Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiểu sử Ni Sư Hải Triều Hạnh

01/07/201419:41(Xem: 9349)
Tiểu sử Ni Sư Hải Triều Hạnh

IMG_0016

SƠ LƯỢC TIỂU SỬ NI SƯ HẢI TRIỀU HẠNH

Trụ Trì Tịnh Thất Cát Tường, Úc châu

Nam Mô Tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.

Ngưỡng bái bạch chư tôn Hòa Thượng chư Thượng Toạ, Đại Đức Tăng

Ngưỡng bái bạch quý Ni trưởng, quý Ni sư chư tôn Đại Đức Ni.

Kính thưa các vị lãnh đạo chính quyền các cấp sở tại.

Kính thưa quý Phật tử gần xa.

Trước giờ phút tiễn biệt này con xin thay vì toàn thể Ni chúng các chùa trong tông môn kính tuyên đọc sơ lược tiểu sử của Nhị Sư huynh Hải Triều Hạnh.

Kính thưa chư Tôn Đức!

Ni sư Thích nữ Hải Triều Hạnh, Pháp Hiệu Hoằng Hạnh, Tự Liễu Như, thế danh Trần Duy Hạnh. Sinh năm Ất Mùi 1955 tại Gia Định sài gòn. Ni Sư sinh trưởng trong 1 gia đình gia giáo. Thân phụ là cụ ông Trần Duy Ninh PD: Hoằng Ninh, vốn là em kết nghĩa của Thầy Hải Triều Âm là một y sĩ cùng làm chung một sở y tế với Thầy, khi Thầy chưa xuất gia cụ ông luôn theo Thầy làm trưởng đoàn công tác từ thiện xã hội và Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn thị Hoa Truật, pháp danh Mỹ Dung, sau Hòa Thượng Pháp Chủ đổi tên là Cát Tường vốn là vị hộ pháp thân tín trong thời gian Thầy xuất gia, nhập thất và suốt chặng đường hoằng Pháp của Thầy. Ni Sư Hải Triều Hạnh là người con thứ tư trong gia đình có 7 anh chị em 4 trai, 3 gái. Ngay từ nhỏ, Sư là người thông minh, nhanh nhẹn, hoạt bát. Sinh ra nơi đất Sài Thành trong một gia đình có truyền thống Đạo Đức, song có lòng tín ngưỡng Phật giáo rất sâu xa. Thắng duyên hội ngộ cả gia đình đều phát tâm quy y thọ trì ngũ giới với HT Thọ Giã, chùa Hoa Nghiêm Q Bình Thạnh, sư được Pháp hiệu là Hoằng Hạnh

Năm 1965 Khi Thầy nhập thất ở Thủ Đức sư thường theo mẹ lên Chùa Vạn Đức tiếp tế cúng dường, hộ pháp mọi việc cho Thầy an tu. Vì kính ngưỡng gương đạo hạnh của Thầy, và chủng tử tu sĩ nhiều đời trong tiềm thức bật dậy mạnh mẽ, khiến một hôm không cần thưa trước với Bố Mẹ sư lẳng lặng vào hẳn trong thất Thầy đảnh lễ xin Thầy độ cho xuất gia, lúc ấy vừa tròn 11 tuổi, nhưng Thầy đang chuyên tu miên mật nên không thể nhận đệ tử quá nhỏ, vì thế Thầy gửi lại gia đình nhờ Bố Mẹ chăm sóc dạy dỗ, khi lớn lên nếu còn giữ chí nguyện vẫn xuất gia không muộn. Kể từ đó sư lấy việc chăm học để khẳng định mình, lớn lên sống dưới thời sa hoa tráng lệ của hòn ngọc viễn đông, nhưng không quan hệ bè bạn vui chơi, không đua đòi với các mốt thời trang hiện đại, giữ vững mình trong khuôn khổ giản dị mộc mạc, chỉ chuyên tâm vào việc bồi dưỡng kiến thức học vấn, là học sinh giỏi của trường Thiên Phước Tân định, song song với việc học hành sư thường theo mẹ ăn chay tụng kinh niệm Phật để cầu mong đến ngày được Thầy thế phát xuất gia.

Năm 1974 vừa lấy xong bằng Tú tài. Đến cuối năm 1975 với biết bao tình cảm buộc ràng quý mến của người thân, sự ngưỡng mộ của các bạn đồng học, nhưng niềm tin kiên cố với Phật Pháp, Sư quyết tâm cắt dây thân ái, thoát ly muộn phiền của cuộc đời thế sự, xuất gia tại Tịnh thất Liên Hoa Lê Quang Định Q Bình Thạnh.

Đến đầu năm 1976 Thầy trở về Tổ đình Linh Quang nhập thất, Ni sư Hải Triều Hạnh theo lên Đại Ninh thị giả hầu Thầy và học Pháp.

Năm 1982 Ni sư được Thầy cử ra Bắc học Pháp Phản văn với Hòa Thượng Đệ nhất Pháp Chủ. Khi trở về lại chùa Liên Hoa Ni sư làm Ban Thủ hướng dẫn lớp chuyên tu Phản văn đàn đầu gồm 14 vị.

Năm 1985 Thầy rời Liên Hoa về Đại Ninh, Ni Sư lên Thủ đức nhập thất chuyên tu vào sâu Pháp Nhĩ căn Viên Thông.

Năm 1991 cuộc thế xoay vần Ni sư đi nước ngoài định cư tại Syned úc châu, và được cử làm Giáo thọ Ni chúng chùa Phước Huệ

Năm 1995 Ni Sư Đảm nhận trách nhiệm làm Nhân viên tuyên úy, tình nguyện vào An dưỡng đường, chia sẻ an ủi với những bịnh nhân sắp chết biết đến Phật Pháp, một mình lái xe đi hàng mấy trăm cây số sáng đi chiều về, đến các trại tù để giáo hóa các tù nhân biết bỏ ác làm lành sống đời lương thiện, một mình thân nữ dặm trường Ni sư đã làm những công hạnh thật sự phi thường. Trong suốt thời gian ở úc châu, Ni sư vừa tinh chuyên tu học, vừa phụng dưỡng mẹ già, vừa lãnh việc giảng dạy cho Phật tử. Mặc dù thân mang trọng bịnh, nhưng nhờ công đức ấy Ni sư đã duy trì thọ mạng hơn 12 năm.

Suốt thời gian qua các y Bác Sĩ tại Úc châu đã tận tình điều trị với các phương pháp hiện đại, nhưng với căn bịnh hiểm nghèo, Ni sư biết mình không thể qua khỏi, nên đã quyết định trở về nương đức Đại Chúng trong những ngày tháng cuối cùng. Tối ngày mồng 8 tháng 5 năm Giáp Ngọ (2014) lúc 8g tối Ni sư đã xả báo an tường trong tiếng niệm Phật tha thiết của Đại chúng, trụ thế 60 năm, 39 hạ lạp. Thần thức lên miền An dưỡng, nghiệp chướng bỏ lại trần lao, hoa khai chín phẩm sen vàng, Phật rủ nhất thừa thọ ký

“Thấy nghe như huyễn lóa 
Ba cõi tựa không hoa 
Xoay nghe huyễn hóa trừ 
Trần tiêu giác viên tịnh
Thường tịch quang thông suốt 
Tịch chiếu khắp hư không

Cuộc đời của Ni sư Hải Triều Hạnh là một bản trường ca về sự tu tập và cống hiến cho tha nhân, một nghị lực phi thường đấu tranh với bịnh tật, những công hạnh phi thường vượt qua biết bao thử thách của nghiệp lực, để giữ trọn chí nguyện xuất thế cho đến ngày từ tạ thế gian.

Giờ đây chúng em xin đốt nén tâm hương, để tưởng nhớ về vị sư tỷ khả kính. Cầu nguyện Sư tỷ: “Sớm xả thân tứ đại khói, để cao đăng tinh thần ở trời Tây”. Toàn thể chư huynh đệ trong sơn môn Pháp quyến đồng kính bái.

Nam Mô Pháp giới Tạng Thân A Di Đà Phật

Tác đại chứng minh.

IMG_0013

IMG_0037

IMG_0038

IMG_0252

IMG_0255

IMG_0256

IMG_0259

IMG_0262

IMG_0264

IMG_0268

IMG_0348

IMG_0357

IMG_0358

IMG_0383

IMG_0416

IMG_0431

IMG_0460

IMG_0464

IMG_0466

IMG_0468

IMG_0471

IMG_0478

IMG_0480

IMG_0534

IMG_0687

IMG_0689

IMG_0691

IMG_0707

IMG_0709

IMG_0711

IMG_0746

IMG_0756

IMG_0762

IMG_0771

IMG_0772

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 5368)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 5833)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 6806)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 7473)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 5043)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 6477)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 6462)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 14360)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 13099)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
01/06/2011(Xem: 6936)
Cuộc đời và sự nghiệp của Khương Tăng Hội, ta hiểu biết qua hai bản tiểu sử xưa nhất, một của Tăng Hựu (446 - 511) trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 96a29-97a 17 và một của Huệ Hạo trong Cao Tăng truyện 1 ĐTK 2059 tờ 325a13-326b13. Bản của Huệ Hạo thực ra là một sao bản của bản Tăng Hựu với hai thêm thắt. Đó là việc nhét tiểu sử của Chi Khiêm ở đoạn đầu và việc ghi ảnh hưởng của Khương Tăng Hội đối với Tô Tuấn và Tôn Xước ở đoạn sau, cùng lời bình về sai sót của một số tư liệu. Việc nhét thêm tiểu sử của Chi Khiêm xuất phát từ yêu cầu phải ghi lại cuộc đời đóng góp to lớn của Khiên đối với lịch sử truyền bá Phật giáo của Trung Quốc, nhưng vì Khiêm là một cư sĩ và Cao Tăng truyện vốn chỉ ghi chép về các Cao Tăng, nên không thể dành riêng ra một mục, như Tăng Hựu đã làm trong Xuất tam tạng ký tập 13 ĐTK 2145 tờ 97b13-c18, cho Khiêm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]