Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

HT Thích Trí Thủ một đời vì Đạo Pháp & Dân Tộc

05/04/201102:38(Xem: 4883)
HT Thích Trí Thủ một đời vì Đạo Pháp & Dân Tộc
HT_Tri_Thu_3

MỘT ĐỜI VÌ ĐẠO PHÁP VÀ DÂN TỘC
(*)
Thích Giác Toàn

Từ vùng đất địa linh nhân kiệt, chúa Nguyễn Hoàng lập nghiệp đầu tiên, Hòa thượng đã thác tích hiện thân đại sĩ, nương thuyền từ độ kẻ trong mê.

Duyên lành sẵn có, tâm Bồ đề sớm phát, tuổi ấu thơ đã thắm nhuần đạo vị, chùa Hải Đức trưởng dưỡng chí xuất trần. Rồi đến độ tâm hoa khai phát, lúc tuổi thanh xuân, nơi chốn Tổ Tra Am, Hòa thượng quyết chí tu hành, cắt ái từ thân, thế phát bẩm sư với Tổ Viên Thành.

Vì lòng khát ngưỡng giáo pháp Đại thừa, khi tuổi vừa tròn đôi mươi, nơi chốn Tổ Từ Vân, Hòa thượng được Bổn sư cho đăng đàn thọ Cụ túc giới.

Kể từ đây giới thể Châu viên, Tam tôn kế vị, Giới đức trang nghiêm, sáng soi như nhựt nguyệt, thanh danh Trí Thủ rạng ngời từ thuở đó.

Với trách nhiệm và bổn phận của Trưởng tử Như Lai, tiền đồ của Phật giáo nước nhà, Hòa thượng là một trong những bậc cao Tăng thạc đức đã tích cực đóng góp trí huệ và công sức trong phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam thời bấy giờ.

Bằng ý nguyện tinh sưu nghĩa lý để kế vãng khai lai, phò trì mạng mạch Tăng già, Hòa thượng đã tinh cần tinh tấn ôn tầm bối diệp tại các Phật học đường nổi tiếng như Thập Tháp, Tây Thiên, Báo Quốc.

Với trình độ Phật học uyên thâm, trí huệ của bậc thạch trụ Tòng lâm, vào thập niên 30, 40, Hòa thượng mở trường Phật học Tây Thiên, Linh Quang, Báo Quốc, Từ Đàm để đào tạo Tăng tài, tiếp dẫn hậu lai, truyền trì Phật pháp, chấn hưng Phật giáo nước nhà cũng như thực hiện phương tiện quyền xảo, từ bi lợi vật, Hòa thượng đã nêu cao gương uy mãnh giữa rừng tà, hoàn thành hạnh nguyện bi trí dũng của người con Phật, sáng danh con nhà họ Thích ngàn đời trong cương vị Hội trưởng Hội Phật giáo Cứu quốc Trung bộ.

Bằng uy đức trang nghiêm, trí huệ bất phàm, vào thập niên 50, với trọng trách Giám viện Phật học Viện Trung phần – Nha Trang, Hòa thượng đã đào tạo được nhiều thế hệ Tăng Ni tài đức, trở thành pháp khí đại thừa, hiện đang phục vụ các cấp Giáo hội từ trung ương đến địa phương trong cả nước, góp phần xây dựng và phát triển Phật giáo Việt Nam qua từng thời đại.

Trong phong trào đấu tranh đòi bình đẳng tôn giáo dưới chế độ Ngô Đình Diệm, nhất là trong mùa pháp nạn 1963 và cho đến ngày thống nhất Tổ quốc, Hòa thượng là một trong những vị cao Tăng tích cực đấu tranh cho sự nghiệp bảo vệ Đạo pháp và độc lập của Dân tộc.

Với tài trí song toàn của bậc Thượng sĩ, Hòa thượng đảm nhận nhiều cương vị trọng yếu như Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hoằng Pháp, Tổng Vụ Trưởng Tài chánh, Viện trưởng Viện Cao Đẳng Phật học Sài Gòn và Viện trưởng Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất.

Đặc biệt, Hòa thượng rất quan tâm đến công tác Hoằng pháp và Hòa thượng đã tổ chức 3 kỳ Đại hội tại Nha Trang, Xá Lợi - Sài Gòn, Ấn Quang - Chợ Lớn nhằm định hướng cho chương trình Hoằng Pháp lợi sinh của Giáo hội.

Tuy Phật sự đa đoan, nhưng Hòa thượng vẫn dành nhiều thời gian để giảng kinh, thuyết pháp, viết sách, dịch Kinh, Luật, Luận. Những tác phẩm trước tác hoặc dịch thuật của Hòa thượng vẫn còn nguyên giá trị, mang tính khế lý, khế cơ, khế thời và khế xứ trong thời đại hội nhập hôm nay.

Trong ý niệm trang nghiêm ngôi Tam bảo tại thế gian, báo Phật ân đức và báo đáp ân giáo dưỡng của Thầy Tổ, Hòa thượng đã nỗ lực trùng tu ngôi Tam bảo Ba-la-mật, Báo Quốc, Tra Am, Linh Quang, kiến tạo Tu viện Quảng Hương – Già Lam trở thành chốn Phạm vũ huy hoàng, xứng đáng là đơn vị tự viện của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam trong hiện tại và tương lai.

Bằng giới đức thanh tịnh, thân giáo, khẩu giáo và ý giáo thâm nghiêm, Hòa thượng là hiện thân của giới luật, là sức sống miên viễn của Phật pháp, là người khai thông giới thân huệ mạng cho hàng ngàn Tăng Ni, Phật tử và Hòa thượng chính là người đầu tiên đã tái lập hình thức truyền giới Tam sư Thất chứng, Tăng Ni nhị bộ.

Qua đó, từng lớp từng đàn giới tử giới thân, giới thể châu viên trang nghiêm dòng diệu thể, trở thành pháp khí Đại thừa, duy trì mạng mạch của Phật pháp, Trưởng tử của Như Lai, Trung tôn trong hàng đại chúng, phúc điền của chúng sinh, làm cho chính pháp cửu trụ thế gian, lợi lạc hữu tình, vẹn tròn nhân Phật, chứng quả Bồ đề vào những kiếp lai sinh trên bước đường giải thoát.

Sau khi hòa bình lập lại (1975), kế thừa hoài bảo thống nhất Phật giáo Việt Nam của các bậc cao Tăng tiền bối, với cương vị Viện trưởng Viện Hóa đạo GHPGVNTN, Hòa thượng là nhân tố tích cực trong sự nghiệp thống nhất Phật giáoViệt Nam, xây dựng thành công ngôi nhà Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, mà Hoà thượng là thành viên sáng lập và được toàn thể đại biểu suy cử vào cương vị Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Từ lúc đảm nhận cương vị Chủ tịch Hội đồng Trị sự nhiệm kỳ I cho đến ngày viên tịch (1981 - 1986), Hòa thượng đã không ngừng xây dựng và phát triển, làm cho ngôi nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày càng trang nghiêm và hưng thịnh trong lòng dân tộc, nhất là trong giai đoạn thống nhất Phật giáo Việt Nam đầy gian nan và thử thách.

Như Hòa thượng đã từng tâm sự: “Những gì tôi làm lợi ích cho Đạo pháp tức là lợi ích cho Dân tộc; những điều tôi làm lợi ích cho Dân tộc tức là lợi ích cho Đạo pháp”.

Thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau là những người thừa hưởng sự nghiệp thống nhất Phật giáo Việt Nam ngày nay, là thừa hưởng gia tài quý báu của các hàng giáo phẩm lãnh đạo Giáo hội, mà trong đó Hòa thượng đã đóng góp một phần công đức rất lớn trong sự nghiệp thống nhất Phật giáo Việt Nam, hòa hợp dân tộc, xây dựng hòa bình thống nhất tổ quốc theo phương châm hoạt động của Giáo hội: “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”.

Trong hơn 50 năm phụng sự đạo pháp và dân tộc, Hòa thượng đã thực hiện một cách trọn vẹn các Phật sự bằng những hành động và ý chí của mình. Quả thật: “Hạnh nguyện sáng soi cùng kim cổ, chí cả rạng ngời với sử xanh”.

Ngày nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã và đang phát triển vững mạnh trang nghiêm trong lòng dân tộc, đang chuẩn bị kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam (1981 - 2011), tuy Hòa thượng không còn nữa để chứng kiến cảnh hưng thịnh phát triển, trang nghiêm của Giáo hội, nhưng những công đức mà Hòa thượng đã đóng góp cho Đạo pháp sẽ mãi mãi còn lưu dấu trong tâm trí Tăng Ni và Phật tử Việt Nam.

Thấm thoát ngày qua tháng lại, kể từ ngày hạt vàng khuất bóng, chùa Già Lam mây ẩn bóng ưu đàm, thuyền Bát nhã xuôi dòng bản thể, dù thời gian có trôi qua, không gian có thay đổi, nhưng công đức và đạo nghiệp của Cố Hòa thượng vẫn còn sống mãi trong tâm tư, trong ký ức của Tăng Ni Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam và trong trang sử vàng của Phật giáo Việt Nam thời hiện đại.

Hôm nay nhân ngày Lễ húy kỵ lần thứ 27, ngày Cố Hòa thượng trở về thế giới Niết bàn vô tung bất diệt và hiệp kỵ chư Sơn Thiền đức tiền bối hữu công, chư Tôn đức Hội đồng Trị sự GHPGVN, xin thay mặt Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự, Ban Trị sự Thành hội Phật giáo Tp. Hồ Chí Minh, Tăng Ni Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam đốt nén hương lòng kính dâng lên cúng dường Giác linh Hòa thượng và chư Sơn Thiền đức tiền bối hữu công, chư Tôn đức Hội đồng Trị sự GHPGVN.

Ngưỡng mong Pháp thân Hòa thượng từ bi gia hộ cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày càng phát triển trang nghiêm, hưng thịnh, Phật pháp xương minh, tông phong xán lạn huy hoàng, rừng thiền tâm hoa khai phát, pháp âm vĩnh xướng nhân gian và hộ trì cho thế giới Ta bà, vườn hoa xã hội nở hoa bốn mùa.

Đồng thời, chúng tôi xin kính nguyện kề vai sát cánh bên nhau, hòa hợp đoàn kết một lòng, để trang nghiêm ngôi nhà Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày càng phát triển huy hoàng trong lòng dân tộc.

(*) Trích lời Tưởng niệm của GHPGVN do HT Thích Giác Toàn - Phó Chủ tịch HĐTS tuyên đọc tại lễ tưởng niệm lần thứ 27 ngày HT Thích Trí Thủ viên tịch.

thichtrithu_3

HT. Thích Giác Toàn

thichtrithu_2thichtrithu_1

  • Lễ tưởng niệm cố Đại lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ

  • Ngày đăng tin: 04/04/2011

    Lễ tưởng niệm cố Đại lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ - Nguyên Chủ tịch Hội đồng Trị sự nhiệm kỳ I TW GHPGVN và Thành Hội Phật Giáo TP.HCM

  • Sáng ngày 3/4 tại TPHCM, Ban thường trực Hội đồng trị sự Gíao hội Phật giáo Việt Nam đã long trọng tổ chức lễ húy kỵ lần thứ 27 tưởng niệm cố Đại lão hòa thượng Thích Trí Thủ - nguyên Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ I (1981-1987) . Tham dự có Hoà thượng Thích Đức Nghiệp – Phó thư ký Hội Đồng Chứng Minh Trung ương Gíao hội Phật Gíao Việt Nam ; Hoà thượng Thích Thiện Nhơn – Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Đồng Trị sự Trung ương Gíao hội Phật giáo Việt Nam ; Chư Tôn đức Hội đồng Chứng minh , Hội đồng Trị sự , đại diện các ban ngành , đoàn thể Trung ương và TPHCM cùng môn đồ, pháp quyến của cố Đại lão Hoà thượng Thích Trí Thủ .

    Hòa thượng Thích Trí Thủ húy Văn Kính, pháp danh Tâm Như, tự Đạo Giám, hiệu Thích Trí Thủ. Hòa thượng sanh ngày 19 tháng 9 năm Kỷ Dậu tức ngày 01 tháng 11 năm 1909, tại làng Trung Kiên , tổng Bích La , phủ Triệu Phong , tỉnh Quảng Trị. Thân Phụ là cụ Nguyễn Hưng Nghĩa, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Chiểu , cả hai cụ thân sinh đều thuộc gia đình nhiều đời tin Phật . Hoà thượng là con trưởng trong gia đình có ba anh em . Năm lên 7 Hoà thượng bắt đầu học chữ Hán , năm lên 9 tuổi Hoà thượng được vào học trường làng . Năm 14 tuổi Hoà thượng đã vào học kinh Phật ở chùa Hải Đức – Huế . Năm 17 tuổi , Hoà thượng xuất gia tu học với Thiền Sư Viên Thành tại chùa Tra Am – Huế được ban Pháp danh Tâm Như , Pháp tự Đạo Gíam. Hai mươi tuổi, Ngài thọ cụ túc giới tại chùa Từ Vân ở Đà Nẵng .

    Tại buổi lễ, các đại biểu đã ôn lại công lao to lớn của cố Đại lão hòa thượng Thích Trí Thủ trong phong trào đấu tranh cho sự bình đẳng tôn giáo, đòi tự do tín ngưỡng, bảo vệ đạo pháp và dân tộc . Hoà thượng là một trong những bậc cao Tăng đã tích cực đóng góp trí huệ và công sức trong phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam thời bấy giờ . Hoà thượng đã mở các trường Phật học Tây Thiên , Linh Quang , Báo Quốc , Từ Đàm đào tạo nhiều thế hệ Tăng ni tài đức góp phần xây dựng và phát triển Phật giáo Việt Nam qua từng thời đại. Trong phong trào đấu tranh đòi bình đẳng tôn giáo trong những năm 1963 và cho đến ngày thống nhất Tổ quốc , Hoà thượng đã cùng các vị cao Tăng tích cực đấu tranh cho sự nghiệp bảo vệ Đạo pháp và Dân tộc . Với tài trí song toàn của bậc Thượng sĩ , Hoà thượng đảm nhận nhiều cương vị trọng yếu như Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hoằng Pháp , Tổng vụ trưởng Tài chánh , Viện Trưởng Viện Cao đẳng Phật học Sài gòn và Viện Trưởng Viện Hoá đạo Gíao hội Phật giáo Việt Nam thống nhất . Đặc biệt Hoà thượng rất quan tâm công tác hoằng pháp và dành nhiều thời gian để giảng kinh, thuyết pháp , viết sách , dịch Kinh , Luật, Luận . Những tác phẩm trước tác của Hoà thượng vẫn còn nguyên giá trị , mang tính khế lý, khế cơ , khế thời và khế xứ trong thời đại hội nhập hôm nay . Bằng giới đức thanh tịnh , thân giáo , khẩu giáo và ý giáo thâm nghiêm , Hoà thượng là hiện thân của giới luật , là sức sống miên viễn của Phật Pháp , là người khai thông giới thân huệ mạng cho hàng ngàn Tăng Ni và Phật tử ; Hoà thượng cũng chính là người đầu tiên tái lập hình thức truyền giới Tam sư Thất chứng , Tăng Ni nhị bộ.

    Tại Đại hội đại biểu thống nhất Phật giáo Việt Nam tổ chức ở thủ đô Hà Nội ngày 7.11.1981, Hòa thượng đắc cử Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam nhiệm kỳ đầu tiên , xây dựng thành công ngôi nhà giáo hội Phật giáo Việt Nam không ngừng phát triển trong lòng dân tộc với tâm nguyện :'' Những gì tôi làm lợi ích cho Đạo pháp tức là cho Dân tộc ; những gì tôi làm lợi ích cho Dân tộc tức là cho Đạo pháp .''

    Trong hơn 50 năm phụng sự đạo pháp và dân tộc , Hoà thượng đã thực hiện trọn vẹn các Phật sự , hạnh nguyện của Hoà thượng mãi mãi còn lưu dấu trong tâm trí Tăng Ni và Phật tử Việt Nam

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/10/2010(Xem: 4669)
Cư sĩ Mai Thọ Truyền sinh ngày 01-4-1905 tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre trong một gia đình trung lưu. Thuở nhỏ ông được theo học tại trường Sơ học Pháp - Việt Bến Tre, rồi Trung học Mỹ Tho, và Chasseloup Laubat Saigon. Năm 1924, ông thi đậu Thư ký Hành chánh và được bổ đi làm việc tại Sài Gòn, Hà Tiên, Chợ Lớn. Năm 1931, ông thi đậu Tri huyện và đã tùng sự tại Sài Gòn, Trà Vinh, Long Xuyên và Sa Đéc. Hành nhiệm ở đâu cũng tỏ ra liêm khiết, chính trực và đức độ, không xu nịnh cấp trên, hà hiếp dân chúng, nên được quý mến.
23/10/2010(Xem: 7612)
Trong lịch sử dựng nước, giữ nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, vương triều Trần (1226-1400) được tôn vinh là triều đại sáng chói nhất thể hiện qua những chiến công hiển hách thắng giặc ngoại xâm cũng như chính sách hộ quốc an dân đã tổng hợp được sức mạnh của toàn dân ta cùng với vua quan trong việc bảo vệ và phát triển đất nước vô cùng tốt đẹp.
23/10/2010(Xem: 8751)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua, và vài năm sau trở thành một nhà sư và đã để lại một di sản Thiền Tông bây giờ vẫn còn phát triển để trở thành dòng Thiền lớn nhất tại Việt Nam. Ngài tên là Trần Nhân Tông, vị vua thứ ba của Nhà Trần và là vị sáng lập Dòng Thiền Trúc Lâm.
22/10/2010(Xem: 12147)
Vào khoảng các năm 1972–1974, Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ, thường được Tăng Ni-Phật tử gọi cung kính gần gũi là “Ôn Già Lam”, đang trong thời gian dài hoằng pháp tại Nha Trang và các tỉnh miền Trung, Ôn tạm an trú trên chùa Hải Đức, nơi có Phật học viện Trung Phần, trên ngọn đồi Trại Thủy. Khoảnh vườn và thềm hiên phía trước tịnh thất của Ôn dần dà trở thành một hoa viên nho nhỏ với nhiều cây cảnh hoa lá đẹp lạ, là nhờ ở bàn tay chăm sóc thương yêu của một vị cao tăng đức độ nhân từ.
22/10/2010(Xem: 5614)
Chuông ngân chùa xẩm nắng Hương quyện áo tràng bay Trăm tám vì sao rạng Xoay tròn đôi 1óng tay Mười phương cây lặng gió Năm sắc hồ trôi mây Làn nước lên đầu núi Ánh vàng tràn đó đây.
21/10/2010(Xem: 6965)
Trong cõi nhân gian mịt mù tăm tối vì vô minh và phiền não, sự xuất hiện của một bậc chân tu đạo hạnh để dìu dắt con người trên đường tìm về giác ngộ và giải thoát, quả thật không khác gì một vì sao sáng trên bầu trời làm định hướng cho lữ hành trong đêm tối. Trong ý nghĩa này, Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Chơn là một vì tinh tú sáng rực.
20/10/2010(Xem: 4706)
Hòa thượng Thích Trừng San, pháp tự Minh Hiền, hiệu Hải Tuệ, thế danh Nguyễn San sau đổi là Trần Văn Lâu, nối pháp đời thứ 42 dòng Lâm Tế Liễu Quán. Ngài sinh năm Nhâm Tuất (1922), tại thôn Phú Khánh, xã Diên Thạnh, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
19/10/2010(Xem: 10997)
Sáng ngày 22.01 Quý Tỵ (03.03.2013) tại Tổ đình Tường Vân, tổ 16, khu vực 5, phường Thủy Xuân, thành phố Huế, Chư Tôn đức Tăng Ni trong sơn môn pháp phái Tường Vân đã đã trang nghiêm trọng thể tổ chức Lễ Tưởng niệm 40 năm ngày Đức Trưởng lão Đệ Nhất Tăng thống Thích Tịnh Khiết viên tịch.
16/10/2010(Xem: 7572)
Ấn tượng khó quên mà lần đầu tiên tôi gặp Thầy Phạm Công Thiện là Thầy đã khuyên tôi nên tinh tấn tu tập, thực hành lời Phật dạy và niệm Phật. Lần đó là vào giữa năm 1991, nửa năm sau khi tôi từ New York dời về Cali để sống, tại Chùa Diệu Pháp, thành phố Monterey Park, Los Angeles. Trong đầu tôi, trước khi gặp Thầy, mường tượng ra một Phạm Công Thiện hiên ngang và nói thao thao bất tuyệt về triết học Tây Phương, về Trung Quán, về Bát Nhã, v.v... Nhưng không, tất cả những suy nghĩ viễn vông và mộng tưởng đó đều bị sụp đổ tan tành khi tôi ngồi đối diện với Thầy Phạm Công Thiện trong một căn phòng nhỏ ở Chùa Diệu Pháp. Thầy Phạm Công Thiện, với dáng điệu từ tốn, khiêm cung, trầm lặng, chỉ nói những điều hết sức bình thường, chỉ khuyên những điều hết sức phổ thông mà người Phật tử nào cũng thường nghe quý Thầy khuyên bảo như thế.
13/10/2010(Xem: 4245)
Bữa tôi ra mắt sách tại Orlando, cựu Đại Tá Nguyễn Quốc Quỳnh, Hội Trưởng Hội Cao Niên Orlando và Vùng Phụ Cận, có nhắc tôi là bài "Nhà Sư Của Tôi" (NSCT) trong cuốn tạp văn "Viên Đạn Cuối Cùng" còn thiếu nhiều chi tiết. Tôi cảm ơn cụ Quỳnh và hứa là nhân dịp Tân Niên Canh Thìn (y2k) tức Năm Rồng đầu thiên niên kỷ mới, tôi sẽ kể thêm về những câu chuyện tại Trại "cải tạo" Thanh Phong, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567