Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

IV-Vị Trí Văn Học

21/05/201312:48(Xem: 9301)
IV-Vị Trí Văn Học

TOÀN TẬP 
MINH CHÂU HƯƠNG HẢI 

Tiến sĩ Lê Mạnh Thát
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành 2000

--o0o--

IV


VỊ TRÍ VĂN HỌC

Việc tồn tại các kinh điển bằng tiếng Việt theo nghiên cứu của chúng tôi đã xuất hiện từ lâu, ngay khi những lời dạy của Đức Phật được truyền thụ lại cho những người Phật tử Việt Nam như Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Điều bất hạnh là do thiên tai địch họa, đặc biệt là do dã tâm diệt chủng văn hoá của kẻ thù, số kinh điển này đã không được bảo lưu cho chúng ta ngày nay một cách nguyên vẹn. Dẫu thế chúng ta biết một số chúng đã có mặt rất sớm như Lục độ tập kinh, Cựu tạp thí dụ kinh, Tạp thí dụ kinh v.v…Và qua những năm tháng sau đó chắc chắn những kinh khác cũng đã được dịch ra tiếng Việt hoặc từ chữ Phạn, Pàli hay chữ Hán, nhưng hầu hết đã bị tán thất. Bản kinh sớm nhất còn nguyên vẹn bằng tiếng Việt mà ta có hiện nay là Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh có thể coi là được thiền sư Viên Thái (k.1400-1460) dịch vào khoảng giữa những năm 1440 khi đất nước đang nỗ lực dân tộc hoá các sinh hoạt văn hoá của mình sau thời gian bị giặc Minh chiếm đóng. Rồi thiền sư Pháp Tính (k.1470-1550) đã mạnh mẽ hô hào việc học tập tiếng Việt quốc âm :

Hồng phúc tên Hương Chân Pháp Tính

Bút hoa bèn mới đính nên thiên

Soạn làm chữ cái chữ con

San bản lưu truyền ai đặt thì thông…

Vốn xưa làm nôm xe chữ kép

Người thiểu học khôn biết khôn xem

Bây chừ nôn dạy chữ đơn

Cho người mới học nghĩ xem nghĩ nhuần .

Trong Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa, chính trong phong trào dân tộc hoá đầy khí thế này, cả một cao trào sáng tác văn học bằng chữ Việt mới ra đời, và được bảo lưu cho tới ngày nay cho những tác gia lớn như Nguyễn Trãi, Viên Thái, Lê Thánh Tôn, Pháp Tính, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thọ Tiên Diễn Khánh, Phùng Khắc Khoan, Lê Đức Mao, Nguyễn Giản Thanh v.v…Sinh ra và lớn lên trong khí thế của một cao trào đang phát triển ồ ạt như thế, ta không lạ gì khi hầu như toàn bộ tác phẩm của Minh Châu Hương Hải đều viết bằng tiếng Việt. Đây là một đóng góp lớn lao của Minh Châu Hương Hải đối với lịch sử văn học dân tộc ta, đặc biệt là đối với nền văn xuôi Việt Nam. Lý do nằm ở chỗ nhiều người quan niệm nền văn học dân tộc ta phần lớn gồm những truyện thơ, tức là các loại truyện bằng văn vần và không có một nền văn xuôi hoàn chỉnh. Bây giờ với việc khám phá ra bản dịch Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh và Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục của Viên Thái cùng với Tân biên truyền kỳ mạn lục giả thiết là của Nguyễn Thế Nghi và ba bản giải kinh của Minh Châu Hương Hải, tức Giải Kim Cang kinh lý nghĩa, Giải Di Đà kinh và Giải Tâm kinh ngũ chỉ, ta thấy nền văn xuôi Việt Nam đến thế kỷ thứ 17 đã phát triển rực rỡ và phong phú. Tiếng nói dân tộc được ghi lại một cách trung thành, sau các tác phẩm tiếng Việt đầu tiên hiện còn bảo tồn là Cư trần lạc đạo của Trần Nhân Tông (1258-1308) và Vân Yên tự phú của Huyền Quang (1251-1334) .

Ngôn ngữ của bản kinh giải này đã đạt đến một vẻ đẹp văn học nhất định, chúng ta hiện có thể đọc các đoạn văn sau đây và cảm thấy chúng gần gũi với tiếng nói chúng ta ngày nay như thế nào, khi Minh Châu Hương Hải giải thích bài kệ cuối cùng của kinh Kim Cương :

"Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng huyễn bào ảnh

Như lộ diệc như điện

Ư?g tác như thị quan

Hết thảy hữu vi pháp là trên tự thiên địa tạo hoá, dưới đến nhân gian vạn vật, dầu sanh lão bệnh tử, giàu khó sang hèn, sĩ nông công thương, mọi loài sắc vật, dầu nhẫn xanh vàng thâm trắng thô tế thanh trọc, dầu có dầu không, dầu hư dầu thiệt, sâu cạn thấp cao, ách thật vọng tâm khởi diệt. Hết thảy thiện ác muôn pháp cũng là hưũ vi vậy …"

Đọc các đoạn văn như thế này, rõ ràng Minh Châu Hương Hải đã có những đóng góp mới. Ông đã không dùng thủ pháp dịch đuổi mà cho đến thời ông tương đối khá phổ biến và được thử thách, thể hiện qua các công trình dịch Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh và Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục của thiền sư Viên Thái thuộc thế kỷ thứ 15 cũng như Tân biên truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Thế Nghi thuộc thế kỷ 16. Dịch đuổi là dịch theo lối chữ nào nghĩa đó. Trường hợp các bản thích giải của Minh Châu Hương Hải không thuộc và sử dụng thủ pháp ấy, ông đã dựa vào một câu hay đoạn văn chữ Hán rồi giải thích bằng tiếng Việt quốc âm theo cách hiểu của bản thân ông, đây có thể nói là một đóng góp mới đối với lịch sử văn học tiếng Việt, bởi vì, tiếng Việt văn xuôi được dùng một cách tự nhiên, không bị gò bó bởi câu chữ của nguyên bản tiếng Hán. Có thể nói Minh Châu Hương Hải là người đầu tiên đã ghi lại những câu nói tiếng Việt bình thường của người Việt Nam vào thời ông trong khi trao đổi ý kiến hay giảng giải cho nhau nghe về những vấn đề gì, mà họ cảm thấy quan tâm hay thích thú. Việc này giúp ta xoá bỏ vĩnh viễn thành kiến cho rằng văn học dân tộc ta không có nền văn xuôi cho đến thời kỳ mất nước của thế kỷ 20, mà trước đây thường hay rao giảng một cách vô bằng .

Điều quan trọng hơn nữa là văn xuôi hay của Minh Châu Hương Hải có thể nói là đại biểu cho tiếng nói của một dân tộc thống nhất mà vào thời ông các sử sách ta thường hay đề cập đến việc chia cắt đất nước thành hai miền khác nhau, và các nhà lãnh đạo chính trị của hai miền này thường được giả thiết là muốn biến thành hai nước khác nhau. Thực tế, Minh Châu Hương Hải đã sinh ra, lớn lên và thành đạt ở miền Nam của Tổ quốc, tức tại vùng Trị Thiên và Quảng Nam ngày nay. Rồi sau đó, ông đã ra sống 30 năm cuối cùng của đời mình tại miền Bắc, ở tỉnh Hưng Yên hiện tại. Những tác phẩm văn xuôi do ông để lại cho chúng ta vì thế, thể hiện được tiếng nói thống nhất của cả hai miền tổ quốc. Đây là một đặc điểm khác của văn xuôi Minh Châu Hương Hải, mà ta cần nghiên cứu sâu hơn để hiểu được tiếng nói của dân tộc ta vào thời bấy giờ. Văn xuôi của Minh Châu Hương Hải không còn là loại văn xuôi dịch thuật, mà đã bắt đầu buớc qua địa hạt văn xuôi sáng tác, dùng văn xuôi tiếng Việt hàng ngày để thể hiện tư tưởng, tình cảm, quan điểm của mình, để vươn lên và đạt tới một nền văn xuôi văn học .

Vậy thì Minh Châu Hương Hải đã có một vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học Việt Nam, người mở đầu cho nền văn xuôi sáng tác tại Việt Nam, mà ta hiện biết. Cho nên, phải nói rằng Hương Hải mới chính là người đã đặt nền móng cho nền văn xuôi Việt Nam bằng tiếng Việt chứ không phải tác giả Truyền kỳ mạn lục, như quan điểm của các sách về lịch sử văn học Việt Nam trước đây. Ai đã chịu khó đọc sơ qua lịch sử văn học hiện thực Trung quốc, thì cũng biết Nguyễn Dữ viết Truyền kỳ mạn lục đã mô phỏng theo Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu đời Minh Trung quốc, trong đó thậm chí có truyện đã lấy lại hẳn cốt truyện của Cù Hựu, với chỉ một vài thay đổi về nhân danh và địa danh. Vì vậy, nói đến văn xuôi sáng tác tiếng Việt, ta phải coi Minh Châu Hương Hải là người tiên phong, tối thiểu là trong lĩnh vực sở trường của ông, lĩnh vực tư tưởng Phật giáo và sử dụng tiếng nói dân tộc .

Tất nhiên, tiếng Việt thời Minh Châu Hương Hải cách chúng ta gần 400 năm, có những nét đặc thù mà khi tiếp cận ta cảm thấy khó khăn cho việc nhận thức và lý hội. Chẳng hạn những từ như bui ( ), lệ ( ), hợp ( ) v.v… với nghĩa chỉ, sợ và nên ngày nay không còn dùng trong tiếng Việt hiện đại, nhưng không phải vì thế mà ta không hiểu tác phẩm văn xuôi của ông. Thực tế, như đoạn văn xuôi chúng tôi trích ở trên cho thấy tiếng Việt thời ông không xa với tiếng nói của người Việt chúng ta ngày nay bao nhiêu .

Chúng ta hãy đọc một đoạn văn mở đầu cho bản Giải tâm kinh ngũ chỉ sau đây thì cũng có thể thấy :"Nương lời trong kinh, dịch rằng Thích Ca Thế Tôn thuở trú trong Linh thứu sơn, vào tọa thiền, nhập Quang minh đại định. Khi ấy Xá Lợi Tử bạch Quán Tự Tại Bồ Tát rằng :"Dầu có chúng sinh tu hành, muốn học cửa pháp Bát Nhã thần thông vi diệu, rằng làm sao cho hiểu thấu được"Quán Tự Tại Bồ tát bèn dạy bảo Xá Lợi Tử rằng :"Thích Ca Thế Tôn diễn thuyết đại bộ Bát Nhã 600 quyển. Một Bát nhã tâm kinh này lấy làm chí tinh chí yếu, , là mẹ đại bộ chư kinh, truyền sang Đông Độ đã 5 lần dịch, đến đời Đường Huyền Tráng pháp sư lại vâng chiếu dịch truyền để Đông Độ lấy làm chính giáo thịnh hành …"

Đọc đoạn này, tiếng Việt của Minh Châu Hương Hải đâu có cách xa gì với tiếng Việt của chúng ta hiện nay. Chỉ có vấn đề là ông đã giới hạn việc sử dụng tiếng Việt trong việc giải thích các kinh điển Phật giáo, mà không mở rộng đến các lĩnh vực khác của đối tượng văn học, tất nhiên ta không thể đòi hỏi nhiều ở Minh Châu Hương Hải, những con người tiên phong .

Điểm lôi cuốn hơn nữa là Minh Châu Hương Hải không phải không biết làm thơ bằng tiếng Việt. Sự lý dung thông là một điển hình, đây là một bài thơ hay, lời lẽ điêu luyện, hình tượng hấp dẫn dài 162 câu, được viết theo thể song thất lục bát, đứng vào hàng những bài thơ song thất lục bát đầu tiên của dân tộc, mở đầu cho những danh tác về sau như Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều và Chinh phụ ngâm của Phan Huy Ích. Vì vậy, việc ông dành một số lớn thời gian để thích giải các kinh điển Phật giáo bằng văn xuôi tiếng Việt đã chứng tỏ ông có một niềm đam mê và yêu mến như thế nào đó đối với tiếng nói hằng ngày của đồng bào mình. Tình cảm nồng đậm này phải kể là một điểm son khác của sự nghiệp Minh Châu Hương Hải. Sau ông vẫn còn tìm thâý những người Việt Nam khác đã dùng thơ truyện để diễn giải kinh truyện Phật giáo như Chân Nguyên trong Đạt Na thái tử hạnh, Nam hải Quan âm bản hạnh, v.v…và Pháp Liên trong Pháp Hoa quốc ngữ kinh. Thế mà vào thời mình, ở thế kỷ thứ 17, Minh Châu Hương Hải đã mạnh dạn giảng giải kinh điển cho đồng bào mình bằng tiếng nói thường ngày của họ. Nói khác đi, không phải Minh Châu Hương Hải không có tài làm thơ, nên ông đã dùng văn xuôi để viết nên các tác phẩm của mình. Trái lại nữa là khác, nhưng ông đã viết hầu như toàn bộ tác phẩm của mình bằng văn xuôi, mà hiện tại ta đã tìm thấy 3 tác phẩm, thì đó là một biểu hiện tấm lòng yêu mến của Minh Châu Hương Hải đối với tiếng nói thường ngày của dân tộc ta.

Đây là một số những thu hoạch sơ bộ của chúng tôi, khi nghiên cứu các tác phẩm của Minh Châu Hương Hải, để cho ra đời toàn tập này. Chúng ta cần nghiêm chỉnh tìm hiểu sâu xa hơn để xác định đúng đắn không những vị trí của Minh Châu Hương Hải trong lịch sử văn học dân tộc, mà còn để làm rõ quá trình phát triển và tiến hoá của lịch sử văn học Việt Nam, giúp cho con cháu ta nhận thức chính xác những cống hiến to lớn của tổ tiên trong việc giữ gìn và bồi đắp tiếng nói của dân tộc. Quá trình phát triển văn học dân tộc bằng tiếng Việt là một quá trình đấu tranh cam go, khốc liệt chứ không phải là quá trình phát triển dễ dàng và êm thắm, đặc biệt là trong lĩnh vực văn xuôi. Quá trình này có sự đóng góp của nhiều người qua nhiều thế kỷ, mà ngày nay tác phẩm phần lớn đã bị thất truyền, từ những bản kinh đầu tiên thời Hùng vương cho đến những tác phẩm của Từ Đạo Hạnh v.v…cuối cùng đến Trần Nhân Tông và Huyền Quang, chúng ta có được những tác phẩm đầu tiên của dân tộc được bảo tồn nguyên vẹn, rồi đến Trần Tùng Quang, Nguyễn Biểu, nhà sư chùa An Quốc, Nguyễn Trãi, Viên Thái v.v…chúng ta có một loạt những tác phẩm văn học được lưu truyền cho đến ngày nay. Tới nhóm thơ Tao Đàn do Lê Thánh Tôn thành lập rồi các tác phẩm của Pháp Tính, Nguyễn Bỉnh Khiêm, v.v…cả một cao trào sử dụng tiếng Việt để làm thơ, văn đang hừng hực vươn lên chiếm lĩnh vị thế chủ đạo, Pháp Tính đã mạnh dạn nói rằng mình đã kế thừa sự nghiệp tự điển quốc âm của Sĩ nhiếp, thiết định lại chữ viết tiếng quốc âm cho mọi người dễ học, dễ nhớ. Nhưng tất cả các vị này hầu hết đều bằng tiếng Việt thơ mà không phải tiếng Việt văn xuôi, điều này ta phải đợi đến Minh Châu Hương Hải mới có được những thành tựu đầu tiên hiện được lưu truyền. Chúng ta cần phải trân trọng những thành tựu đó và cần nghiên cứu thêm hơn nữa để hiểu biết trọn vẹn hơn quá trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc ta .


---o0o---
Chân thành cảm ơn Đại Đức Nhật Từ đã gởi tặng phiên bản điện tử tập sách này
(Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2024(Xem: 1949)
Giáo sư Cao Huy Thuần - tác giả nhiều sách như "Thấy Phật", "Nắng và hoa", "Khi tựa gối khi cúi đầu" - mất ở tuổi 87, tại Paris, Pháp. Ông Cao Huy Hóa, em trai Giáo sư Cao Huy Thuần, thông báo ông mất lúc 5h ngày 8/7 (giờ Hà Nội). Hòa thượng Thích Hải Ấn - Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế - cho biết chờ thông tin từ gia đình, sau đó sẽ tổ chức buổi tưởng niệm giáo sư. Ông từng thỉnh giảng một số chuyên đề tại học viện.
28/06/2024(Xem: 1293)
Cung trời cũ, Thầy ung dung dạo bước, Chốn Hồng Trần, xin tạm gác niềm thương. Như Huyền nhiệm, đến đi trong tự tại. Diệt tang bồng, soi ảnh độ Tây phương. Thầy lặng lẽ, như hành thâm đại nguyện. Pháp Đại Bi, mật trú dạ Huân tu. Trong thiền thất, Thầy an nhiên thiền tọa. Thở và cười, chốn Bát Nhã Chơn như.
24/06/2024(Xem: 1586)
Đúng vậy! Tôn Sư Trưởng lão Hòa Thượng thượng NHƯ hạ HUỆ, Nguyên Hội Chủ và Chứng Minh Đạo Sư GHPGVNTNHN UDL-TTL, Phương trượng Chùa Pháp Hoa SA. Với 70 năm tu tập, 60 phục vụ PGVNTN tại quê nhà và hải ngoại, đã giáo dục, đạo tạo nên nhiều Tăng Ni và Phật tử tài giỏi, biết hy sinh bản thân để cống hiến cho đạo Pháp và dân tộc cũng như hết lòng phụng sự chúng sanh. Nhờ tấm lòng từ bi, với đức tánh hài hòa, nhẫn nại, bao dung rồi thâm nhập Phật Pháp. Từ nền móng đó, Phật giáo đồ và Giáo hội ở Úc đã nhiều nhiệm kỳ cung thỉnh Ngài làm Hội Chủ, đã giáo dưỡng nên nhiều đệ tử biết rõ cuộc đời là vô thường, khổ, để không chạy theo sự sanh diệt của thế gian, lánh xa ngũ dục, tìm cách diệt khổ vươn lên và phụng sự đắc lực cho cuộc đời, tạo vô vàn Phước Đức.
22/06/2024(Xem: 1398)
Có người, khi thấy tôi thường nhắc nhở, ca ngợi Hoà Thượng Thích Như Điển, cho rằng, tôi…nịnh Hoà Thượng. Trời, nếu hiểu theo nghĩa “nịnh” thì mục đích để cầu danh hay lợi gì đó. Muốn có danh đâu phải dễ. Giữa hai hạt, kim cương và hòn sỏi đặt dưới bóng đèn sẽ soi rõ bản chất của nó, không thể nhờ chiếu sáng mà sỏi thành ra kim cương được. Con người cũng thế thôi, bản thân chẳng ra gì có đứng bên người tỏa hào quang thì vẫn thấy cái dở của người đó. Còn lợi thì càng buồn cười hơn. Người tu vốn vào cửa...không, Phật tử phải đắp cho...có. Ở đó mà cầu lợi.
01/06/2024(Xem: 1971)
Từ khi mở đất, khai hoang, lập ấp vùng đất mới, Doãn Quốc Công Nguyễn Hoàng (1558-1613) đã để ý đến việc lập chùa và lấy Phật giáo làm nơi nương tựa tinh thần cho việc lập quốc của dòng họ Nguyễn. Theo truyền thống đó, các chúa Nguyễn đều sùng thượng đạo Phật và mời các vị danh tăng Trung Quốc đến Đàng Trong hay vùng Nam Bộ ngày nay để hoằng hóa. Thế kỷ XVII ghi nhận có mặt của các Thiền sư Trung Hoa (Nguyễn Lang 2008):
31/05/2024(Xem: 2601)
Sa môn Endo Mitsunaga (Giáo thọ A-xà-lê Quang Vĩnh Viên Đạo, 光永圓道阿闍梨), sinh năm năm Ất Mão (1975) tại Kyoto. Năm Canh Ngọ (1990), thiếu niên tuổi 15, Ngài xuất gia thụ giới Sa di tại Myoo-do Hall ở Mudojidani, Mt. Hiei. Năm 1997 Ngài tốt nghiệp chuyên khoa Phật học tại Đại học Hanazono (花園大学).
28/05/2024(Xem: 3051)
Huế thường được mệnh danh là “Kinh đô Phật giáo” chẳng phải vì cảm hứng nghệ thuật hay cường điệu vẽ vời mà chính vì Huế có tới 332 ngôi chùa và niệm phật đường lớn nhỏ, trong đó có khoảng 100 ngôi cổ tự. Các ngôi chùa ngày nay hầu như đều được trùng tu nhưng vẫn giữ được nét kiến trúc cổ kính, căn bản mang đậm màu sắc văn hóa Phật giáo. Dẫu là dấu tích truyền thống của tôn giáo nhưng những ngôi chùa cổ của Huế vẫn tiềm tàng những giá trị tâm linh, văn hóa, lịch sử của vùng đất cố đô.
09/05/2024(Xem: 2671)
Nhị vị canh cánh bên nhau suốt cả cuộc đời. Nhị vị cùng tòng học với Ngài BÍCH LIÊN ( Bình Định) rồi nhị vị dấn thân ĐEM ĐẠO VÀO ĐỜI , mỗi vị mỗi phong cách, mỗi vị một vị thế khác nhau, nhưng mỗi vị đều trung trinh lý tưởng : Coi việc phụng sự Phật pháp như là việc Nhà ( Hoằng Pháp vi gia vụ ) Nhị vị trọn đời trung trinh “ Thượng cầu Phật Đạo, hạ hóa chúng sanh.
07/05/2024(Xem: 2664)
Hòa Thượng thế danh NGUYỄN HƯỚNG, pháp danh TÂM HOÀN tự GIẢI QUY, hiệu HUỆ LONG, thuộc dòng thiền phái Lâm Tế đời thứ 43. Hòa Thượng sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tý (1924) trong một gia đình môn phong Nho giáo tại làng Phú Thành, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Giòng họ Nguyễn Phúc định cư dưới chân đồi Phốc Lốc tính đến đời Ngài đã trải qua 7 đời.Thân phụ là cụ ông Nguyễn Phúc Trì tự Tung pháp danh Không Đảnh, đích mẫu là cụ bà Trần Thị Kiện mất sớm, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Chiếu pháp danh Không Chiêu, ông bà đều là đệ tử quy y với Quốc Sư Phước Huệ trú trì Tổ Đình Thập Tháp Di Đà. Thân phụ Ngài là một Hương chức trong làng, một vị đồ Nho giỏi văn chương thi phú, tín ngưỡng tôn sùng Phật giáo, ông bà sống rất phúc đức nhân hậu với mọi người. Gia đình Hòa Thượng có mười anh em(5 anh em trai, 5 chị em gái) Ngài là con thứ tám. Người anh cả của Hòa Thượng tục danh Nguyễn Cao theo Pháp Sư Phổ Huệ vào Nam, sau đó ở lại định cư lập nghiệp tại Vĩnh Long, người anh th
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]