Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

THẦY TÔI ĐÃ SỚM RA ĐI! - James Whitehill - Diệu Liên Lý Thu Linh dịch

27/12/201000:03(Xem: 5297)
THẦY TÔI ĐÃ SỚM RA ĐI! - James Whitehill - Diệu Liên Lý Thu Linh dịch

ngoi thien-4
THẦY TÔI ĐÃ SỚM RA ĐI!
James Whitehill
Diệu Liên Lý Thu Linh dịch

Vị thầy người Nhật của tôi đã ra đi năm ngoái, quá trẻ, quá sớm. Bà chỉ mới năm mươi bốn tuổi, và không có ai để truyền thừa Pháp. Bà chỉ có năm người đệ tử sống cùng bà trong những năm gần đây. Tôi, năm mươi sáu tuổi, nhưng lại là đệ tử mới nhất của bà, mà lại là nam đệ tử. Tôi ở với một nhóm nhỏ đệ tử người Tây phương chỉ mới được mười năm nay, trong khi người nữ đệ tử trẻ tuổi nhất cũng đã có mười lăm năm theo học với bà. Do vị thế ưu tiên của việc “sống lâu lên lão làng” trong tăng đoàn nhỏ bé của chúng tôi, mà các vị nữ đệ tử trẻ này tha hồ chế ngạo cái đầu không tóc, và việc gia nhập tăng chúng muộn màng của tôi. Tôi không màng điều đó chút nào, vì từ những ngày đầu, tôi đã rất hạnh phúc được thân cận “roshi” của tôi, với lòng tin tưởng rằng sự gần gủi, tiếp xúc hằng ngày với bà có thể giúp tôi đi đến ngưỡng cửa tiếp cận tâm linh, nơi mà bản thể thực sự của tôi cuối cùng sẽ được tõa sáng.

Từ khi bà ra đi, đôi khi tôi cảm thấy như nghe được tiếng nói của bà trong tôi, cắt ngang dòng tư tưởng của tôi khi chúng sắp dẫn dắt tôi đi quá xa hay trở nên suy đoán quá cặn kẻ. Dường như đó là tiếng nói của bà, nói những điều khiến tôi phải ngạc nhiên, nhưng cũng có thể là tôi nhầm lẫn. Roshi của tôi,bà đích thực hiện hữu, và tôi ‘chiêm ngưỡng’ bà như hầu hết mọi người đệ tử thuần thành đối với vị thầy khả kính của mình. Vì thế ‘tiếng nói’, có thể là tiếng nói ‘của bà’ được chuyển qua tôi trở thành một trong những tiếng nói ‘của tôi’.

Tuy nhiên, cảm giác về sự có mặt của bà nơi đây, về một sự hiện hữu bằng xương bằng thịt rõ ràng, cô động đang dần phai nhạt một cách không thể cưỡng lại được. Khi nỗi đau của tôi dần qua đi, tôi dần đánh mất thầy. Mỗi ngày, tôi chiêm nghiệm tâm trạng của mình trước sự mất mát, trống vắng khi chúng dần mất đi cường độ, nét sắc bén. Roshicủa tôi mờ nhạt dần, và dường như tôi cũng tan biến theo bà, đánh mất bản thân, đánh mất mọi tư duy. Tôi phải dựa vào đâu, trong thời gian đau khổ tột cùng này, trên vũng nước tối tăm này? Tôi phải hướng về đâu để tìm lại dấu vết Phật tánh của mình? Tôi phải làm gì bây giờ? Đây là những câu hỏi đớn đau mà người đệ tử phải đối mặt khi đánh mất thầy mình? Khi vị thầy còn hiện tiền, bạn luôn có phương hướng: chỉ cần quanh quẩn cạnh người.Nhưng thầy tôi đã ra đi, trong khi tôi vẫn phải đi tới. Tôi đành làm hồn ma bóng vía bám theo thầy. “Roshiơi, hãy trở về với tôi”, tôi gào khóc.

Tôi biết đó là cái bẫy. Không phải sự than khóc, mà là ước muốn tạo ra một thực tại theo ý mình, để nối lại các mối duyên nghiệp. Tôi khám phá ra rằng trong những ngày này chỉ có ba thứ có thể giúp tôi lưu tâm đến những gì xảy ra quanh tôi: nỗi đau, bốn nữ đệ tử kia và thế giới sống động quanh tôi. Dĩ nhiên cái đau là nỗi mất mát, là cái đau dằn xé tự nhiên hay một nỗi buồn âm ỉ vận hành theo quy luật, thời gian, và không gian của riêng nó. Tôi để nó tuôn trào, trôi lăn theo nó. Quán sát nó. Đôi khi chuyển mình theo nó, đôi khi bất động trên gối thiền nhìn nó. Tôi chiêm nghiệm nỗi muộn phiền của mình: nó bộc lộ với tôi, từng chút một, trong từng tiếng than vãn, trạng thái và mức độ của sự mất mát của tôi. Sự mất mát này như dồn ép thêm vào cảm giác đánh mất bản thân, vì cái chết của roshiđã lấy mất của tôi chỗ dựa cũ, mục đích, phương hướng chân chánh. Nỗi buồn đau cũng khiến tôi trở nên lặng lẽ. Tôi thấy dường như mình không còn thở. Tôi trở nên là giây phút trước khi sự chờ đợi bắt đầu. Tôi dừng lại và dường như đông giá. Lúc ấy, có thể một điều tầm thường gì đó xảy ra, và đem tôi trở về thực tại: một tia sáng xuyên qua cành lá dưới cơn gió bất chợt, một chú mèo ngơ ngác bước vào phòng, một cánh cửa đóng mạnh tay (cửa bị kẹt, và lý ra tôi phải sửa lại, nhưng không thể là lúc này). Tôi chỉ biết một điều: tôi đã bước xuống một dòng nước, mà không thể bước ngược về quá khứ. Tôi đang trôi xuôi theo dòng nước.

Tôi vẫn còn thấy kết nối với bốn người đệ tử của roshi, những người có lẽ còn lạc lõng hơn tôi. Chúng tôi cố gắng đùm bọc lẫn nhau. Nếu họ không nghĩ thì tôi nghĩ mình là “vị roshighẻ” của họ. Và nhiệm vụ của tôi là: “Có mặt ở đó”. Điều đó dễ thôi: Tôi chỉ loanh quanh, làm bổn phận, trao đổi đôi điều. Tôi không phải là vị roshitâm linh của họ, nhưng tôi có thể nấu ăn, trả các khoản nợ, và bảo đảm là tiền cúng dường không bị ăn chặn. Hằng đêm, tôi lo khóa các cửa nẻo. Dễ thôi. Như một người cha.

Nhưng roshilà một bà mẹ, đã sử dụng những phương tiện thiện xảo, khác biệt để sách tấn từng người chúng tôi. Một cách kiên nhẫn, không thúc ép quá thường xuyên hay quá khắt khe. Mở rộng tâm từ bi đối đãi với chúng sanh vô minh, các vị Phật sơ sinh, các vị bồ tát hay tranh cãi, và những giống quỷ đói vô vọng. Đầy lòng dũng cảm, vì phải có dũng cảm mới tạo ra được các vị phật. Giờ tôi đang khốn khổ với bốn vị đệ tử trẻ (dầu tuổi hạ họ hơn tôi và roshiđã huấn luyện họ sống tự lập, dường như bà biết rằng bà sẽ không thể ở với họ lâu). Người thì trầm cảm, hoang mang. Kẻ thì hay khóc. Hai người còn lại thì không chia sẻ gì với tôi về vị thầy, người bạn kính yêu của chúng tôi. Tôi không biết làm một roshicho họ, để bảo bọc họ như một người mẹ –trong khi vị roshicủa chúng tôi thì không có người truyền thừa để chúng tôi có thể nương tựa. Hai vị đệ tử lớn tuổi nhất đã tự bỏ đi –với mục đích tìm kiếm ai đó khác làm thầy.

Roshicủa chúng tôi thích làm vườn và nấu ăn. Buổi sáng bà dành cho việc làm vườn tược, buổi chiều thì nấu ăn. Để có thu nhập cho chùa, tôi làm việc bên ngoài bốn hay năm ngày một tuần. Nhưng roshicủa chúng tôi, theo truyền thống, chỉ ở trong chùa, làm Phật sự, và tiếp tục tu tập hoàn thiện bản thân theo cách riêng của mình. Trong khi tôi làm việc ở bên ngoài đến tận chiều tối, thì bà huấn luyện các đệ tử khác nấu buổi ăn chiều theo phong cách Phật giáo, trước tiên là tập trung vào lời dạy và cách thức, sau đó tiến tới thái độ tâm linh được tìm thấy trong những lời hướng dẫn của Dogen đối với người đầu bếp trong thiền viện, cốt yếu là, “Hãy để hết tâm trí vào công việc diệu kỳ này!” Tôi nghĩ là hai nữ đệ tử lớn tuổi đã thọ lãnh ân sủng cuối cùng của roshi, được bà ấn chứng là ‘những đầu bếp giỏi”. Tôi hơi ganh tỵ với việc họ được xác nhận là những người xứng đáng. Dầu Roshicũng đã cố gắng an ủi tôi bằng cách nói, “Ngươi rất khéo tay, giỏi văn, vân vân”, nhưng tôi biết là tôi chưa hoàn tất hay hoàn thiện bất cứ điều gì, nói chi đến cái ngã của tôi.

Có thể cách nấu ăn của bà là do ảnh hưởng của việc bà đã được huấn luyện trong trà đạo, nhưng phong cách đó cũng thể hiện trong mọi thứ khác trong cuộc sống của bà. Có thể tinh thần trà đạo đã lấn áp mọi thứ hoặc là bà đã đạt đến mức độ vượt thoát khỏi mọi hình thái của trà đạo và các nghệ thuật khác. Tôi nghĩ điều thứ hai có lẽ đúng hơn: hành động của bà dường như phát xuất từ suối nguồn trong trẻo của cảm hứng tự nhiên, và từ chính nguồn Thiền, trong gần như tất cả mọi việc. Thần thái thiền và những bài học thiền nhẹ nhàng của bà hiển lộ qua hành động, hơn là lời nói. Nếu tôi có thể tóm tắt những lời dạy của bà, thì chúng chủ yếu nằm trong ba nguyên tắc dành cho bà và cho chúng tôi. Nguyên tắc thứ nhất, trên tất cả, bà nhắc nhở chúng tôi “cố gắng chánh niệm”. Tỉnh giác và chánh niệm trong từng phút giây. Ở mỗi thời điểm chỉ chú tâm vào một việc. Nguyên tắc thứ hai, “Khi đã quyết định làm điều gì thì hãy cố làm hết sức mình”. Lời dạy này không nhằm khuyến khích ta tranh hơn thua với người, mà là để ta tự tu sửa, hoàn thiện khả năng của mình.

Nguyên tắc thứ ba và là cuối cùng của bà là, “sống thật, sống hòa hợp với bản thân”. Chúng tôi có thể nhận thấy được ‘bản tánh tự nhiên’ và sự tự tại của bà dưới nhiều hình thức. Bà thích mặc y phục thoải mái. Bà rất thích tiếp xúc với trẻ con, chơi đùa với chúng, tặng cho chúng những món quà đặc biệt mà bà luôn có sẵn như là các vỏ ốc biển hay đồ chơi xếp bằng giấy.

Bà đã định cư ở Mỹ rất sớm, từ những năm 1966, do thích sống ở nơi này, vì Nhật Bản khó dung chứa những phụ nữ giống như bà. Nghe nói là Roshicủa chúng tôi, không chịu đảnh lễ, chưa từng thế phát và chưa từng khẳng định bà thuộc hệ phái nào. Bà chẳng tin vào những điều này cũng như chẳng tin nơi cấp bằng. Với sự phán đoán ít khi nào sai lầm về ai, bà không coi trọng cấp bằng, vì bà có thể thấy rõ bản chất thật và cái ngã giả tạo của chúng tôi.

Roshicủa chúng tôi, luôn tụ họp chúng tôi lại lúc 6 giờ để dùng bữa chiều. Không ai được bỏ bữa hay trễ bữa. Bữa ăn bao gồm những món ngon (lại thêm một điều khác biệt nữa với truyền thống của các tự viện) và nhẹ nhàng chú tâm chánh niệm vào những gì mình đang làm để có thể làm đúng một cách tự nhiên. “Chỉ ăn”. Trò chuyện ở bàn ăn không bị cấm, nhưng cũng không được khuyến khích. Các đệ tử còn vụng về (kể cả tôi vào những ngày không may mắn) đôi khi không kiềm chế được sự thôi thúc phải than phiền hay tán đủ thứ chuyện kiểu: “Ai đoán chuyện gì xảy ra hôm nay nào?” Roshisẽ không ngăn cấm điều này, nhưng ít đáp ứng hay chỉ lặng thinh ăn. Đôi khi bà hỏi lại, “Thức ăn có vừa miệng không?” để kéo sự chú tâm của chúng tôi về việc đang làm. Một khi chúng tôi đã chú tâm trở lại, thì thỉnh thoảng bà lại khéo chỉ cho chúng tôi thế nào là ‘ăn uống đúng cách”. Nhiều điều chúng tôi học được ngay trong cách ăn uống của bà. Ngày qua ngày, hàng ngàn bài học đã được diễn ra trước mắt chúng tôi: với chủ tâm, một cách lặng lẽ (chúng tôi dùng đũa, nên không ồn ào như muỗng nĩa bao giờ), êm đềm, đều đều.

Theo tôi nhận xét, bà hoàn toàn chánh niệm ở bàn ăn, thưởng thức các món ăn với sự trân trọng, chăm chú (mà) tôi chưa từng thấy ở nơi nào khác. Tuy nhiên, bà cũng không bỏ sót bất cứ hành vi gì của chúng tôi. Sự hoàn toàn tỉnh thức này là một điều cực kỳ huyền bí đối với tôi. Sau nhiều năm hành thiền, tôi cũng có khả năng tập trung vào một đối tượng với chút gì đó ổn định, nhưng không thể đồng thời có được trạng thái cởi mở, uyển chuyển, bao quát như thế. Dĩ nhiên, bà cũng biết sự thiếu sót này của tôi, và tôi nghĩ là do sự thiếu ‘tỉnh thức rốt ráo’ đó mà tôi là đệ tử duy nhất bị cho là chưa sẵn sàng để học nấu ăn với Roshi. Trái lại, bà chăm chú vào thói quen ăn uống của tôi, coi đó là phạm trù để bà dựa vào đó giảng giải cho tôi về giáo Pháp, về sự tỉnh thức, về chân lý.

Một buổi chiều kia, trong trạng thái hưng phấn, tôi vừa ăn, vừa uống vội vã, vừa nói về một điều gì đó, tôi cũng không nhớ, vừa không ngớt gắp thức ăn đầy trong chén. Những hành động này thật khó chấp nhận đối với roshicủa chúng tôi, người thường cho phép chúng tôi trò chuyện chút đỉnh, tự bới cơm thêm, hay ngay cả tranh luận, nhốn nháo đôi chút trong khi ăn. Khi tôi với tay phải đang cầm đũa qua bàn ăn đến chỗ tô đựng bông cải xanh, tay trái thì cầm ly nước giơ lên định uống. Hai tay đang ở hai tư thế cầm nắm khác nhau như vậy mà tôi dừng lại để nói điều gì đó với một người đệ tử khác, thì “Chát!”- Roshi quật đũa vào tay phải của tôi, và la, “Đừng làm thế!” Tôi chết lặng vì bà chưa bao giờ la tôi như thế. Tôi có cảm giác như mình vừa rơi xuống hố, một cái hố thẳm băng giá còn hơn nước đá. Các cơ khớp tôi đông cứng lại vì sợ. Tôi không nói được lời nào để biện giải cho mình. Chú bé trong tôi dường như đang muốn đứng dậy để ngoan cố phản đối sự sửa sai của bà mẹ –nhưng chỉ hoài công. Đây không phải là mẹ tôi, mà là vị thầy khôn ngoan và từ bi của tôi –đang bắt tôi tại trận trong một thứ tội không tên, trước mắt cả thế giới.

Roshi khiến tôi chết lặng: Tôi không nói được lời nào, cái đánh của bà đã làm đông cứng cả thân và tâm tôi. Nhận ra được tâm trạng của tôi, bà không nỡ hành hạ tâm tôi, nên dịu giọng nói: “Mỗi lúc chỉ làm một việc. Đừng vừa gắp thức ăn, vừa uống, và nói cùng một lúc”.

Bao bài học tuôn ra từ những lời khuyên tầm thường đó. “Đừng có dùng đũa với qua bàn ăn để gắp mấy miếng bông cải như thế. Trước hết, đem dĩa bông cải lại gần mình, rồi mới dùng đũa gắp. Phải chú tâm vào những việc mình làm! Đừng phân tâm vào quá nhiều thứ, vì ta sẽ không làm tốt chúng, hóa ra coi thường chúng”. Rồi bà ‘trình diễn’ cách làm thế nào để làm những điều này đúng, nhanh chóng, nhẹ nhàng, cẩn trọng và chính xác.

Tôi nín thở, quán sát bà, khi bà vừa chấm dứt những cử động chỉ vừa đủ và những lời khuyên răn, tôi cảm thấy ngập tràn xấu hổ. Choáng váng. Trong nỗi tủi nhục lớn lao có một góc, một góc nhỏ, của sự trân tráo. Từ góc nhỏ đó tôi có thể nhận ra mình thật may mắn có được một vị thầy như thế, dầu hơi thở tôi nghẹn lại trong cơn giông bão của sự hối hận, tiếc nuối. “Tôi biết ông có thể làm tốt hơn thế mà”, bà nói khi quay qua một vị nữ đệ tử khác và đổi đề tài câu chuyện.

Hồi tưởng lại bữa ăn đó, cái đánh, bài học, sự xấu hổ, tôi muốn phủi tay, bất cần và nói, “Đó chỉ là cách hành xử của người Nhật”. Nhưng không làm được. Rõ ràng nhìn lại lúc đó, tôi thấy mình còn con đường dài phải đi: tôi còn chưa làm chủ bản thân –sự chú tâm còn mơ hồ, sự thể hiện cẩu thả, và tâm tham vẫn còn tràn đầy.

Diệu Liên Lý Thu Linh

11/2010

(Lược dịch từ My Dharma Teacher Died Too Soon, NXB Wisdom Publications, 2000)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/10/2014(Xem: 13203)
Nhân Vật Phật Giáo Thế Giới, do TT Thích Nguyên Tạng biên soạn từ 1990
01/10/2014(Xem: 7345)
Pháp danh : Trừng Thành Pháp tự : Chí Thông, Pháp hiệu : Thích Giác Tiên. Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42 Thế danh : Ngài họ Nguyễn Duy húy là Quyển. Thọ sanh năm Canh thìn, niên hiệu Tự Đức đời thứ 33 (1879). Chánh quán làng Giạ Lệ Thượng, xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1883, lên bốn tuổi thì song thân đều mất. Ngài được ông bà bác đồng tộc đem về nuôi dưỡng. Nhờ bẩm chất thông minh nên thân thuộc cho theo Nho học một thời gian. Nhận thấy giáo lý Phật đà mới là con đường hướng đến cảnh giải thoát ; từ đó, ngài xin với thân thuộc xuất gia đầu Phật. Năm 1890, được 11 tuổi, ngài cầu thọ giáo với tổ Tâm Tịnh.
01/10/2014(Xem: 7470)
Phật Giáo Việt Nam thời cận đại đã viết lên trang lịch sử bằng máu, xương của Chư Tôn Đức Tăng Ni và Phật tử. Dòng lịch sử ấy đã nêu cao tấm gương hy sinh bất khuất trước những đàn áp, bạo lực, súng đạn, nhà tù và lựu đạn. Phải chăng đây là một chặng đường lịch sử oai hùng mà Phật Giáo Việt Nam đã biểu tỏ tinh thần Đại hùng, Đại lực, Đại Từ Bi để vực dậy một nền văn hóa đã bị sụp đổ bởi một chế độ tha hóa, ngoại lai xâm nhập vào quê hương Việt Nam.
01/10/2014(Xem: 9325)
Trên dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam thời cận đại của những thập niên 30-40 có bậc Tôn túc của Ni giới xuất hiện, đồng hành với chư Tăng để xiển dương Phật pháp, đào tạo Tăng tài, xây dựng tự viện, giữ gìn giềng mối đạo pháp được bền vững. Bậc Tôn túc của Ni giới ấy là SB Diệu Không, người đã hy hiến cả đời mình cho đời lẫn đạo, SB đã lưu lại cho hậu thế một hành trạng sáng ngời cho đàn hậu học noi gương.
09/09/2014(Xem: 13081)
Hòa Thượng Thích Giác Thông, tục danh Đổ Văn Bé, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1939 tại Mỹ Hòa Hưng, Huyện Châu Thành, An Giang, Long Xuyên. Trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân Phụ là Cụ Ông Đổ Nhựt Thăng, Thân Mẫu là Cụ Bà Nguyễn Thị Khiên, Hòa Thuợng là người anh cả trong số 6 anh em ( 3 trai, 3 gái ), được nuôi dưỡng trong một gia đình nông dân hiền lành, có truyền thống đạo đức, nên từ nhỏ Hòa Thượng đã là người sớm có tư chất hiền lương, có tâm thương người mến vật, là con có hiếu với ông bà cha mẹ.
06/09/2014(Xem: 7009)
Không biết đây là lá thư thứ mấy con đã viết mà không bao giờ gởi đi, bởi vì con biết thư có vượt ngàn dặm trùng dương bay về thì Thầy cũng vẫn không cầm đọc được, chứng bịnh Parkinson đã làm cho hai tay Thầy run nhiều quá nhưng nhân mùa Phật Đản nhớ đến Thầy, con lại muốn viết. Thời gian sau này, con vẫn theo dõi thường xuyên sức khỏe của Thầy, con buồn vô cùng, Thầy đã bị bịnh, không thoát khỏi qui luật sinh, lão, bịnh mà con thì ở xa quá, không thăm viếng cận kề Thầy được như ngày xưa nữa !
05/09/2014(Xem: 14548)
Còn đây của báu trong nhà Không là ngọc bảo, không là hoàng kim Bình thường chiếc áo tràng lam Mà sao quý vượt muôn ngàn ngọc châu! Những năm cầu thực dãi dầu Sớm mai tụng niệm, đêm thâu mật trì Dòng đời mãi cuốn con đi Về nương chốn tịnh có Thầy, có Ôn… Kinh truyền ban phát khuyên lơn
02/09/2014(Xem: 10262)
“Đầu lông trùm cả càn khôn thảy Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong” Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống. Sách Thiền Uyển Tập Anh (Anh Tú Vườn Thiền) ghi lại cuộc đối thoại giữa ngài với Thiền Sư Bản Tịch ở chùa Chúc Thánh, nhân dịp ngài cùng với thiền sư đến nhà đàn việt để thọ trai, trên đường đi sư hỏi: Thế nào là ý chỉ của Tổ Sư? Sao thầy lại nghe theo nhân gian làm những chuyện đồng cốt mê hoặc? Bản Tịch đáp: Lời nói ấy đâu phải là không do đồng cốt giáng thần? Sư thưa: Chẳng phải là Hòa Thượng đùa bỡn con hay sao? Bản Tịch đáp: Ta chẳng hề đùa bỡn tí nào! Sư không nắm được ý chỉ của thầy bèn cáo biệt ra đi.
12/08/2014(Xem: 15217)
Cô là 1 nữ sinh trẻ nhất của Sài Gòn đã anh dũng ngã xuống trước họng súng của quân thù tàn bạo trong 1 buổi sáng mùa thu năm 1963 trước cửa chợ Bến Thành, với hàng ngàn sinh viên, học sinh và nhân dân phật tử trước cửa chợ Bến Thành. Và ngay sau đó, Thành hội sinh viên học sinh Sài Gòn đã quyên góp vận động ủng hộ xây bức tượng thờ người nữ học sinh anh hùng tuổi 15 đặt ngay công trường Diên Hồng trước cửa chính chợ Bến Thành ngày nay với sự chứng kiến của hàng ngàn người dân, phật tử thành phố và sinh viên, học sinh.
09/08/2014(Xem: 11263)
Hòa thượng Họ Đinh, húy Văn Nam, là đệ tử của cố Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN, pháp danh Tâm Trí, tự Minh Châu, pháp hiệu Viên Dung, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1918 (Mậu Ngọ) tại làng Kim Thành (Quảng Nam); nguyên quán làng Kim Khê, xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ ông Đinh Văn Chấp và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Đạt. Gia đình Hòa thượng có 11 người anh em, Hòa thượng là con trai thứ tư trong gia đình. Vốn sinh trưởng trong gia đình vọng tộc Nho gia, thân sinh của Hòa thượng đỗ tiến sĩ Hoàng giáp năm 21 tuổi (khoa Quý Sửu 1913, niên hiệu Duy Tân thứ 7). Nhờ ảnh hưởng sâu đậm nền giáo dục của cụ ông từ bé, vì vậy Hòa thượng rất cần mẫn đèn sách, chăm chỉ học hành, trí tuệ phát triển sớm. Năm 1939, Hòa thượng đỗ bằng cao đẳng tiểu học Đông Dương; năm 1940 Hòa thượng đỗ tú tài toàn phần tại Trường Khải Định - Huế (nay là Trường Quốc Học); và cùng thời gian này, Ngài được bổ làm Thư ký Tòa Khâm sứ tỉnh Thừa Thiên. Sau một năm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567