bình Quang Ni Tổ Đình lần thứ nhất. Năm 1951, Ngài xây cất lại Chánh điện Tổ Đình Bình Quang trở thành một đạo tràng rộng rãi, trang nghiêm cho Ni chúng và Phật tử về tu tập. Năm 1965, Tổ đường, Khách đường, Thiền đường và nhà Trù được lần lượt xây cất lại với sự đóng góp phần lớn từ song thân Ngài. Hòa Thượng Ni tâm sự với đệ tử “Thầy phải cố gắng xây cất lại, Thầy tịch rồi, các con làm sao xây dựng nỗi?”. Nghe câu nói này, chúng tôi nghẹn ngào, ngấn lệ trong sự im lặng.

Lời tâm sự ấy tuy ngắn ngủi vắn tắt nhưng là cả biển lòng từ đối với hàng đệ tử kém phúc duyên, là nỗi lo lắng sâu xa của bật Thầy đối với hàng đệ tử kém phước đức, là lòng trắc ẩn xót thương của người mẹ hiền nhìn đàn trẻ thơ non dại. Quả thật, Ngài đã ra đi mà phúc duyên Ngài còn để lại, giờ đây nhìn cảnh chùa uy nghiêm tráng lệ, người còn lại ai không khỏi chạnh lòng khôn xiết, tiếc thương Ngài. Xưa, Bình Quang Ni Tự là ngôi chùa làng, mái lá, dột nát tứ tung. Nay, Bình Quang Ni Tự là ngôi Tổ Đình uy nghi, hưng thịnh, không còn dấu tích của ngày xưa nữa. Vậy Ngài là Tổ khai sơn hay người trùng tu Bình Quang Ni Tự, nghĩa cũng vậy thôi. Song thân của Ngài đã mua cho người môt ngôi Biêt Thự làm Tịnh Thất nghĩ mát mùa hè tại cây số 7 – HÀM MỸ. Người hướng dẫn và sách tấn Ni Sư Như Thiện xây dựng ngôi Đai Hùng Bảo Điện, rộng lớn uy nghiêm, để có nơi cho Ni Chúng và Phật Tử tu học. Ngày nay là Liên Hoa Ni Tự.

VI. NHIẾP HÓA ĐỒ CHÚNG
Năm 25 tuổi, Ngài bắt đầu tiếp nhận đồ chúng. Mặc dầu sinh trưởng trong gia đình khá giả giàu có nhưng Ngài đã chọn nếp sống đạm bạc, tu khổ hạnh. Cuộc sống của Ngài là tấm gương thể hiện rất cao, tinh thần cắt ái ly gia, dù rằng gia đình Ngài chỉ cách bên kia bờ sông Phan Thiết nhưng Ngài không bao giờ về nhà. Ngài nêu cao tinh thần giới luật trong đời sống hằng ngày. Ngài dùng tam học: Giới, Định, Tuệ để dạy dỗ, dắt dìu đệ tử qua khẩu giáo và thân giáo của Ngài. Có lúc Ngài uy nghiêm, vòi vọi làm cho hàng đệ tử kính phục, nhưng cũng có lúc Ngài bình dân giản dị, hài hòa, thân mật với chúng đệ tử như mẹ với con. Ngài luôn luôn quan tâm dạy dỗ chu đáo cho tất cả những ai có duyên với Ngài cho đến hơi thở cuối cùng. Vì thế hàng đệ tử của Ngài, mọi người ai cũng tôn trọng và kính mến Ngài. Đối với Phật tử tại gia và gia đình PHẬT TỬ, Ngài mở rộng lòng từ, đem pháp tam quy ngũ giới của Đức Thế Tôn để nhiếp hóa họ tiến dần trên con đường giải thoát. Lập cước trên tinh thần từ bi, bình đẳng, ai có lòng tin Tam Bảo đến với Ngài đều được Ngài nhiếp hóa không phân biệt giàu nghèo, quý tiện, lão ấu, thân sơ… Ngài luôn thiết tha trước sự nghiệp giải thoát cho mình và tha nhân, sự tăng huy trường cửu của ngôi Tam Bảo.

VII. NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG
Giữa biển rộng sắc sắc không không, trong lòng đời nhị nguyên tương đối, cái gì hữu hình ắt hữu hoại, thân ngũ uẩn là một pháp nhân duyên giả hợp thì tránh làm sao khỏi cảnh hoa nở để rồi tan. Ngày tháng lặng lẽ qua nhanh, Ngài đã trải qua những ngày cuối cùng trong im lặng, trang nghiêm thanh tịnh và sự minh mẫn. Đạo lực tiềm tàng một cách dồi dào trong suốt một kiếp người với nếp sống nội quan phong phú đã tỏa rạng tươi thắm, trang nghiêm và đầy đạo vị trong những tháng ngày cuối đời của Ngài. Ngài không hề nao núng trước sự ốm đau bệnh hoạn của tấm thân mộng huyễn, và Ngài đã trút hơi thở cuối cùng vào lúc 5giờ sáng ngày mùng 8 tháng 7 năm GIÁP NGỌ ( ngày 3 – 8 – 2014 ) tại Tổ Đình Bình Quang Ni (số 02 Đường Cao Thắng, F.Bình Hưng, TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận), trụ thế 96 năm, Hạ lạp 76 năm. 3 HỒI CHÔNG TRỐNG BÁT NHÃ CUNG TIỄN NGÀI. ôi! Nói làm sao cho hết một mẫu đời xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo. Kính bạch Giác Linh Thầy, Tập bút ký “Tại sao tôi đi tu” và Thi thơ “Lưu niệm” của Thầy còn đây mà Thầy đã ra đi.Từ nay trong Phương Trượng, giữa vườn hoa, dưới hiên chùa đâu còn bóng Thầy thiền hành nhẹ nhàng qua lại với dáng dấp thanh tú dịu hiền, với đạo phong uy nghiêm từ tốn. Thầy đã ra đi! Giờ đây Thầy ở đâu trong Pháp giới vô biên.

Trên nữa thế kỷ tu thân hành đạo và hóa đạo, đời thầy như nguồn suối luân lưu, ghi lại tiểu sử thầy chẳng khác nào chúng con để lại cho đời một tách nước bị cô đọng trong phạm trù bé nhỏ. Kính bạch Giác Linh Thầy, Thầy đã ra đi. Ôi trăng khuyết, bèo tan! Thiền sàng còn đây, mà đâu còn nữa tôn dung Thầy ngự ngọa Bát đũa còn đây mà đâu còn nữa hình ảnh Thầy nâng bát cơm cúng Phật hằng ngày. Vẫn biết sự đời có đến có đi mà sao chúng con vô vàn đau xót. Trước ơn đức cao dày hơn trời biển, Thầy thay Đức Phật hóa độ chúng con. Giờ đây trước cảnh biệt ly, âm dương đôi ngã, chúng con xin đầu thành đảnh lễ và đốt nén tâm hương, kiền thành quỳ dưới tôn dung Thầy, cung kính phác họa lại vài nét đơn sơ của một đóa sen thơm ngát, lung linh muôn màu sắc.

 

Kính bạch Giác Linh Thầy từ mẫn hạ cố chứng minh cho.

Chúng con thành tâm cầu nguyện hồng ân Chư Phật thùy từ tiếp độ Giác Linh Thầy cao đăng Phật quốc.

Nam mô Tân Viên Tịch Giác Linh Bổn Sư Hòa Thượng Ni tác đại chứng minh.

http://phatquangtemple.org/tieu-su-truong-lao-hoa-thuong-ni-thich-huyen-tong




****

GNO - 5g sáng 8-7 Giáp Ngọ (3-8-2014), NT.Thích nữ Huyền Tông đã viên tịch tại tổ đình Bình Quang Ni tự (số 02 Cao Thắng, P.Bình Hưng, TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận), trụ thế 96 năm, Hạ lạp 76 năm.

blank
Chân dung cố Ni trưởng Huyền Tông


Lễ nhập quan được cử hành tại Bình Quang Ni tự vào lúc 18g00 cùng ngày. Lễ phúng viếng bắt đầu từ 8g00 ngày 9-7 Giáp Ngọ (4-8-2014). Lễ truy niệm được cử hành vào lúc 4g00 sáng nay, 12-7 Giáp Ngọ (7-8-2014); lễ phụng tống kim quan vào lúc 6g00 sáng cùng ngày.

Nhục thân cố Ni trưởng tới đài hỏa táng núi Dinh, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu làm lễ trà-tỳ. Tro cốt của Ni trưởng sẽ được nhập bảo tháp tại Bình Quang Ni tự.

Được biết, cố NT.Thích nữ Huyền Tông thế danh Dương Thị Ngọc Cúc, sinh năm 1918 tại P.Đức Thắng, TP.Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Vì sớm giác ngộ lý vô thường, nên năm 17 tuổi (1936), Ni trưởng cùng người cô của mình là cố Ni trưởng Huyền Học quyết tâm vào Sài Gòn xuất gia với cố Ni trưởng Diệu Tịnh  tại chùa Hải Ấn. Đến năm 1940, Ni trưởng được thọ giới Cụ túc tại Giới đàn chùa Vạn An (tỉnh Sa Đéc).  

Suốt hơn 2/3 thế kỷ tu học và hành đạo, Ni trưởng đã tham gia vào phong trào đấu tranh yêu nước trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1945, đấu tranh đòi quyền bình đẳng tôn giáo trong phong trào Phật giáo năm 1963.

Sinh thời, Ni trưởng từng đảm nhiệm chức vụ Trưởng ban Ni bộ Bắc tông tỉnh Bình Thuận, quản lý Trường Trung học Bồ Đề Phan Thiết và xây dựng Bình Quang Ni tự trở thành ngôi phạm vũ huy hoàng. Với nếp sống giản dị, nghiêm trì giới luật, lòng từ bi bao dung, lại chuyên ròng xiển dương tam học Giới, Định, Tuệ, nên Ni trưởng được rất nhiều đệ tử xuất gia lẫn tại gia kính mến và tìm đến xin học đạo. Ni trưởng viên tịch, để lại cho đời tập bút ký Vì sao tôi đi tu và tập thơ lưu niệm Huyền Tông thi tập.

Ni trưởng là bậc cao đức trong hàng Ni giới thời cận - hiện đại. Ni trưởng viên tịch để lại sự kính tiếc vô biên cho môn đồ pháp quyến và Tăng Ni Phật tử khắp nơi.

Thích Tuệ Nhật

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/06/2017(Xem: 12145)
Vô Nhất Đại Sư Thích Thiền Tâm - Một cao tăng cận đại - Biên soạn: Bảo Đăng
01/06/2017(Xem: 21470)
Sư Trưởng pháp húy Hải Triều Âm, tự Đại Thành, hiệu Bác Tế Từ Hòa, thế danh Nguyễn Thị Ni, sinh năm 1920 tại tỉnh Hà Đông, nay thuộc thủ đô Hà Nội. Thân phụ là một công chức người Pháp, cụ ông Etienne Catallan. Thân mẫu là một y sĩ người Việt, cụ bà Nguyễn Thị Đắc. Vì thế Sư Trưởng còn có tên thế tục tiếng Pháp là Eugénie Catallan.
20/05/2017(Xem: 6933)
Gần như một quy luật tất yếu khi nói đến Hòa Thượng Lê Khánh Hòa ( 1877 - 1947 ) ( Tổ Khánh Hòa - Ngài) phải đề cập đến phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XX . Cả một cuộc đời dấn thân trên lộ trình tiến tu giải thoát, luôn nặng gánh ưu tư cho tiền đồ Phật giáo trước mối suy vong song hành cùng vận mệnh dân tộc dưới gót giày xâm lược của giặc Pháp. Là một tăng sĩ với trọng trách "sứ giã Như Lai", Tổ Khánh Hòa đã sớm nhận thức rõ trách nhiệm cao cả ấy và vận dụng đạo đức, năng lực bản thân tữ mình thắp lên ngọn đuốc tiên phong, vén màn đêm dày đặc, bước đi từng bước nhọc nhằn, khó khăn ban đầu để tạo nên một luồng gió chấn hưng mang vô vàn lợi lạc cho Phật giáo mà cho đến tận hôm nay sử sách vẫn còn ghi đậm những dòng chữ vàng son óng ánh chưa hề phai nhạt.
22/04/2017(Xem: 9364)
CT HTB số 205 cho thứ 7 ngày 22/4/2017 Chủ đề: Nhân ngày lễ Phật Đản ôn lại Tổ sư Thiền của Phật giáo Việt Nam. Thành viên thực hiện: Lâm Như Tạng, Lê Tâm.
19/04/2017(Xem: 6368)
Đã 42 năm sau cuộc Chiến tranh Việt Nam, vẫn còn những câu hỏi chưa có lời giải đáp. Chỉ riêng tên tuổi Thích Trí Quang đã gây ra rất nhiều tranh cãi. (1) Có nhiều nhãn hiệu gán cho ông: với một số người Việt chống cộng hoặc còn suy tôn ông Diệm thì cả quyết Thích Trí Quang là cộng sản đội lốt tu hành hoạt động với sự chỉ đạo của Hà Nội; nhưng ngay với giới chức cộng sản cũng đã từng coi Trí Quang là một loại CIA chiến lược; còn
15/04/2017(Xem: 8388)
Thiền Sư Pháp Loa với công trình văn hóa đời Trần
01/04/2017(Xem: 14728)
Trọn một ngày làm nhà tu hành – ăn như sư, ngủ cạnh sư, thiền và đọc kinh cùng sư, lao động cùng sư. Có những lúc đã cảm thấy phát điên về sự chậm rãi trong hoạt động, sự khắc khổ trong cuộc sống. Nhưng cũng ngộ ra nhiều điều! Và 24 giờ đó quả là kinh nghiệm đặc biệt trong đời làm báo. Vào những tháng đông đầu năm 1998, khi đang làm việc cho đài phát thanh NHK của Nhật Bản, tôi đề xuất chủ đề tôn giáo với mục đích giới thiệu đầy đủ hơn về các đạo tồn tại ở Nhật cho thính giả Việt Nam, bên cạnh Thần đạo đã được nói đến quá nhiều. Nhưng việc đi thực tế trong lĩnh vực này không đơn giản. May được một đồng nghiệp người Nhật tích cực tìm kiếm và phát hiện một ngôi chùa có thu nhận người nước ngoài. Mọi công việc thu xếp qua điện thoại và… email do người bạn Nhật đảm trách, và đúng ngày hẹn tôi khoác balô lên đường.
24/03/2017(Xem: 8795)
Theo Dương Lịch, 23 tháng Ba là ngày giỗ của Huynh Trưởng Tâm Huệ Cao Chánh Hựu. Tôi chợt nhớ đến bài thơ viết để tiễn biệt anh và cũng để nhắc nhở các anh chị em Gia Đình Phật Tử khắp nơi biết ngày anh ra đi. Bài thơ khá dài và kết luận bằng câu “Và đừng xa nhau nữa”.
18/03/2017(Xem: 7588)
Di cốt của vị thiền sư đã khai sáng ra dòng thiền Lâm Tế - Liễu Quán ở đàng Trong - dòng thiền thứ hai sau thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, được nhập vào một ngôi tháp cổ kính ở xứ Huế. Thiền sư Liễu Quán (1667-1742) là người đã khai sáng ra chi phái Thiền mới (Thiền phái Liễu Quán), mang đậm phong cách của Văn hóa phật giáo Việt Nam còn truyền lại đến ngày nay. Sau khi viên tịch, di cốt của thiền sư được nhập vào bảo tháp thuộc vùng rừng thông của làng An Cựu xưa (Thừa Thiên Huế). Đây là một ngôi tháp đẹp, cổ kính và uy nghiêm. Nhiều du khách lần đầu đến Huế, nếu không biết thì có thể nhầm đây là lăng tẩm của một vua chúa nào đó của triều Nguyễn bởi quy mô xây dựng, kiến trúc và địa thế phong thủy của bảo tháp.
06/03/2017(Xem: 7270)
Nhân lễ húy nhật lần thứ 18 Sư Bà Thích Đàm Lựu, vị Thầy sáng lập chùa Đức Viên vào năm 1980 tại thành phố San Jose, Hoa Kỳ; chùa Đức Viên đã tổ chức khóa niệm Phật báo ân trong hai tuần, từ ngày 18 tháng 02 đến ngày 04 tháng 3 năm 2017. Buổi lễ tưởng niệm chính thức được tổ chức vào sáng ngày 04 tháng 3 năm 2017. Đặc biệt, vào tối ngày 03 tháng 3 năm 2017, chùa đã tổ chức đêm đốt nến tưởng niệm Sư Bà, vị Thầy kính yêu của Ni chúng. Đêm huyền diệu với tiếng tụng kinh cầu nguyện, những lời tâm sự bên những ngọn nến lung linh, những giọt nước mắt chảy dài trên má chư Ni và Phật tử. Buổi lễ diễn ra trang nghiêm, thành kính, tràn đầy cảm xúc, lòng kính thương vô biên Sư Bà tọa chủ!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]