Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đôi nét về Thầy Trụ Trì

05/06/201319:04(Xem: 14078)
Đôi nét về Thầy Trụ Trì

Kỷ Yếu
Kính Mừng Chu Niên
Hai Mươi Năm (1990-2010)
Thành Lập Tu Viện Quảng Đức

flowerba


06.tttamphuong-2

Đôi nét về Thầy Trụ Trì

Tôi vẫn thích thú và nhớ mãi cái thuở mới chân ướt chân ráo vào Chùa sinh hoạt, nhận lãnh công việc “gõ đầu trẻ” cho đám học sinh trường Việt ngữ Bồ Đề của Tu Viện Quảng Đức do Thầy Tâm Phương thành lập. Để rồi từ đó, tôi đã trở thành một người đệ tử, một người con, người cháu, người chị, người em trong mái ấm đại gia đình Quảng Đức. Và rồi ngày theo ngày, tháng theo tháng nối tiếp nhau tôi lần lượt phát hiện ra những nét son, điểm xuyến về chân dung của Thầy Trụ trì Tu viện Quảng Đức mà ít ai tiếp xúc và nhìn qua Thầy mà có thể thấu được!

Nói không ngoa chút mô hết, ngày tôi đưa em tôi cùng vào Chùa làm công quả, tôi đoán chắc Thầy lúc nớ trong bụng cũng mừng thầm vì nghĩ mấy đứa ni do Cô Huệ Khiết dẫn vô Chùa và là “mấy O xứ Huế” thế nào công dung ngôn hạnh không giỏi lắm thì ít nhiều chi cũng đối đối! Ai dè thiệt tội cho Thầy, ngoài việc phát hiện ra mấy đứa hắn không biết mô tê chi hết chỉ trừ việc dạy học mà Thầy còn cứ phải thường nhẹ nhàng nhắc nhở (bị vì nếu nặng nề nhắc nhở mà căn cơ mấy đứa hắn còn thấp rồi mấy đứa hắn bỏ trốn thì làm răng), uốn nắn chúng tôi y chang mấy Mệ xưa rứa đó: “Con, đừng chạy con, đi từ từ thôi coi chừng té”, “Nói nhỏ nhỏ thôi con, lớn tiếng quá”, “Làm nhè nhẹ thôi” và … Thầy áp dụng đúng nghĩa “dạy đệ tử từ thuở mới vô sân Chùa”! Đến nổi đứa con gái đầu lòng của tôi sau khi làm việc với Thầy cũng bảo rằng “Mẹ ơi Thầy Tâm Phương thích cái gì cũng từ từ và nhẹ nhàng hết đó Mẹ”. Tôi phải cười tán đồng trước mặt con tôi nhưng trong bụng thì ấm ức không kém vì Thầy quên đi ở cái xứ sở ni thì giờ đúng nghĩa là tiền bạc cho nên mọi người cứ hễ buông cây chầm là cầm cây chèo liền, làm chi cũng phải ba chân bốn cẳng mới kịp việc chứ mà cứ “Dung” theo kiểu mấy người xưa thì chỉ có dung dăng dung dẻ thôi chứ làm răng mà theo công kịp việc với người ta đây phải không bạch Thầy?

Thầy làm tôi nhớ đến Thầy Bổn sư tôi khi không hài lòng lúc chúng tôi thỉnh cầu chi thì Thầy hơi chau mày và cứ: “răng???” hay “rứa à???” nhưng giọng Thầy tôi lên xuống, luyến láy hết 3, 4 nốt nhạc mới xong từ ngữ ấy. Những lúc như rứa là tự tụi tôi phải tự động hiểu ý Thầy mình rồi lo mà xì-tốp đài phát thanh thao thao bất tuyệt và ý định đó đi. Đằng ni khi tôi mới vào Chùa một bữa nọ, Thầy dạy tôi làm điều chi đó nhưng tôi có ý kiến khác thì Thầy chỉ trả lời gọn lỏn “tùy ý con” nhưng với sắc mặt thật bình thường, giọng nói cũng chẳng đổi tông làm tôi đây cứ ngỡ là Thầy bằng lòng rồi và cứ rứa mà vô tư làm theo ý mình nhưng có ai ngờ sau ni mới được các Dì, các Chị cho hay Thầy đã không bằng lòng và “hờn mát” rồi đó! Mô Phật khi nớ tôi mới té ngữa, thì ra là rứa, hèn chi thấy Thầy không vui…… Sau lần nớ tôi đã rút kinh nghiệm nên luôn quan sát Thầy một cách cẩn thận từ giọng nói, điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt…. nói chung là tôi tập trung cao độ để đoán biết là Thầy có hài lòng hay không? Và tôi hay nói đùa với mọi người là khi vào Chùa công quả lâu năm tự nhiên ai cũng trở thành người đa tài “đa nghề” lúc mô không hay hết. Này hí, trước hết là phải trở thành một “nhà tâm lý học” bị vì phải nghiên cứu để hiểu ý Thầy mà làm cho đúng; phải là nhà “chiêm tinh gia” bị vì phải đoán trước coi Thầy sắp lên kế hoạch chi cho những buổi lễ sắp tới mà có sự chuẩn bị; “nhà nội trợ”, “nhà văn”, “nhà thơ”, “nhà xây dựng”, ……… thậm chí cả “nhà lao công” nữa đó, bị vì nhìn thấy Thầy, với sức khỏe không tốt mà lại hom hem đi rửa từng toilet, buồng tắm ….. trong Chùa mà là chúng đệ tử thì làm răng đành đoạn không nghêu ngao cùng Thầy hát bài “người tu quét chùa, dọn dẹp khắp nơi” đây! Và cứ rứa, cứ rứa mà tự mỗi Phật tử trong Chùa khi làm việc cùng Thầy từ từ được hoàn thiện ngày mỗi ngày theo thời gian…..

Nói thiệt, dân xứ Huế tôi có một chứng bệnh là đa phần đều hay nhập đề theo kiểu vòng vo, quanh co khúc khuỷu như địa hình xứ sở ấy rứa, đưa người nghe đi tham quan sông Hương núi Ngự, cầu Tràng Tiền…. cho đã rồi mới vô trực tiếp vấn đề nhưng khi vào Chùa Quảng Đức tôi lại thú vị khi phát hiện thì ra Thầy Trụ Trì cũng y chang rứa nghe. Có lẽ Thầy ngại ngùng vì chúng tôi còn lạ nước lạ cái nên khi mô Thầy cũng cho tụi tôi đi lòng vòng chóng cả mặt, tối tăm mặt mũi khi nớ Thầy mới nói tới phần trọng tâm của vấn đề và cứ mỗi lần như rứa là tụi tôi chỉ bấm bụng cười thầm mà chuẩn bị tinh thần vì không biết ngày ni Thầy sẽ ban cho việc làm mới chi đây hay được nhận một vài lời đạo từ “bị rầy” hoặc “góp ý” vấn đề chi đó không biết nữa??? Mãi về sau, khi Thầy trò thân tình rồi Thầy mới thôi.

Nhưng đặc biệt nhất là có mấy ai lên Chùa làm Công quả mà “bị đuổi” về chưa hè? Thường tình thì Thầy trụ trì mô cũng mong mỏi chúng Phật tử ở lại Chùa phụ thêm cho ra việc rứa mà chị em tôi đây chứng kiến rõ ràng “nói có sách mách có chứng” à nghe là bị Thầy “mời về” thường xuyên. Ngày mô mà Chị em tôi lên Chùa tới trưa về thì thôi chứ hôm mô mà ở lại phụ cuốn chả giò với Dì Bảy, Chị Kim và mấy Dì, Chị khác, hay phụ Cô Hạnh Nguyên, Chị Thanh Phi nấu nướng…… thì cứ như mình đã set alarm sẵn rứa đó, tới khoảng 3-4 giờ chiều thì bóng Thầy xuất hiện và kèm theo câu: “Thôi về, về được rồi” hay “QH-QT tới giờ về rồi, về lo cơm nước, lo con cái…..” thế là ai cũng cười vì tụi tôi được Thầy chiếu cố mời về sớm nhất. Thật ra vì Thầy coi chúng tôi như con cháu trong gia đình, lo tụi tôi cứ ham ngồi đó mê mải bòn phước cho đủ sở hụi, mà đợi bòn cho đủ thì có nước đám con nheo nhóc ở nhà bị “treo bao tử” thôi. Tụi tôi có thưa, tụi con lo hết ở nhà rồi mới lên Chùa mà Thầy làm như cứ bán tín bán nghi hay răng cho đến mãi sau ni Thầy có dịp đến nhà chúng tôi thăm, tận mắt nhìn thấy nề nếp sinh hoạt trong gia đình rồi khi nớ mới yên tâm để yên cho chị em tôi làm công quả. Tôi kể chuyện “khó tin nhưng có thiệt ” ni cho Chồng, con tôi nghe khiến cả nhà ai cũng cười!

Điều mà Thầy vẫn làm cho tôi thật cảm động là luôn luôn mang trong mình một suy nghĩ “tự ti” cứ cho rằng mình thuyết pháp không hay, không giỏi như những vị khác và rất ngại ngùng giảng Pháp nhiều trước Phật tử nhưng Thầy mô có biết rằng có những lúc chúng ta nghe cả một buổi pháp nhiều tiếng đồng hồ để rồi chẳng vun đắp thêm cho bản thân một chút tư lương chi trong hành trang tu học của mình cả. Trái lại, Thầy giảng rất ít ỏi, vài ba chữ, dăm ba câu nhưng lời ý của Thầy thật thâm thúy, sâu sắc mà đã bao lần khiến tôi đây chột dạ, hổ thẹn với lòng vì Thầy đã nói trúng ngay chóc “tim đen” của mình hay Thầy như đang đi guốc trong bụng mình rứa đó và bản thân cứ nhớ mãi câu nói “bất tử” đó để tự động lo tu sửa cho “tim đỏ” trở lại không thôi thì làm răng mà sống đây phải không bạch Thầy???

Tôi có được cơ may là sống trong Chùa ở Huế nhiều lần, dăm ba ngày, một tuần, nửa tháng, cả tháng….. cho nên tôi ít nhiều chi cũng có chút am hiểu về nếp sinh hoạt của quý Điệu, Chú, Thầy….. từ nửa đêm canh ba cho tới giờ đi ngủ…… Hồi còn là Điệu hay một Chú Tiểu thì ai cũng phải trải qua giai đoạn học nấu ăn, lo bếp núc cho nên chuyện nấu nướng là lẽ thường tình nhưng khi đã là một Đại Đức trở lên thì hiếm khi còn vô bếp lắm. Nhưng phải nhìn nhận quý Thầy, Cô ở xứ Úc này rất tội, mọi công việc từ đầu chí cuối, từ bên trong ra tới bên ngoài hầu như phải trực tiếp kham hết vì thật sự Phật tử chỉ đến Chùa làm công quả cuối tuần hay những lúc có lễ lộc chi thôi. Nhưng Thầy đây đã là một vị Thượng Tọa Trụ Trì nhưng chẳng nề hà xuống bếp nấu ăn, dạy cho chúng tôi nấu nướng, cách thức làm thức ăn thậm chí còn nấu bát canh, miếng cơm cho hàng Phật tử chúng tôi ăn nữa….. Tôi cứ nhớ mãi miếng canh bí đỏ của Thầy, nói không nịnh mô nghe mà phải thú thiệt là Thầy nấu ăn ngon hơn tôi từng nghe đồn và tưởng tượng, tôi chưa hề được húp một chén canh bí đỏ mô mà thanh tao như rứa!

Ngoài là một người thích và biết thưởng thức âm nhạc, Thầy còn có một giọng ca truyền cảm không thua ai mô nhưng cứ hễ bước lên sân khấu sau khi phát biểu xong, Thầy muốn hát tặng cho các Phật tử một bài là mười lần như một cứ “Mẹ, mẹ là dòng suối ngọt ngào….” hoặc “Lòng Mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào….” Hát được chừng khoảng dăm ba câu là nghẹn ngào muốn khóc và tự động stop automatically. Tôi nghĩ mấy ông tác giả những bài hát ni mà thường ngồi thưởng thức nghe Thầy hát, chắc có ngày bị đau tim vì đợi hoài đợi mãi không biết đợi tới lúc mô Thầy mới chuyển tải tới khán thính giả trọn vẹn hết cả bài đây? Thôi thì hãy để “ngày ấy lụi tàn” đi hí? Và rồi tôi phát hiện ra Thầy tuy với gương mặt lành lạnh của xứ sương mù và dáng vẻ nghiêm nghị rứa đó nhưng con người Thầy rất giàu tình cảm, thường hay quan tâm, chia sẻ với từng người Phật tử nhất là vô cùng “ướt át” với Mẹ già ở quê nhà. Và cho dù Chùa có đang trong hoàn cảnh túng thiếu đi nữa, tôi không biết lúc nớ Thầy có thắt lưng buộc bụng Thầy không nhưng điều rõ như ban ngày mà ai ai cũng thấy là Thầy khi mô cũng rất chu đáo, ân cần lo từng bữa ăn, chỗ ở…. cho quý Ôn, quý Thầy, quý Cô thậm chí cả hàng Phật tử có dịp tới Chùa tu học, dự lễ hay thăm viếng.

Thầy thường hay nói với chúng tôi “Thánh nhân còn có khi nhầm, ngựa bốn chân còn vấp;” mà Thầy cũng là người bằng xương bằng thịt cho nên cũng không làm chi mà không có khiếm khuyết nhưng điểm nổi bật là hình như Thầy có bà con dòng họ, dây mơ rễ má chi với Ông “Trương Phi” bên Tàu hay răng mà khi tôi vào Chùa là được mọi người kể rất nhiều huyền thoại về đức tính nóng đến toát mồ hôi hột ni của Thầy, rồi dặn dò phải cẩn thận khi Thầy đang làm việc mệt nhọc, lúc nớ phải lo chào Thầy từ xa rồi hô biến liền chứ cứ đứng xớ rớ ở đó thì chút xíu nữa “nước mắt đầm đìa” thì đừng có than à nghe. Có lẽ trăm nghe không bằng một thấy, để rồi một hôm khi bất ngờ tôi thấy Thầy bình thường im lìm không nói nhưng khi lên cơn nóng khiến bản thân tôi cũng thất kinh hồn vía; còn các đệ tử khác thì lật đật hớt ha hớt hãi lo chạy đi nấu nướng thêm gấp bị vì thiếu thức ăn dọn cho khách đến tham quan Chùa…… Nhưng tôi hiểu nguyên nhân Thầy lên cơn nóng suy cho cùng cũng với mục đích là muốn công việc Phật sự được hoàn hảo hơn mà thôi. Nhưng điều mà tôi nhận chân được ở Thầy là một vị Thầy thật đáng thương kính là bởi vì sau khi la rầy đám đệ tử của mình thì người buồn nhiều hơn, trăn trở nhiều hơn, bức rức hơn lại chính là Thầy cho dù là điều la rầy ấy là đúng, là muốn đệ tử của mình làm việc hoàn hảo hơn, chu đáo hơn, cẩn thận hơn hay cho dù điều la rầy đó có hơi oan cho đệ tử mình……. Để rồi sau khi cơn nóng, Thầy luôn tìm đến chúng đệ tử để an ủi và nói lên lời xin lỗi với chúng đệ tử, đó là điều mà rất khó có ở một vị Thầy. Ai cũng thường biện bạch, chống chế cho những cơn thịnh nộ của mình nhưng dễ mấy ai có lỗi mà biết nhận lỗi nhất là một khi mình đang ở một vị trí như Thầy?

Chúng đệ tử trong Chùa khi nói tới Thầy là luôn luôn nhớ tới cụm từ “giỏi con, giỏi con” nghìn năm vẫn một của Thầy trả lời khi gặp đám Đệ tử chúng tôi chào Thầy. Đến nổi khiến cho Dì Nguyên Như, trưởng tử của Thầy ở gần Thầy riết rồi cũng nhập tâm luôn, cho nên khi Dì nhờ chúng tôi làm điều chi Dì cũng mở miệng khen y chang Thầy rứa đó khiến chúng tôi phì cười, đúng là “gần đèn hèn chi mà sáng”, và cũng có lẽ nhờ lời khen ngồ ngộ đó mà chúng đệ tử làm việc không biết mệt và phải ráng cố gắng làm cho giỏi thiệt để khỏi thẹn lòng khi nhận lời khen đó từ Thầy.

Có lẽ điều mà ai ai cũng phải nhìn nhận là khi Thầy tổ chức một lễ lộc, một công việc Phật sự chi thì cho dù khó khăn mấy rồi cũng xuôi xuồng mát mái, mọi việc đều trôi chảy và hoàn tất một cách tốt đẹp nhất mà toàn thể đại gia đình Quảng Đức có thể có được. Chính chú Long Quân, chủ nhiệm báo Nhân Quyền cũng bảo với chúng tôi là vì nhờ Thầy trụ trì có cái “tâm” cho nên mọi chuyện đều có Chư Phật phù hộ độ trì cho hoàn thành tốt đẹp. Thật sự điều đó có lẽ đúng như tên pháp danh “Tâm Phương” của Thầy vậy!

Tất cả, tất cả…… những điều hiện hữu ở Thầy trụ trì khiến cho các đệ tử của Thầy mặc dù đôi lúc vừa làm vừa nước mắt ngắn, nước mắt dài….. nhưng luôn ngồi lắng lòng để rồi càng ngày càng thương kính Thầy nhiều hơn, hiểu Thầy nhiều hơn nữa …… Tôi biết chắc trong tâm khảm mỗi đệ tử của Thầy đều đã có câu trả lời xác đáng cho nên ròng rã 20 năm, một phần ba đời người trôi qua rồi mà các Bác, các Dì, các Anh chị em trong Chùa vẫn một lòng một dạ gắn bó cùng Thầy, hỗ trợ Thầy trong mọi công việc Phật sự rất miệt mài. Tất cả chẳng hề quản ngại khó khăn từ vật chất cho đến công sức để cùng Thầy trên vạn nẻo đường vất vả, gian truân hình thành một ngôi Chùa, một Tăng Xá, một Bảo Tháp Tứ Ân, trong mọi công việc từ thiện hay các công việc Phật sự khác nữa.

Để mô tả cho trọn vẹn bức tranh về Thầy trụ trì thì với một đệ tử mới vào Chùa như con đây thì chịu thua nhưng con cũng hy vọng là qua đôi dòng mộc mạc này, những điều mà con cảm nhận được trong những ngày tháng đến Chùa lạy Phật, tu học và làm công quả, sẽ giúp mọi người hiểu thêm về những phẩm hạnh cao quý của một vị Tỳ Kheo, vị Trưởng Tử của Như Lai, một vị khai sơn Tu Viện Quảng Đức tại thành phổ Melbourne, nơi mà hàng đệ tử chúng con đang nương tựa tu học.

Melbourne, Mùa An Cư Kiết Đông 2010

Quảng Hương

----o0o---
Vi tính: Thanh Phi - Thanh Hạnh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/04/2024(Xem: 22231)
Phật giáo Việt Nam trong hai thế kỷ cận đại và hiện đại, xuất hiện một số nhân vật đạo hạnh cao vời, kỳ tài xuất chúng, có những cống hiến to lớn, dài lâu cho Đạo pháp và Dân tộc. Ngôn ngữ nhà Thiền xưng tụng những vị này là Bồ-tát, Đại sĩ, Thánh Tăng, hay Long Tượng, là những tôn danh chỉ được tìm thấy trong kinh điển, sử sách, trong lịch sử truyền miệng hoặc trên những bia đá ngàn năm nơi cổ tháp. Triết gia Phạm Công Thiện trong buổi ra mắt tác phẩm “Huyền Thoại Duy Ma Cật” của Hòa thượng Tuệ Sỹ tại thành phố Houston, tiểu bang Texas ngày 04 tháng 11 năm 2007, đã gọi tác giả là “bậc Long Tượng: Tuệ Sỹ” và diễn giải thêm, “Long Tượng là bậc Thầy của cả một dân tộc, nếu chưa muốn nói là bậc Thầy của thế giới.”
29/10/2023(Xem: 8234)
Như quý vị đã biết, trước bệnh tình nguy ngập của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, chúng tôi, những pháp lữ và những người học trò trực tiếp hay gián tiếp thọ nhận sự giáo huấn của Người, đã cố gắng trong một thời gian rất ngắn để thực hiện tập Kỷ Yếu này. Do hạn chế về thời gian, Kỷ Yếu chỉ là một tuyển tập đơn sơ gồm những sáng tác văn thơ, nhạc, họa, của chư Tôn Đức và văn thi hữu nhằm biểu lộ niềm tri ân đối với bậc Thầy lãnh đạo nòng cốt còn lại của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, một học giả Phật học uyên thâm hiếm có của Phật giáo Việt Nam. Và cũng chính từ giới hạn đó, chúng tôi đã không kịp nhận được đầy đủ bài vở của chư Tôn Đức, văn thi hữu cùng quý Phật tử có lòng quý kính gửi dâng Hòa thượng Tuệ Sỹ.
13/04/2024(Xem: 208)
Trang nghiêm Đức Trí châu viên Thậm thâm Bát Nhã bên triền KHỔ KHÔNG Hành vô hành hạnh quán thông LỜI VÀNG KINH PHẬT trãi dòng Chân Như Niết bàn tịnh cảnh vô dư Nhập Như lai tạng như NHƯ LAI về Nhân gian mát bóng Bồ Đề Ma ha Bát Nhã quy về diệu âm.
11/04/2024(Xem: 802)
Thời gian chưa bao giờ ưu ái riêng dành cho người vô tâm, một khoảng lặng, một quán trọ dừng chân. Chiếc kim đồng hồ cứ hồn nhiên miệt mài quay mãi quay về phía bên phải. Thị nhật cứ dĩ quá, Thân mạng sinh linh,ngũ uẫn èo uột cứ xí thịnh, cứ tùy giảm, như cá trong ao, ngày từng ngày cạn nước.Tuy nhiên, các hành giả hành thiền thì họ lại có khả năng CHỈ và QUÁN Họ tinh ý vận dụng tâm thức , biết tìm cách, tạo cho mình một khoảng lặng, một điểm dừng, một nơi chốn yên bình thanh thản nào đó để chiêm nghiệm, để hồi tưởng,để niệm tưởng một chân nhân ; soi tâm mình vào một phiến gương trong trẻo... một nhân cách khoáng hoạt, một chân chân liễu giác những ảnh hình trác việt ấy, đạo phong họ đủ làm mô phạm cho bản tâm mình trên lộ trình tu tập.
24/03/2024(Xem: 400)
Từ năm 1990 thầy bổn sư (thầy thế phát xuất gia Hoà Thượng Thượng TRÍ hạ YÊN) dẫn chúng con vào Chùa Khánh Long Q4 TPHCM đê đầu y chỉ cầu pháp nơi Thầy (Ni Trưởng Thượng Tâm Hạ Hoa) để nương đức thầy ni tu học. 5 huynh đệ chúng con gồm: chị Tâm Như, Tâm Tuyền, Tâm Thành, Tâm Nguyện và con được gửi bên chùa Khánh Long, còn chị Chúc Diệu, Chúc Tánh gửi sang bên chùa Bồ Đề. Kể từ đó, Thầy đã che chở dạy dỗ dắt dìu cho chúng con. Lúc đó con được thầy nhờ cô Hạnh Minh có quen cô giáo dạy trường Khánh Hội giúp hồ sơ chuyển trường từ Ayunpa lên TP để cho con nhập học từ lớp 8 vào lớp 9.
16/02/2024(Xem: 931)
Trưởng lão Hòa thượng Thích Hiển Tu, thế danh Nguyễn Tấn Hưng, sinh năm Nhâm Tuất (1921), tại xã An Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Ngài là con thứ trong gia đình có 4 anh chị em; thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Thời, cụ bà là Trần Thị Thất.
07/02/2024(Xem: 1990)
Sớm mai Sư khép cửa tùng Thỏng đôi chân bước chập chùng sương đêm Bước chân không tiếng động thềm Tư duy cao viễn sáng viền nguyên tiêu. Cần gì nao ! kính chiếu yêu Bồ tát tâm Chẳng lụy điều phục tâm.
03/02/2024(Xem: 4678)
ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG húy thượng THẮNG hạ HOAN hiệu LONG HOAN - Tăng Trưởng Hội Đồng Giáo Phẩm Trung Ương Viện Tăng Thống, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất - Trưởng Ban Điều Hợp Tăng Ni Việt Nam Hải Ngoại - Chánh Văn Phòng Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ đã thuận thế vô thường, thâu thần thị tịch vào lúc 6 giờ 50 sáng thứ Năm, ngày 25 tháng 01 năm 2024, (nhằm ngày Rằm tháng Chạp năm Quý Mão), tại Thành phố Santa Ana, Quận Cam, Tiểu bang California, Hoa Kỳ, thế thọ 97, hạ lạp 72. Tang lễ Đức Đại lão Hòa Thượng sẽ được long trọng cử hành tại Chùa Bát Nhã, 4717 W. First Street, Santa Ana, California 92703, U.S.A. - Lễ cung nghinh báo thân nhập kim quan lúc 10 giờ sáng thứ Tư, ngày 31 tháng 01 năm 2024 (nhằm ngày 21 tháng Chạp năm Quý Mão). - Lễ phụng tống kim quan trà tỳ lúc 6 giờ 30 sáng thứ Sáu, ngày 02 tháng 02 năm 2024 (nhằm ngày 23 tháng Chạp năm Quý Mão). Ngưỡng mong mười phương thường trụ Tăng-già nhất tâm cầu nguyện Giác Linh Đại Lão Hòa Thượng Cao Đăng Phật Quốc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567