Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

THẦY TÔI ĐÃ SỚM RA ĐI! - James Whitehill - Diệu Liên Lý Thu Linh dịch

27/12/201000:03(Xem: 5336)
THẦY TÔI ĐÃ SỚM RA ĐI! - James Whitehill - Diệu Liên Lý Thu Linh dịch

ngoi thien-4
THẦY TÔI ĐÃ SỚM RA ĐI!
James Whitehill
Diệu Liên Lý Thu Linh dịch

Vị thầy người Nhật của tôi đã ra đi năm ngoái, quá trẻ, quá sớm. Bà chỉ mới năm mươi bốn tuổi, và không có ai để truyền thừa Pháp. Bà chỉ có năm người đệ tử sống cùng bà trong những năm gần đây. Tôi, năm mươi sáu tuổi, nhưng lại là đệ tử mới nhất của bà, mà lại là nam đệ tử. Tôi ở với một nhóm nhỏ đệ tử người Tây phương chỉ mới được mười năm nay, trong khi người nữ đệ tử trẻ tuổi nhất cũng đã có mười lăm năm theo học với bà. Do vị thế ưu tiên của việc “sống lâu lên lão làng” trong tăng đoàn nhỏ bé của chúng tôi, mà các vị nữ đệ tử trẻ này tha hồ chế ngạo cái đầu không tóc, và việc gia nhập tăng chúng muộn màng của tôi. Tôi không màng điều đó chút nào, vì từ những ngày đầu, tôi đã rất hạnh phúc được thân cận “roshi” của tôi, với lòng tin tưởng rằng sự gần gủi, tiếp xúc hằng ngày với bà có thể giúp tôi đi đến ngưỡng cửa tiếp cận tâm linh, nơi mà bản thể thực sự của tôi cuối cùng sẽ được tõa sáng.

Từ khi bà ra đi, đôi khi tôi cảm thấy như nghe được tiếng nói của bà trong tôi, cắt ngang dòng tư tưởng của tôi khi chúng sắp dẫn dắt tôi đi quá xa hay trở nên suy đoán quá cặn kẻ. Dường như đó là tiếng nói của bà, nói những điều khiến tôi phải ngạc nhiên, nhưng cũng có thể là tôi nhầm lẫn. Roshi của tôi,bà đích thực hiện hữu, và tôi ‘chiêm ngưỡng’ bà như hầu hết mọi người đệ tử thuần thành đối với vị thầy khả kính của mình. Vì thế ‘tiếng nói’, có thể là tiếng nói ‘của bà’ được chuyển qua tôi trở thành một trong những tiếng nói ‘của tôi’.

Tuy nhiên, cảm giác về sự có mặt của bà nơi đây, về một sự hiện hữu bằng xương bằng thịt rõ ràng, cô động đang dần phai nhạt một cách không thể cưỡng lại được. Khi nỗi đau của tôi dần qua đi, tôi dần đánh mất thầy. Mỗi ngày, tôi chiêm nghiệm tâm trạng của mình trước sự mất mát, trống vắng khi chúng dần mất đi cường độ, nét sắc bén. Roshicủa tôi mờ nhạt dần, và dường như tôi cũng tan biến theo bà, đánh mất bản thân, đánh mất mọi tư duy. Tôi phải dựa vào đâu, trong thời gian đau khổ tột cùng này, trên vũng nước tối tăm này? Tôi phải hướng về đâu để tìm lại dấu vết Phật tánh của mình? Tôi phải làm gì bây giờ? Đây là những câu hỏi đớn đau mà người đệ tử phải đối mặt khi đánh mất thầy mình? Khi vị thầy còn hiện tiền, bạn luôn có phương hướng: chỉ cần quanh quẩn cạnh người.Nhưng thầy tôi đã ra đi, trong khi tôi vẫn phải đi tới. Tôi đành làm hồn ma bóng vía bám theo thầy. “Roshiơi, hãy trở về với tôi”, tôi gào khóc.

Tôi biết đó là cái bẫy. Không phải sự than khóc, mà là ước muốn tạo ra một thực tại theo ý mình, để nối lại các mối duyên nghiệp. Tôi khám phá ra rằng trong những ngày này chỉ có ba thứ có thể giúp tôi lưu tâm đến những gì xảy ra quanh tôi: nỗi đau, bốn nữ đệ tử kia và thế giới sống động quanh tôi. Dĩ nhiên cái đau là nỗi mất mát, là cái đau dằn xé tự nhiên hay một nỗi buồn âm ỉ vận hành theo quy luật, thời gian, và không gian của riêng nó. Tôi để nó tuôn trào, trôi lăn theo nó. Quán sát nó. Đôi khi chuyển mình theo nó, đôi khi bất động trên gối thiền nhìn nó. Tôi chiêm nghiệm nỗi muộn phiền của mình: nó bộc lộ với tôi, từng chút một, trong từng tiếng than vãn, trạng thái và mức độ của sự mất mát của tôi. Sự mất mát này như dồn ép thêm vào cảm giác đánh mất bản thân, vì cái chết của roshiđã lấy mất của tôi chỗ dựa cũ, mục đích, phương hướng chân chánh. Nỗi buồn đau cũng khiến tôi trở nên lặng lẽ. Tôi thấy dường như mình không còn thở. Tôi trở nên là giây phút trước khi sự chờ đợi bắt đầu. Tôi dừng lại và dường như đông giá. Lúc ấy, có thể một điều tầm thường gì đó xảy ra, và đem tôi trở về thực tại: một tia sáng xuyên qua cành lá dưới cơn gió bất chợt, một chú mèo ngơ ngác bước vào phòng, một cánh cửa đóng mạnh tay (cửa bị kẹt, và lý ra tôi phải sửa lại, nhưng không thể là lúc này). Tôi chỉ biết một điều: tôi đã bước xuống một dòng nước, mà không thể bước ngược về quá khứ. Tôi đang trôi xuôi theo dòng nước.

Tôi vẫn còn thấy kết nối với bốn người đệ tử của roshi, những người có lẽ còn lạc lõng hơn tôi. Chúng tôi cố gắng đùm bọc lẫn nhau. Nếu họ không nghĩ thì tôi nghĩ mình là “vị roshighẻ” của họ. Và nhiệm vụ của tôi là: “Có mặt ở đó”. Điều đó dễ thôi: Tôi chỉ loanh quanh, làm bổn phận, trao đổi đôi điều. Tôi không phải là vị roshitâm linh của họ, nhưng tôi có thể nấu ăn, trả các khoản nợ, và bảo đảm là tiền cúng dường không bị ăn chặn. Hằng đêm, tôi lo khóa các cửa nẻo. Dễ thôi. Như một người cha.

Nhưng roshilà một bà mẹ, đã sử dụng những phương tiện thiện xảo, khác biệt để sách tấn từng người chúng tôi. Một cách kiên nhẫn, không thúc ép quá thường xuyên hay quá khắt khe. Mở rộng tâm từ bi đối đãi với chúng sanh vô minh, các vị Phật sơ sinh, các vị bồ tát hay tranh cãi, và những giống quỷ đói vô vọng. Đầy lòng dũng cảm, vì phải có dũng cảm mới tạo ra được các vị phật. Giờ tôi đang khốn khổ với bốn vị đệ tử trẻ (dầu tuổi hạ họ hơn tôi và roshiđã huấn luyện họ sống tự lập, dường như bà biết rằng bà sẽ không thể ở với họ lâu). Người thì trầm cảm, hoang mang. Kẻ thì hay khóc. Hai người còn lại thì không chia sẻ gì với tôi về vị thầy, người bạn kính yêu của chúng tôi. Tôi không biết làm một roshicho họ, để bảo bọc họ như một người mẹ –trong khi vị roshicủa chúng tôi thì không có người truyền thừa để chúng tôi có thể nương tựa. Hai vị đệ tử lớn tuổi nhất đã tự bỏ đi –với mục đích tìm kiếm ai đó khác làm thầy.

Roshicủa chúng tôi thích làm vườn và nấu ăn. Buổi sáng bà dành cho việc làm vườn tược, buổi chiều thì nấu ăn. Để có thu nhập cho chùa, tôi làm việc bên ngoài bốn hay năm ngày một tuần. Nhưng roshicủa chúng tôi, theo truyền thống, chỉ ở trong chùa, làm Phật sự, và tiếp tục tu tập hoàn thiện bản thân theo cách riêng của mình. Trong khi tôi làm việc ở bên ngoài đến tận chiều tối, thì bà huấn luyện các đệ tử khác nấu buổi ăn chiều theo phong cách Phật giáo, trước tiên là tập trung vào lời dạy và cách thức, sau đó tiến tới thái độ tâm linh được tìm thấy trong những lời hướng dẫn của Dogen đối với người đầu bếp trong thiền viện, cốt yếu là, “Hãy để hết tâm trí vào công việc diệu kỳ này!” Tôi nghĩ là hai nữ đệ tử lớn tuổi đã thọ lãnh ân sủng cuối cùng của roshi, được bà ấn chứng là ‘những đầu bếp giỏi”. Tôi hơi ganh tỵ với việc họ được xác nhận là những người xứng đáng. Dầu Roshicũng đã cố gắng an ủi tôi bằng cách nói, “Ngươi rất khéo tay, giỏi văn, vân vân”, nhưng tôi biết là tôi chưa hoàn tất hay hoàn thiện bất cứ điều gì, nói chi đến cái ngã của tôi.

Có thể cách nấu ăn của bà là do ảnh hưởng của việc bà đã được huấn luyện trong trà đạo, nhưng phong cách đó cũng thể hiện trong mọi thứ khác trong cuộc sống của bà. Có thể tinh thần trà đạo đã lấn áp mọi thứ hoặc là bà đã đạt đến mức độ vượt thoát khỏi mọi hình thái của trà đạo và các nghệ thuật khác. Tôi nghĩ điều thứ hai có lẽ đúng hơn: hành động của bà dường như phát xuất từ suối nguồn trong trẻo của cảm hứng tự nhiên, và từ chính nguồn Thiền, trong gần như tất cả mọi việc. Thần thái thiền và những bài học thiền nhẹ nhàng của bà hiển lộ qua hành động, hơn là lời nói. Nếu tôi có thể tóm tắt những lời dạy của bà, thì chúng chủ yếu nằm trong ba nguyên tắc dành cho bà và cho chúng tôi. Nguyên tắc thứ nhất, trên tất cả, bà nhắc nhở chúng tôi “cố gắng chánh niệm”. Tỉnh giác và chánh niệm trong từng phút giây. Ở mỗi thời điểm chỉ chú tâm vào một việc. Nguyên tắc thứ hai, “Khi đã quyết định làm điều gì thì hãy cố làm hết sức mình”. Lời dạy này không nhằm khuyến khích ta tranh hơn thua với người, mà là để ta tự tu sửa, hoàn thiện khả năng của mình.

Nguyên tắc thứ ba và là cuối cùng của bà là, “sống thật, sống hòa hợp với bản thân”. Chúng tôi có thể nhận thấy được ‘bản tánh tự nhiên’ và sự tự tại của bà dưới nhiều hình thức. Bà thích mặc y phục thoải mái. Bà rất thích tiếp xúc với trẻ con, chơi đùa với chúng, tặng cho chúng những món quà đặc biệt mà bà luôn có sẵn như là các vỏ ốc biển hay đồ chơi xếp bằng giấy.

Bà đã định cư ở Mỹ rất sớm, từ những năm 1966, do thích sống ở nơi này, vì Nhật Bản khó dung chứa những phụ nữ giống như bà. Nghe nói là Roshicủa chúng tôi, không chịu đảnh lễ, chưa từng thế phát và chưa từng khẳng định bà thuộc hệ phái nào. Bà chẳng tin vào những điều này cũng như chẳng tin nơi cấp bằng. Với sự phán đoán ít khi nào sai lầm về ai, bà không coi trọng cấp bằng, vì bà có thể thấy rõ bản chất thật và cái ngã giả tạo của chúng tôi.

Roshicủa chúng tôi, luôn tụ họp chúng tôi lại lúc 6 giờ để dùng bữa chiều. Không ai được bỏ bữa hay trễ bữa. Bữa ăn bao gồm những món ngon (lại thêm một điều khác biệt nữa với truyền thống của các tự viện) và nhẹ nhàng chú tâm chánh niệm vào những gì mình đang làm để có thể làm đúng một cách tự nhiên. “Chỉ ăn”. Trò chuyện ở bàn ăn không bị cấm, nhưng cũng không được khuyến khích. Các đệ tử còn vụng về (kể cả tôi vào những ngày không may mắn) đôi khi không kiềm chế được sự thôi thúc phải than phiền hay tán đủ thứ chuyện kiểu: “Ai đoán chuyện gì xảy ra hôm nay nào?” Roshisẽ không ngăn cấm điều này, nhưng ít đáp ứng hay chỉ lặng thinh ăn. Đôi khi bà hỏi lại, “Thức ăn có vừa miệng không?” để kéo sự chú tâm của chúng tôi về việc đang làm. Một khi chúng tôi đã chú tâm trở lại, thì thỉnh thoảng bà lại khéo chỉ cho chúng tôi thế nào là ‘ăn uống đúng cách”. Nhiều điều chúng tôi học được ngay trong cách ăn uống của bà. Ngày qua ngày, hàng ngàn bài học đã được diễn ra trước mắt chúng tôi: với chủ tâm, một cách lặng lẽ (chúng tôi dùng đũa, nên không ồn ào như muỗng nĩa bao giờ), êm đềm, đều đều.

Theo tôi nhận xét, bà hoàn toàn chánh niệm ở bàn ăn, thưởng thức các món ăn với sự trân trọng, chăm chú (mà) tôi chưa từng thấy ở nơi nào khác. Tuy nhiên, bà cũng không bỏ sót bất cứ hành vi gì của chúng tôi. Sự hoàn toàn tỉnh thức này là một điều cực kỳ huyền bí đối với tôi. Sau nhiều năm hành thiền, tôi cũng có khả năng tập trung vào một đối tượng với chút gì đó ổn định, nhưng không thể đồng thời có được trạng thái cởi mở, uyển chuyển, bao quát như thế. Dĩ nhiên, bà cũng biết sự thiếu sót này của tôi, và tôi nghĩ là do sự thiếu ‘tỉnh thức rốt ráo’ đó mà tôi là đệ tử duy nhất bị cho là chưa sẵn sàng để học nấu ăn với Roshi. Trái lại, bà chăm chú vào thói quen ăn uống của tôi, coi đó là phạm trù để bà dựa vào đó giảng giải cho tôi về giáo Pháp, về sự tỉnh thức, về chân lý.

Một buổi chiều kia, trong trạng thái hưng phấn, tôi vừa ăn, vừa uống vội vã, vừa nói về một điều gì đó, tôi cũng không nhớ, vừa không ngớt gắp thức ăn đầy trong chén. Những hành động này thật khó chấp nhận đối với roshicủa chúng tôi, người thường cho phép chúng tôi trò chuyện chút đỉnh, tự bới cơm thêm, hay ngay cả tranh luận, nhốn nháo đôi chút trong khi ăn. Khi tôi với tay phải đang cầm đũa qua bàn ăn đến chỗ tô đựng bông cải xanh, tay trái thì cầm ly nước giơ lên định uống. Hai tay đang ở hai tư thế cầm nắm khác nhau như vậy mà tôi dừng lại để nói điều gì đó với một người đệ tử khác, thì “Chát!”- Roshi quật đũa vào tay phải của tôi, và la, “Đừng làm thế!” Tôi chết lặng vì bà chưa bao giờ la tôi như thế. Tôi có cảm giác như mình vừa rơi xuống hố, một cái hố thẳm băng giá còn hơn nước đá. Các cơ khớp tôi đông cứng lại vì sợ. Tôi không nói được lời nào để biện giải cho mình. Chú bé trong tôi dường như đang muốn đứng dậy để ngoan cố phản đối sự sửa sai của bà mẹ –nhưng chỉ hoài công. Đây không phải là mẹ tôi, mà là vị thầy khôn ngoan và từ bi của tôi –đang bắt tôi tại trận trong một thứ tội không tên, trước mắt cả thế giới.

Roshi khiến tôi chết lặng: Tôi không nói được lời nào, cái đánh của bà đã làm đông cứng cả thân và tâm tôi. Nhận ra được tâm trạng của tôi, bà không nỡ hành hạ tâm tôi, nên dịu giọng nói: “Mỗi lúc chỉ làm một việc. Đừng vừa gắp thức ăn, vừa uống, và nói cùng một lúc”.

Bao bài học tuôn ra từ những lời khuyên tầm thường đó. “Đừng có dùng đũa với qua bàn ăn để gắp mấy miếng bông cải như thế. Trước hết, đem dĩa bông cải lại gần mình, rồi mới dùng đũa gắp. Phải chú tâm vào những việc mình làm! Đừng phân tâm vào quá nhiều thứ, vì ta sẽ không làm tốt chúng, hóa ra coi thường chúng”. Rồi bà ‘trình diễn’ cách làm thế nào để làm những điều này đúng, nhanh chóng, nhẹ nhàng, cẩn trọng và chính xác.

Tôi nín thở, quán sát bà, khi bà vừa chấm dứt những cử động chỉ vừa đủ và những lời khuyên răn, tôi cảm thấy ngập tràn xấu hổ. Choáng váng. Trong nỗi tủi nhục lớn lao có một góc, một góc nhỏ, của sự trân tráo. Từ góc nhỏ đó tôi có thể nhận ra mình thật may mắn có được một vị thầy như thế, dầu hơi thở tôi nghẹn lại trong cơn giông bão của sự hối hận, tiếc nuối. “Tôi biết ông có thể làm tốt hơn thế mà”, bà nói khi quay qua một vị nữ đệ tử khác và đổi đề tài câu chuyện.

Hồi tưởng lại bữa ăn đó, cái đánh, bài học, sự xấu hổ, tôi muốn phủi tay, bất cần và nói, “Đó chỉ là cách hành xử của người Nhật”. Nhưng không làm được. Rõ ràng nhìn lại lúc đó, tôi thấy mình còn con đường dài phải đi: tôi còn chưa làm chủ bản thân –sự chú tâm còn mơ hồ, sự thể hiện cẩu thả, và tâm tham vẫn còn tràn đầy.

Diệu Liên Lý Thu Linh

11/2010

(Lược dịch từ My Dharma Teacher Died Too Soon, NXB Wisdom Publications, 2000)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/09/2015(Xem: 11737)
Điện Thư Phân Ưu Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Tu Viện Quảng Đức Vừa nhận được tin buồn Phu Quân Đạo Hữu Châu Ngọc Lê Hoa Nhụy, là: Bác Sĩ NGUYỄN LÊ ĐỨC, pháp danh: MINH QUANG Hội Trưởng Hội Phật Giáo Đông Bắc Florida, Chùa Hải Đức. Sinh năm Đinh Hợi (1947) tại Hà Nam, Bắc Việt Vãng sanh lúc 11.37am ngày 21-9-2015 tại Jacksonville, tiểu bang Florida, Hoa Kỳ Hưởng thọ: 69 tuổi Bác Sĩ Minh Quang Nguyễn Lê Đức là một nhà Phật học lỗi lạc, viết lách, nghiên cứu, thuyết giảng hàng tuần cũng như đích thân tu trì Phật Pháp, đặc biệt Bác sĩ là vị lãnh đạo tinh thần tại Chùa Hải Đức trong ba mươi năm qua, người đã có công tạo dựng và duy trì ngôi Tam Bảo Hải Đức đến ngày hôm nay. Sự ra đi vĩnh viễn của Bác Sĩ Minh Quang là một mất mát lớn lao cho Phật tử thuộc Chùa Hải Đức, Florida; mong rằng Đạo hữu Châu Ngọc cùng quý Phật tử Chùa Hải Đức cố gắng vượt qua sự đau buồn này và tiếp tục gánh vác Phật sự cũng như gìn giữ gia tài Pháp Bảo mà Bác Sĩ Minh Quang đã dày công gây dựn
11/09/2015(Xem: 5216)
Tổ Phước Tường , húy thượng Thanh hạ Chánh, tự Quảng Đạt hiệu Phước Tường, thuộc dòng Lâm Tế Liễu Quán, đời thứ 41. Ngài sinh ngày rằm, tháng 5 năm Đinh Mão (1867) vào đời vua Tự Đức năm thứ 20, tại tỉnh Phú Yên. Tổ xuất thân là một nhà Nho từng dự thi Hương tại Bình Định. Năm Ất Dậu (1885), ngài cùng với tầng lớp thanh niên nho sĩ tích cực hưởng ứng phong trào Cần vương. Sau đó, ngài xuất gia với Tổ Hải Nhiểu -Thiên Ân tại chùa Khánh Long (Phú Yên). Ở đây một thời gian, ngài được bổn sư gởi đến tham học với các bậc thiền sư thạc đức đương thời ở Phú Yên như Tổ Pháp Hỷ (chùa Từ Quang), Tổ Trí Hải (chùa Thiên Thai Sơn Thạch).
08/09/2015(Xem: 35133)
Sister Chan Khong, Thich Nhat Hanh’s closest collaborator, told Lion’s Roar this morning that the 88-year-old Vietnamese Zen master is in hospital. Given his age, many of Thich Nhat Hanh’s friends and followers are concerned for his wellbeing, though details about his condition have yet to be shared.
08/09/2015(Xem: 6174)
Đây không phải chỉ là một sự tán dương ca ngợi, mà còn là những điều trân quý, người đời sau cần giữ gìn truyền tụng, nếu chúng ta hiểu rõ nghĩa của những chữ “ẩm thủy tư nguyên”là gì. Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây v.v… vốn là những câu tục ngữ mà người Việt chúng ta vẫn hay nhắc nhở đến hằng ngày, thì không có lý do gì để chúng ta quên ơn của những người đi trước đã dày công gầy dựng lên. Các nhà Bác Học như Albert Einstein có thuyết tương đối, Văn Hào Victor Hugo, định đề Eclik, định lý Archimet v.v… tất cả đều được mọi người biết đến và về sau nầy có những công trình được cầu chứng tại tòa án để không ai có thể phát hiện trùng lặp với tên tuổi của mình đã sáng chế. Thế nhưng cũng có nhiều công trình thế kỷ thuộc diện tâm linh, phi vật thể, thì chưa ai nghĩ đến điều nầy cả. Điều nầy cũng giống như bản quyền của một tác phẩm được độc quyền xử dụng, phát hành khi đã có khai báo với tòa án. Ở đây tôi muốn nhắc đến những công trình thế kỷ về sau, mà cố Hòa Thượng Thích Min
26/08/2015(Xem: 6829)
Ngày 16 tháng 5 vừa qua một trong số các nhà sư Phật giáo nổi tiếng nhất của Thái Lan, và cũng là một trong số các vị Thầy cuối cùng và khác thường của truyền thống "Tu Trong Rừng", là Luang Poh Koon vừa viên tịch. Luang Poh Koon thường được biểu trưng bởi hình ảnh một nhà sư ngồi chồm hổm tay cầm điếu thuốc lá, nhằm nhắc lại giây phút thật bất ngờ và đột ngột khi ông đạt được giác ngộ.
19/08/2015(Xem: 14685)
CÁO PHÓ TANG LỄ Hòa Thượng Thích Viên Diệu Nam mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật Môn đồ tứ chúng chúng con cung kính báo tin Thầy của chúng con là: Hòa Thượng Thích Viên Diệu. - Khai sáng chùa Thuyền Tôn - Montreal - Quebec và Tổ Đình Thuyền Tôn Hải Ngoại tại thành phố Cornwall, tỉnh bang Ontario, Canada. - Tổng Vụ Trưởng Vụ Cư Sĩ GHPGVNTN Hải Ngoại tại Canada. Đã thuận thế vô thường, thâu thần viên tịch vào lúc 22 giờ ngày 18 tháng 08 năm 2015 ( nhằm ngày 05/07/ Ất mùi) tại chùa Thuyền Tôn , Montreal. Trụ thế : 62 tuổi và 40 giới lạp. Lễ nhập quan sẽ được cử hành vào lúc 14 giờ ngày 25 tháng 08 năm 2015 (nhằm ngày 12/07/Ất mùi) tại nhà quàn LE REPOS SAINT FRANCOIS D”ASSISE và lễ cung nghinh Kim Quan an trí tại chùa Thuyền Tôn – Montreal vào lúc 17 giờ cùng ngày. Lễ viếng bắt đầu từ ngày 26 tháng 08 đến ngày 30 tháng 08 năm 2015. Lễ Di Quan được cử hành lúc 9 giờ sang ngày 31tháng 08 năm 2015. Kim Quan sẽ được nhập Bảo tháp tại khuôn viên Tổ Đình Thuyền T
01/08/2015(Xem: 6265)
Chúc Mừng Hoà thượng Thích Minh Dung
22/07/2015(Xem: 7689)
Hòa thượng họ Đỗ, huý Châu Lân, sinh năm 1927 (Đinh Mão) tại thôn Quan Quang, xã Nhơn Khánh, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là cụ ông Đỗ Hoạch, và thân mẫu là cụ bà Trần Thị Tú. Gia đình gồm năm người con, hai trai và ba gái; Hòa thượng Thích Đỗng Quán thứ ba, và Ngài là thứ tư. Gia đình Ngài đời đời thuần tín Tam bảo. Cha mất sớm, được mẹ chăm lo dạy dỗ. Với bẩm tánh thông minh và hiếu học, năm 11 tuổi Ngài thi đậu bằng Yếu lược. Việc này chưa xảy ra ở vùng quê của Ngài nên đích thân ông Lý trưởng đến thăm và chúc mừng. Đó là một vinh dự cho gia đình và quê hương Ngài lúc bấy giờ.
14/07/2015(Xem: 16654)
Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư (Ngày Về Nguồn 8) sẽ được tổ chức tại chùa Pháp Bảo – Sydney, Úc Châu vào cuối tháng 9 năm 2014. Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư (Ngày Về Nguồn 9) năm 2015 dự định sẽ được tổ chức tại chùa Khánh Anh - Evry, Pháp Quốc nhân lễ Khánh Thành chùa cũng như lễ Đại Tường của cố Hòa Thượng Thích Minh Tâm. Trong dịp này, chư Tăng Ni sẽ hội luận vào ngày thứ bảy 15.08.2015 như chương trình gửi kèm theo đây. Chư Tôn Đức cũng như quý Phật tử nào không tham dự được suốt chương trình các ngày Lễ thì xin mời chọn những ngày thích hợp để đến với Tăng đoàn nhằm nói lên tinh thần cộng trụ trong sinh hoạt Phật sự tại hải ngoại ngày nay. Kính mong chư Tôn Đức và quý vị Phật tử hồi báo cho Ban Tổ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567