Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Khánh Hòa: Lễ Húy kỵ lần thứ 83 Tổ Phước Tường (1867-1932)

11/09/201500:47(Xem: 5209)
Khánh Hòa: Lễ Húy kỵ lần thứ 83 Tổ Phước Tường (1867-1932)

Le huy nhat To Phuoc Tuong (1)

Khánh Hòa: Lễ Húy kỵ lần thứ 83 Tổ Phước Tường (1867-1932)

Sáng nay, 10-9 (nhằm ngày 28-7-Ất Mùi) tại tổ đình Thiên Bửu (Ninh Hòa), chùa Thanh Hải (Cam Ranh), chùa Linh Quang (Nha Trang)… chư tôn đức môn phong tổ đình Thiên Bửu (thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa) đã thành kính trang nghiêm tổ chức lễ húy kỵ lần thứ 83 Tổ Phước Tường - bổn sư của Bồ-tát Thích Quảng Đức, bậc cao tăng thạc đức, Tổ khai sơn nhiều chùa tại Khánh Hòa.

Tổ Phước Tường , húy thượng Thanh hạ Chánh, tự Quảng Đạt hiệu Phước Tường, thuộc dòng Lâm Tế Liễu Quán, đời thứ 41. Ngài sinh ngày rằm, tháng 5 năm Đinh Mão (1867) vào đời vua Tự Đức năm thứ 20, tại tỉnh Phú Yên. Tổ xuất thân là một nhà Nho từng dự thi Hương tại Bình Định.

Năm Ất Dậu (1885), ngài cùng với tầng lớp thanh niên nho sĩ tích cực hưởng ứng phong trào Cần vương. Sau đó, ngài xuất gia với Tổ Hải Nhiểu -Thiên Ân tại chùa Khánh Long (Phú Yên). Ở đây một thời gian, ngài được bổn sư gởi đến tham học với các bậc thiền sư thạc đức đương thời ở Phú Yên như Tổ Pháp Hỷ (chùa Từ Quang), Tổ Trí Hải (chùa Thiên Thai Sơn Thạch).

Trong thời gian Tổ Thiên Ân khai sáng chùa Khánh Long (Trà Long, Ba Ngòi), ngài theo Tổ hành đạo tại Cam Ranh. Sau khi chính thức thừa kế trú trì chùa Khánh Long (Ba Ngòi) thay cho Tổ Thiên Ân, ngài còn khai sáng chùa Phước Long trên bản đảo Cam Ranh hướng dẫn tín đồ làng chài tu học.

Năm Canh Tuất (1910), ngài được cung thỉnh làm Yết Ma A-Xã-lê cho đại giới đàn Tổ đình Trùng Khánh (Ninh Thuận), do Hòa thượng Thích Chơn Niệm làm Đường Đầu truyền giới.

Năm Quý Sửu (1913), ngài mở trường kỳ truyền trao giới pháp tại chùa Kim Long (Phú Hòa, Ninh Hòa).

Năm Đinh Tỵ (1917) ngài được hào lão làng Phương Sài cung thỉnh về trú trì cùa Sắc tứ Hội Phước (Nha Trang)

Đến năm 1920, ngài giao chùa Hội Phước cho đệ tử là HT.Thích Nhơn Hiền kế thừa. Ngài về trú trì tổ đình Thiên Bửu (Điềm Tịnh) Ninh Hòa. Tại đây nhờ phước duyên của chốn Tổ lâu đời cộng với uy tín, tài đức của ngài đã đem lại thời kỳ thạnh mậu cho tổ đình.

Cuối năm 1921, Tổ Phước Tường cử Thầy Trừng Tương- Nhơn Sanh làm giám tự chùa Phụng Sơn, liền sau đó ngôi tam bảo Phụng Sơn được kiến tạo. Hai Thầy trò Tổ khai sơn đã lao động tự mình dở miếu, xây chùa. Sau 3 tháng xây dựng, chùa được Tổ an danh là Phụng Sơn.

Cuối năm sau 1922, HT. Thích Nhơn Sanh được tổ khai sơn cử chính thức trú trì chùa Phụng Sơn.

Hàng môn đồ đệ tử xuất gia có gần 50 vị và có nhiều công đức đóng góp cho Phật giáo đầu thế kỷ thứ XX như: HT.Thích Nhơn Tri, tức Bồ-tát Quảng Đức, vị pháp thiêu bảo tồn Phật giáo miền Nam năm 1963; HT.Thích Nhơn Sanh, trưởng tử, cùng Tổ Phước Tường khai sơn chùa Phụng Sơn (Ninh Hòa); HT.Thích Nhơn Sơn, khai sơn chùa Thiền Sơn (Trường Lộc), tu núi, nhập thất, tự thiêu thân năm 1938; HT.Thích Nhơn Nguyện, khai sơn chùa Linh Quang (Diên Khánh), nhập thất, ăn rau, tự thiêu thân năm 1927; HT.Thích Nhơn Duệ, khai sơn chùa Thiên Quang (Diên Khánh), nhập thất rồi thiêu thân năm 1944; HT.Thích Nhơn Thứ, khai sơn tổ đình Sắc tứ Linh Quang, có công đức đem Phật giáo truyền lên vùng cao Đà Lạt sớm nhất; HT.Thích Nhơn Hưng, khai sơn chùa Thanh Sơn, chùa Hòa Vân, chùa Hòa Thành, chùa Khánh  Phước, chùa Thanh Hải… (Cam Ranh); HT.Thích Nhơn Trực, khai sơn chùa Từ Vân (Nha Trang), gia trì chẩn tế, vị Tổ đoàn lục cúng hoa đăng (Ninh Hòa); HT.Thích Nhơn Bảo, tức HT.Vĩnh Thọ, khai sơn chùa Pháp Bửu Đường (Bình Tuy), trú trì tổ đình Tà Cú, sáng lập cảnh Tịnh độ nhân gian và tượng Phật nhập Niết-bàn tại núi Tà Cú lớn nhất Đông Nam Á; HT.Thích Nhơn Hoằng, khai sơn chùa Hang, Hòn Hèo, viên tịch năm 1947...

Ngoài ra, còn có gần 50 đệ tử xuất gia hành đạo tại Khánh Hỏa và các tỉnh trong đầu thế kỷ XX. Vì thế cho nên, thời đó, mọi người thường truyền tụng bài kệ nói về nơi chư vị đệ tử của Tổ hành đạo: “Me - Thiên Bảo, Gạo - Khánh Long, Thông - Nhơn Thứ, Sứ -Nhơn Hưng, Vừng - Nhơn Nguyện, Kiến - Nhơn Hoằng…”

Tổ có quan niệm tiến bộ giữa đạo và đời, xem lao động sản xuất và sự tu hành của người tu sĩ là một, thể hiện tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam.

Sau hơn nửa thế kỷ hoằng dương chánh pháp, Tổ Phước Tường đã an tường viên tịch vào ngày 28-7-Nhâm Thân, niên hiệu Bảo Đại thứ bảy, tức ngày 19-8-1932, trụ thế 66 năm. Bảo tháp Tổ Phước Tường 5 tầng tôn trí bên cạnh cổ tháp Tổ Bửu Dương, là ngôi tháp to và cao nhất trong khu vườn tháp tại tổ đình Thiên Bửu (Điềm Tịnh, Ninh Phụng, Ninh Hòa).   Lễ húy kỵ lần thứ 81 Tổ Phước Tường thực hiện theo nghi lễ truyền thống, nguyện cầu quốc thái dân an, thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc, cầu âm siêu dương thái…

Đệ tử chúng con Thành kính  đảnh lễ tưởng niệm húy kỵ lần thứ 83 Tổ Phước Tường 28-7-Nhâm Thìn/1932 – 28-7-Ất Mùi/2015)


Trí Bửu 

Le huy nhat To Phuoc Tuong (11)Le huy nhat To Phuoc Tuong (10)Le huy nhat To Phuoc Tuong (9)Le huy nhat To Phuoc Tuong (8)Le huy nhat To Phuoc Tuong (7)Le huy nhat To Phuoc Tuong (6)Le huy nhat To Phuoc Tuong (5)Le huy nhat To Phuoc Tuong (4)Le huy nhat To Phuoc Tuong (3)Le huy nhat To Phuoc Tuong (2)Le huy nhat To Phuoc Tuong (1)



 

Ý kiến bạn đọc
13/09/201512:23
Khách
Mô Phật, con xin sám hối Thầy, Thầy hoan hỷ sửa lppõ chính tả giúp con: Lễ Húy kỵ ( lỗi- hỵ) . Kính chúc Thầy vô lượng an lạc.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2011(Xem: 7212)
Ngài họ Nguyễn húy là Hữu Kê, dòng họ của Đại thần Nguyễn Trãi. Nguyên quán thuộc Tông sơn Gia miêu Ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa. Ngài thọ sanh năm Nhâm Tý (1912), tại làng Nguyệt Biều, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Vốn thọ sanh trong gia đình vọng tộc, quý phái, thích lý luận Nguyễn Hữu Độ.
24/06/2011(Xem: 4229)
Ngài Mật Thể, pháp danh Tâm Nhất, pháp tự Mật Thể, tên thật là Nguyễn Hữu Kê, sinh năm 1912 ở làng Nguyệt Biều, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Chánh quán huyện Tống Sơn, Gia Miêu ngoại trang, tỉnh Thanh Hóa, thuộc dòng Thích Lý của Cụ Nguyễn Hữu Độ. Gia đình Ngài qui hướng đạo Phật, cụ thân sinh và người anh ruột đều xuất gia.
23/06/2011(Xem: 4867)
Đọc Thánh Đăng Ngữ Lục, do Sa môn Tánh Quảng, Thích Điều Điều đề tựa trùng khắc, tái bản năm 1750, ta thấy đời Trần có năm nhà vua ngoài việc chăn dân, họ còn học Phật, tu tập và đạt được yếu chỉ của thiền, như vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông và Trần Minh Tông. Và sự chứng ngộ của các Thiền sư đời Trần thì không thấy đề cập ở sách ấy, hoặc có đề cập ở những tư liệu khác mà hiện nay ta chưa phát hiện được, hoặc phát hiện thì cũng phải tra cứu và luận chứng dài dòng rồi mới kết đoán ra được.
23/06/2011(Xem: 5637)
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, hẳn chúng ta đều biết nước mình có một ông vua đi tu ngộ đạo, đó là vua Trần Nhân Tông. Ngài làm vua trong thời gian nước nhà đang bị quân Mông Cổ đem đại quân sang xâm lấn nước ta lần thứ ba.
22/06/2011(Xem: 6235)
Trong sáu thập niên qua, TIME đã không ngừng ghi chép lại những vinh quang cùng khổ nhọc của Á châu. Trong số đặc biệt kỷ niệm thường niên hôm nay, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình đến những nhân vật nổi bật đã góp phần vào việc hình thành nên thời đại chúng ta. Những thập niên xáo động nhất của một lục địa đông dân nhất trên trái đất này đã sản sinh ra hàng loạt những nhân vật kiệt xuất. Trong sáu mươi năm qua, kể từ khi TIME bắt đầu cho xuất bản ấn bản Á Châu, chúng tôi đã có cái đặc ân là được gặp gỡ đa số những nhân vật ngoại hạng này –theo dấu cuộc vận động hay trên chiến trường, trong phòng hội hay trong phòng thí nghiệm, tại cơ sở sản xuất hay tại phim trường.
16/06/2011(Xem: 3858)
Tôi có duyên lành gặp được ngài một lần khi ngài đến thăm Hòa thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa thượng Quảng Thạc, một để tử xuất gia của ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, ngài cùng Hòa thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời : “Mục đích tu hành không phải để làm chính trị”. Cũng câu nói này, khi chia tay chư tăng miền Nam, ngài đã phát biểu với hàng pháp lữ Tăng ni đưa tiễn. Khi sưu tập tư liệu về cuộc đời của ngài, tôi may mắn gặp được các bậc tri thức cao đồ của ngài kể lại. Nay, nhân có cuộc hội thảo về phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc và công hạnh của ngài, tôi xin được góp thêm đôi điều.
14/06/2011(Xem: 5302)
Thiền sư PHÁP THUẬN (Bính Tý 918): Thiền sư đời Tiền Lê, thuộc dòng thiền Tỳ-Ni-Đa-Lưu Chi, không rõ gốc gác quê quán và tên thật, chỉ biết rằng Sư họ Đỗ, xuất gia từ thuở nhỏ ở chùa Cổ Sơn (Thanh Hóa), sau theo học đạo Thiền sư Phù Trì ở chùa Long Thọ, nổi tiếng là uyên thâm đức độ. Tương truyền rằng chính Sư đã dùng nghệ thuật phù sấm, làm cố vấn giúp vua Lê Đại Hành nắm quyền bính, dẹp yên được hỗn loạn trong triều cuối đời nhà Đinh, được vua Lê vô cùng trọng vọng. Năm 990 niên hiệu Hưng Thống thứ 2, Sư không bệnh mà viên tịch, thọ 76 tuổi, để lại cho đời các tác phẩm: “Bồ Tát sám hối văn”, “Thơ tiếp Lý Giác”, và một bài kệ.
14/06/2011(Xem: 5350)
• Thiền sư Chân Không(Bính Tuất -1046): Sư họVương, thế danh Hải Thiềm, quê quán ở làng Phù Đổng (nay là Tiên Sơn-Bắc Ninh), xuất thân trong một gia đình quý tộc. Lúc thân mẫu của ông mang thai, cha ông nằm mộng thấy một vị tăng Ấn Độ trao cho cây tích trượng, sau đó thì ông ra đời. Mồ côi cha mẹ từ thuở niên thiếu, ông siêng chăm đọc sách không màng đến những chuyện vui chơi. Năm 20 tuổi ông xuất gia, rồi đi ngao du khắp nơi để tìm nơi tu học Phật Pháp. Nhân duyên đưa đẩy cho Sư đến chùa Tĩnh Lự ở núi Đông Cứu (Gia Lương-Hà Bắc), nghe Thiền sư Thảo Nhất giảng kinh Pháp Hoa mà ngộ đạo, được nhận làm đệ tử, sớm tối tham cứu thiền học, và được sư thầy truyền tâm ấn, thuộc dòng thiền Tì-ni-đa Lưu -chi, thế hệ thứ 16. Sau, Sư lên núi Phả Lại, trại Phù Lan (nay thuộc huyện Mỹ Văn-Hưng Yên) làm trụ trì chùa Chúc Thánh, ở suốt 20 năm không xuống núi để chuyên trì giới luật, tiếng thơm đồn xa đến cả tai vua.
13/06/2011(Xem: 13017)
Ôi, trong giáo pháp Phật đà của ta, việc trọng đại nhất là gì ? Con người sinh ra không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người nằm non ở tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật là hy hữu.
05/06/2011(Xem: 11594)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567