Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Kỷ Niệm Khó Quên với Huynh Trưởng Hồng Liên Phan Cảnh Tuân

29/08/201219:49(Xem: 5665)
Những Kỷ Niệm Khó Quên với Huynh Trưởng Hồng Liên Phan Cảnh Tuân
Những Kỷ Niệm Khó Quên
ngày: Ngày 13 tháng 03 năm 2011
Chủ đề: Bài Vở


NHỮNG KỶ NIỆM KHÓ QUÊN
với Huynh Trưởng Hồng Liên Phan Cảnh Tuân
tức Sư Huynh / Thầy Phổ Hòa kính mến


    Tôi muốn nói đến Sư Huynh Phổ Hòa, người anh lớn trong Gia Đình Phật Tử Việt Nam tức Huynh Trưởng HỒNG LIÊN Phan Cảnh Tuân khả kính của chúng ta.

    Hơn 60 năm về trước, tại đất thần kinh Cố Đô Huế, vào khoảng năm 1948, khi phong trào Gia Đình Phật Hóa Phổ mới được dựng xây chỉ có vài đơn vị, tôi đã may mắn thỉnh thoảng gặp anh, lúc thì tại trụ sở Hội Phật giáo Trung Phần ở 1B đường Nguyễn Hoàng cũng là Đoàn quán GĐPHP Hướng Thiện do anh làm Đoàn trưởng Thiếu Niên (22 tuổi), khi thì gặp anh ở Đoàn quán GĐPHP Chơn Tri (Phú Hội, hữu ngạn sông Hương) mà lúc bấy gìờ tôi đang là Đội Trưởng Sen Hồng Đoàn Thiếu Niên (15 tuổi), có khi gặp anh trong những lần lễ lớn tại Chùa Từ Đàm, Bảo Quốc … Tôi cũng đã được làm trại sinh của anh đồng thời với các anh Trần Ngọc Giao, Hồ Viết Lợi, Phan Cảnh Bút … mà lúc bấy giờ anh là Trại trưởng Trại Họp Bạn tại đất sau trụ sở Hội Phật giáo Trung Phần (nhà anh Nguyễn Xuân Quyền), lần đó tôi được phần thưởng về thi đua Gút do anh chấm điểm và trao tặng cờ.


  
Thời gian trôi nhanh như bóng cau qua cửa sổ, trong thời chinh chiến, mỗi người phân tán một nơi, anh Tuân bị động viên vào Trường Sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức năm 1953, thời gian đó tôi tạm dừng học đến nhận công tác tại Chi Nhánh Nha Bình Trị, một cơ quan bán quân sự tại Đà Nẵng và cũng chính tại đây tôi đã gặp anh Như Tâm Nguyễn Khắc Từ (Trưởng Hướng Đạo), cũng đến sinh hoạt tại GĐPT Thiện Ái với tư cách bạn đoàn, tôi phụ trách Liên Đoàn trưởng.Cho đến lúc Hiệp Định đình chiến Geneve 20/7/54 phân chia đất nước, ACE GĐPT Thiện Ái tiễn tôi về lại Huế tiếp tục sinh hoạt tại Chơn Tri, anh Từ ở lại thay tôi làm Liên Đoàn trưởng GĐPT Thiện Ái.

    Rồi, khi dịnh cư tại Sydney, Úc Đại Lợi, lúc tôi làm Trưởng Ban Ban Hướng Dẫn GĐPTVN tại Úc châu và Tân Tây Lan năm 1987-1990, chính lúc nầy tôi và anh Tuân lại có dịp liên lạc với nhau qua thư từ thường xuyên, cho đến khi tôi trở về thăm quê nhà năm 1993 tôi mới được gặp lại anh Tuân, anh Thục, anh Minh, chị Thảo, Xuân Hòa, anh Lộc … Năm 1995, tại Hoa Kỳ anh đã chính thức là tu sĩ, nhưng vẫn được bổn sư là Thầy Từ Lực cho tiếp tục sinh hoạt trong GĐPT.Năm 1997, Hội Nghị Ban Điều Hợp TƯ GĐPTVN tại Hải Ngoại, cùng phái đoàn Úc Đại Lợi đi dự họp, tôi đã gặp Sư Huynh Hồng Liên tại San Diego.Tại Hội Nghị nầy tất cả đại biểu tham dự đã đồng ý đổi thành Đại Hội Huynh Trưởng GĐPTVN/HN và một BHD được bầu lên lấy tên Ban Hướng Lâm Thời GĐPTVN tại Hải Ngoại.Sư Huynh Hồng Liên PCT được đề cử Trưởng Ban Bảo Trợ BHD/LT/HN và bản thân tôi được đề cử Đại Diện BHD/LT tại UĐL và Ủy viên Nghiên Cứu Kế Hoạch.

    Tháng 12 năm 2002, phái đoàn Thầy Phổ Hòa ở Cali, Thầy Phổ Thuận ở Minnesota, bác Gia Trưởng Trần Đoàn và phu nhân ở Virginia đã đến thăm viếng Úc Châu, và dịp nầy anh chị Tư Đồ Minh từ Việt Nam đến Úc, tất cả cùng nghỉ ở nhà tôi tại Sydney. Thời gian nầy đã để lại những dấu ấn khó quên, với không khí thật ấm cúng đậm đà, vui vẻ dễ thương, nhiều lúc tôi muốn níu kéo thời gian thâm tình nầy lại để chúng tôi thực sự có an lạc bên nhau …, nhưng nào đâu có được.Cuối năm 2002, GĐPTVN/UĐL có Đại Hội Huynh Trưởng khoáng đại, tất cả phái đoàn hải ngoại nầy đều có đến tham dự, chia sẻ những kinh nghiệm tu học, công tác Phật sự với chúng tôi, và trong Đại Hội khoáng đại Huynh Trưởng nầy, thầy Phổ Hòa cũng hiện diện trên bàn chủ tọa cùng với anh Tâm Trí, Tâm Lạc và tôi. Ở Sydney, tôi đã hướng dẫn hai Thầy Phổ Hòa, Phổ Thuận đến thăm một số chùa và Chư Tôn Đức tại đây. Những ngày tiếp theo phái đoàn về Melbourne thăm chùa Quảng Đức và gặp gỡ một số Anh Chị Em Lam viên tại đó.
Đầu năm 2003, thầy trở lại Hoa Kỳ, để lại cho anh em chúng tôi bao nhớ thương luyến tiếc, những kỷ niệm khó quên.Riêng tại sinh hoạt vòng tròn, thầy đã trao tặng tôi chiếc Còi Tù Và mà thầy đã xử dụng mấy mươi năm về trước từ lúc thầy đang làm Huynh Trưởng và Chuỗi Tràng Hạt Bồ Đề, đến nay tôi vẫn còn trân qúy giữ gìn.

   Rồi mấy năm trở lại sau nầy, lúc thầy về đảm nhận Trung tâm trưởng trung tâm Tu học Huấn luyện Thích Quảng Đức ở Cali, tuy xa nhau ngàn dặm, tôi với thầy vẫn đều đặn có nhiều cơ hội gặp gỡ nhau trên điện thoại để bàn chuyện Phật sự, xây dựng đạo pháp, hợp nhất GĐPTVN.

   Rất nhiều lần, thầy hay gọi điện thoại giữa đêm khuya, nhà tôi vừa nhấc máy “hello” chưa kịp hỏi thì đã nhận được một tràng cười vui vẻ từ bên kia “dạ thưa chị Thủy, em đây, em Tuân đây.Tui nhớ ông Lâm quá, tui gọi mà không biết giờ giấc.Bên đó chừ mấy giờ rồi ? đi ngủ chưa ?”.
…Thầy vui vẻ kể “Người ta nói tui 3 phải, thiệt ra thì 4,5 phải lận.”
…“Có người chọc tui Phở Hòa, tui chỉ cười mà không chi phải tự ái, hờn trách. Người ta thương mình người ta mới nói giỡn”
…“Có người phê bình tui “đứng bên nầy, sao không đứng bên kia”, tui chỉ im lặng không trả lời, là người tu, tui chỉ có tâm nguyện tu học hoằng hóa độ sanh, mọi hoạt động Phật sự cũng chỉ là phương tiện đâu còn mang tâm kỳ thị, đối đãi …”
   
   Rất nhiều lần, thầy nhắc tôi “Ông nhớ chi, có tài liệu chi thì gởi qua tui, mình ghi lại lịch sử Gia Đình Phật Tử Việt Nam.”
Chị Vy, Phật tử, bác sĩ riêng của thầy, cũng đôi lần cho tôi biết “chỉ trừ lúc ngủ, hôn mê, chữa bệnh …, lúc bình thường thầy đều để dành thì giờ tu tập, tụng kinh, niệm Phật, kể chuyện GĐPT, rất thương mến ACE Áo Lam, nhất là nhắc nhở tình cảm rất thắm thiết của thầy đối với anh”.

   Trước khi thầy ra đi, lúc còn nằm điều trị nhiều bệnh nặng như thiếu máu, tiểu đường, gãy xương chậu… tại Bệnh viện, tôi cũng đã nói chuyện được với thầy khoảng nửa giờ, sợ thầy mệt tôi muốn dừng nhưng thầy bảo “tui sợ ông mệt chứ tui nói chuyện cả giờ cũng không chi”. Cho tới giờ phút đó mà vẫn còn lo cho đứa em tàn tật đã gần 80 tuổi, ôi thương quá chừng.

   Tâm tình với tôi thầy mong muốn trước lúc rời cõi tạm, thầy sẽ thực hiện xong tập sách “lịch sử và công hạnh của Bác Tâm Minh Lê Đình Thám”, nhưng hoài bảo chưa thành, vô thường gõ cửa, thầy đã lặng lẽ ra đi vào lúc 8 giờ 05 phút tối ngày mồng chín tháng giêng năm Tân Mão, nhằm ngày 11/02/2011 tại thành phố San Bernardino, miền nam California, Hoa Kỳ, hưởng thọ 86 tuổi với 11 hạ lạp.

Những cảm nghĩ của tôi về anh Hồng Liên PCT - Thầy Thích Phổ Hòa : 
   Lúc còn thanh niên, anh luôn vui vẻ, bặt thiệp, không hờn giận, oán trách, đặc điểm nụ cười luôn nở trên môi và xem ai cũng là thầy, là bạn thân qúy mến.Thầy có nụ cười giống thầy Thiên Ân (CVGH GĐPHP Chơn Tri), nhưng thầy Thiên Ân cười mĩm, còn thầy cười lớn tiếng cởi mở.
   
   Thầy luôn thể hiện được sự khiêm cung, không phô trương bản ngã, biết lắng nghe, dễ tha thứ, không dính mắc, không để tâm tranh luận hơn thua sai đúng, biết nói lời thành thật xin lỗi, xin cám ơn …và hết lòng chung thủy với thầy, bạn, các em của mình, sẵn sàng giúp đỡ mọi người, nhất là hỗ trợ hết mình quỹ Tự Nguyện Hướng Về Quê Hương và Tương Trợ Tình Lam.

   Lúc đến tuổi về già đi tu, thầy lại càng hỷ xả, khiêm hạ, từ tốn, hòa mình gần gũi thân thiết với Lam viên, luôn luôn muốn Áo Lam kết nối một nhà, không khoảng cách, vô phân biệt.
    Thầy Quảng Ba đã có nhận xét : “Mỗi lần về TT Quảng Đức, Thầy đều qúi mến chư Tăng nói chung, tôi nói riêng, tình thầy trò thắm thiết biết bao …

   Thẩn thờ nhìn lại vài dòng chữ trên tập sách “Gia Đình Phật tử Việt Nam 50 năm xây dựng”: 
“12.17.2002
   Thân mến riêng tặng Trưởng NGUYÊN MẪN Lê Viết Lâm, một người rất thân của tôi, đã đóng góp nhiều công đức cho GĐPTVN, người mà tôi hằng qúi mến.
Thương nhiều.
T.PHỔ HÒA”

Thầy ơi,
    Lễ Cầu siêu Tưởng niệm Thầy tại Sydney, rất ấm cúng trang trọng, từ Chư Tôn Đức đến Cư Sĩ, GĐPT, gia đình huyết thống của thầy ai cũng hết lòng thương thầy vô hạn.

   Thầy đi rồi em buồn thật, buồn lắm, em đã mất dần những bóng tùng vững chãi lãnh đạo tổ chức, dầu biết rõ rằng thầy ra đi là đi về phương trời tự tại an nhiên không đối đãi phân biệt biến kế sở chấp. 
   
   Là người em của thầy, vô cùng thương mến thầy, chúng em tự thấy mình phải mạnh dạn đứng thẳng lên, kế thừa sự nghiệp hướng dẫn giáo dục tuổi trẻ hiện tại, dọn sạch ngôi nhà Lam thêm thanh lương, tô bồi cho tình Lam thêm thắm thiết, cởi mở, chuyển hóa dần những phiền não tham sân giận hờn …, tin chắc ở Tây phương thầy đang nhìn về cõi Ta Bà thương tưởng chúng em, hộ trì chúng em hoàn thành Phật đạo và lý tưởng Áo Lam. 

Nguyên Mẫn
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
02/11/2010(Xem: 8185)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
01/11/2010(Xem: 5159)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
01/11/2010(Xem: 37436)
Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 1, Chùa Pháp Hoa (2000) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 2, Chùa Pháp Bảo (2001) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 3, Chùa Linh Sơn (2002) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 4, Tu Viện Vạn Hạnh (2003) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 5, Tu Viện Quảng Đức (2004) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 6, Chùa Phổ Quang (2005) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 7, Chùa Pháp Bảo (2006) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 8, Chùa Pháp Hoa (2007) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 9, Chùa Linh Sơn (2008) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 10, Chùa Pháp Bảo (2009) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 11, Thiền Viện Minh Quang (2010) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 12, Tu Viện Quảng Đức (2011) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 13, Tu Viện Vạn Hạnh (2012) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 14, Thiền Viện Minh Quang (2013) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15, Tu Viện Quảng Đức (2014) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 16, Chùa Pháp Pháp Bảo (2015) Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 17, Tu Viện Quảng Đức (2016) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 18, Chùa Pháp Hoa (2017) Khóa An Cư Kiết Hạ kỳ 19, Chùa Pháp Hoa (2018)
29/10/2010(Xem: 6235)
Kể từ khi vết tích của chùa Thiên Mụ được ghi lại đơn sơ trong sách Ô Châu Cận Lục vào năm 1553 (1), chùa đã tồn tại gần 450 năm cho đến ngày nay. Trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu, chùa vẫn giữ được địa vị và vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống đạo và đời của dân Huế, nói riêng, và của dân cả nước, nói chung. Qua đầu thế kỷ 17, chùa đã thực sự đi vào lịch sử sau khi Nguyễn Hoàng vào xứ đàng trong để gây dựng cơ nghiệp đế vương với huyền thoại “bà tiên mặc áo đỏ” (9).
23/10/2010(Xem: 6183)
Trong Cây Có Hoa Trong Đá Có Lửa Kính Dâng Hòa Thượng Thích Như Điển nhân dịp mừng thọ 70 tuổi của Ngài và kỷ niệm 40 năm khai sơn Chùa Viên Giác tại Đức Quốc Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng “Trong Cây Có Hoa, Trong Đá Có Lửa” là lời pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên do Hòa Thượng Thích Như Điển nhắc lại trong thời giảng Pháp của Ngài mà tôi đã nghe được khi theo hầu Ngài trong chuyến đi Hoằng Pháp tại Hoa Kỳ năm 2006. Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen) là người Nhật, Ngài sinh năm 1200 và tịch năm 1253, thọ 53 tuổi. Ngài là Sáng Tổ của của Soto-Zen (Thiền Tào Động) của Nhật Bản, và là tác giả bộ sách nổi tiếng “Chánh Pháp Nhãn Tạng” “Ki no naka ni, hana ga aru (Trong cây có hoa), Ishi no naka ni, hi ga aru (Trong đá có lửa)” Đó là pháp ngữ của Thiền Sư Đạo Nguyên (Dogen), được Hòa Thượng Như Điển dịch sang lời Việt. Lời thơ quá tuyệt vời, tuy ngắn gọn nhưng dung chứa cả một kho tàng giáo lý về Nhân Duyên Quả của Đạo Phật.
23/10/2010(Xem: 5822)
Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.
23/10/2010(Xem: 5712)
Về sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông, đã có rất nhiều tài liệu và bài viết về hai lần lãnh đạo quân dân nước ta đánh thắng giặc Mông - Nguyên, trị quốc an dân, đối ngoại và mở cõi, nên ở đây chúng tôi không lặp lại nữa, mà chỉ đề cập đôi nét đến nội dung khác về: Trần Nhân Tông - một hoàng đế xuất gia, một thiền sư đắc đạo và là sơ tổ lập nên dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử độc đáo của Việt Nam.
23/10/2010(Xem: 5985)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa. Bác sĩ Nguyễn Văn Khỏe, một cây cột trụ của hội Lưỡng Xuyên Phật Học cũ đảm nhận trách vụ hội trưởng. Ông Mai Thọ Truyền giữ trách vụ tổng thư ký. Các thiền sư Quảng Minh và Nhật Liên đã triệt để ủng hộ cho việc tổ chức hội Phật Học Nam Việt. Thiền sư Quảng Minh được bầu làm hội trưởng của hội bắt đầu từ năm 1952. Năm 1955, sau khi thiền sư Quảng Minh đi Nhật du học, ông Mai Thọ Truyền giữ chức vụ hội trưởng. Chức vụ này ông giữ cho đến năm 1973, khi ông mất. Hội Phật Học Nam Việt được thành lập do nghị định của Thủ Hiến Nam Việt ký ngày 19.9.1950. Bản tuyên cáo của hội có nói đến nguyện vọng thống nhất các đoàn thể Phật giáo trong nước. Bản tuyên cáo viết: "Đề xướng việc lập hội Phật học này. Chúng tôi còn có cái thâm ý đi đến chỗ Bắc Trung Nam sẽ bắt tay trên nguyên tắc cũng như trong hành động. Sự
23/10/2010(Xem: 5522)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 8855)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com