Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiết III

02/05/201317:25(Xem: 5302)
Tiết III


TÂY PHƯƠNG NHỰT KHÓA
HT. Thích Thiền Tâm
Soạn thuật
---o0o---

CHƯƠNG III

TIẾT III

GIẢI-THÍCH BÀI KỆ SÁM-HỐI

Trong phần giải-thích nầy, xin được giải-thích sơ qua về ý-nghĩa của bài kệ SÁM-HỐI:

1. QUY-MẠNG MƯỜI PHƯƠNG PHẬT:

- Quy là quy-y,

- Mạng là thân-mạng - Ðây tức là thân tứ đại của mình.

Hai chữ QUY-MẠNG nầy có nghĩa là:

- Ðem cả thân-mạng của mình mà quy-y, nương-tựa vào nơi PHẬT.

- MƯỜI PHƯƠNG PHẬT: Tức là chư PHẬT ở trong tất-cả quốc-độ khắp mười phương.

Như vậy câu kệ trên có ý dạy rằng:

- Nay con đem hết cả thân-mạng của con mà quy-y, nương về nơi chư PHẬT khắp mười phương (nói chung)- và riêng về đức A-DI-ÐÀ Như-lai nơi cõi Cực-Lạc.

Ðây là quy-y PHẬT bảo.

2. TÔN PHÁP, HIỀN THÁNH TĂNG:

Trên đã quy-y ơi PHẬT bảo rồi, thì kế tiếp đây con cũng xin (nguyện đem cả thân-mạng mình) mà quy-y nơi PHÁP-BẢO và TĂNG BẢO nữa.

Hai câu kệ nầy đã nêu rõ lên sự thành-tâm "QUY TAM-BẢO" của mình - và của chư liên-hữu, bổn-đạo khác nữa.

3. TAM THÁNH Cõi Cực-Lạc:

Câu kệ nầy ý dạy như sau:

- Vì con đang tu theo giáo-môn TỊNH-ÐỘ, nguyện "Một đời đới nghiệp vãng-sanh, được bất thối-chuyển" về cõi Cực-lạc nên sau khi quy-y TAM-BẢO khắp 10 phương xong rồi... Kế tiếp đây con cũng xin nguyện đem thân-mạng của mình, riêng quy-y và nương về nơi "Tây-Phương tam-thánh" là: A-DI-ÐÀ PHẬT, QUÁN THẾ-ÂM BỒ-TÁT, ÐẠI THẾ-CHÍ BỒ-TÁT...

4. XIN THƯƠNG-XÓT CHỨNG-MINH:

Câu kệ nầy ý dạy như sau:

a. Nguyện xin 10 phương Tam-bảo thương xót con, chứng-minh cho tâm tha-thiết quy-mạng của con (về ba ngôi Tam-bảo).

b. Nguyện xin Tây-phương Tam đại Thánh Từ-Tôn, chứng-minh cho tâm của con (lúc nào cũng) quy-hướng về nơi Cực-lạc (Mà tiếp-dẫn, dắt-dìu cho con được vãng-sanh).

5. VÔ-THỈ KIẾP ÐẾN NAY:

Câu kệ nầy ý dạy như sau:

- Nguyên con đây từ đời vô-thỉ xa-xưa (tức là thời-gian cực-kỳ lâu xa về trước, không thể nào tính đếm hay nghĩ-tưởng biết được cho đến kiếp đời hiện tại hôm nay)....

6. CON MÊ-LẠC LUÂN-HỒI:

Con vì mê tâm, muội tánh, nên cứ mãi chạy theo thói đời điên-đảo của phàm tình chúng-sanh, đam-mê nơi ngũ-dục (1), lục trần (2). Do vì như thế nên phải bị luân-hồi trong sáu nẻo: Trời, thần, người, địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sanh, mãi cho đến bây-giờ đây, nơi kiếp hiện tại nầy, cũng chưa giải-thoát được.

7. DO BỞI THAM, SÂN, SI:

Sở-dĩ như thế là vì con cứ mãi để cho tâm mình luôn-luôn:

a. THAM: Tham ngũ-dục, tham lục trần ... (Sắc, tài, danh, lợi, vv...)

b. SÂN:Sân-hận, nóng giận, chẳng có từ-bi.

c. SI: Ngu muội, vô-minh, không có trí-huệ, không chịu gần minh-sư, thiệu-hữu vv....

8. TỪ NƠI THÂN KHẨU Ý:

Các tội-lỗi đó, nó làm cho con cứ mãi bị luân-chuyển nơi ba cõi, sáu đường, thật ra không phải là do ai mang đến cho con hết, mà chính là tự nơi con (vì ngu muội)mà gây tạo ra thôi.

Như là:

- Thân con (vì ngu muội) mà sanh ra: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm.

- Khẩu con (vì ngu muội) mà sanh ra: Nói dối, nói hung ác, nói thêu-dệt, nói đôi chiều.

- Ý con (vì ngu muội) mà sanh ra: Tham-lam, nóng giận, si mê.

Các tội như thế thiệt là do ở nơi con: Tự mình tạo ra hết cả.

9. TẠO TỨ TRONG, NGŨ NGHỊCH:

Ngoài các tội của: Thân, khẩu, ý ra, con còn gây-tạo thêm các tội ác khác nữa như là:

a. Tứ trọng: Dâm tà (tà dâm), Sát (giết hại), Ðạo (trộm cắp), vọng (nói dối).

b. Ngũ-nghịch: Giết cha, giết mẹ, làm cho thân PHẬT ra máu, phá hoại hòa-hợp tăng, làm ô-nhục người tu tịnh-hạnh.

10. THẬP ÁC VÔ-BIÊN TỘI:

- Thập ác là 10 điều ác do thân, khẩu, ý gây ra (giảng ở câu kệ thứ 8 trên).

Ngoài các tội căn bản là: Tứ trọng, ngũ-nghịch, thập-ác trên, con vì vô-minh ngu muội, nên còn gây tạo ra thêm vô-lượng, vô-biên các tội-nghiệp khác nữa, không làm sao mà kể ra cho xiết được (Nếu các tội ấy mà có hình-tướng thì 10 phương hư không chẳng thể nào dung chứa cho hết).

11. NAY ÐEM TÂM CHÍ THÀNH:

Nay con:

- Ðối trước Tam-bảo khắp 10 phương,

- Ðối trước Tây-phương Tam-đại thánh Từ-tôn. (là DI-ÐÀ, QUÁN ÂM, THẾ-CHÍ)đem hết tất-cả tâm chí thành, trân-trọng, dâng lên Tam-bảo để xin được ...

12. PHÁT LỒ CẦU SÁM-HỐI:

Chứng-minh cho con, để con được:

- Bày-tỏ ra các tội ác của mình, không dám che giấu - Bởi vì chư PHẬT, chư Bồ-tát, chư hiền thánh tăng, có "tha tâm thông" biết rõ từng ý-niệm, thấy rõ từng tội-ác của con, không phải chỉ trong một đời mà là trong nhiều đời đã qua, thảy đều thấy biết rõ-ràng... như chính những tội-ác mà con mới tạo ra ngay trong ngày hôm nay vậy.

Các tội-ác như thế, nay con thành-tâm phát-lồ và cầu xin được sám-hối.

Nguyện chư PHẬT chứng-minh cho.

13. NGUYỆN NHỜ SỨC GIA-TRÌ:

Con nguyện xin chư PHẬT, chư BỒ-TÁT, chư Hiền Thánh-Tăng thương xót con, dùng sức thần-thông và nguyện-lực của quý NGÀI mà gia-hộ cho con được minh-tâm, kiến-tánh, trí-huệ sáng-suốt để con mãi-mãi được lánh ác, gần lành.

14. CHÚNG-SANH ÐỀU THANH-TỊNH:

Chúng-sanh đây có 2 loại:

a. Nội chúng-sanh: Là các sân-si, phiền-não, điên-đảo, vọng-tưởng, sân-hận vv... trong tâm của mình.

b. Ngoại chúng-sanh: Là các sân-si, phiền-não, điên-đảo, vọng-tưởng, sân-hận vv... của các người khác chung-quanh mình.

Nguyện xin gia-hộ cho con được:

- Trong thân, tâm con thanh-tịnh.

- Ngoài thì tất-cả chúng-sanh thân-tâm cũng thảy đều thanh-tịnh.

15. XIN PHÁT ÐẠI BỒ-ÐỀ:

Con nay xin đối trước chư PHẬT, và riêng nơi đức A-DI-ÐÀ thế-tôn, nguyện phát-tâm vô-thượng Bồ-đề, trên cầu thành Phật-quả, dưới thề nguyền độ khắp chúng-sanh.

16. ÐỘ MÌNH, NGƯỜI GIẢI-THOÁT:

Vì Tổ-sư có dạy:

Tu đức độ mình,

Ðộ khắp thế nhân ...

Nên hôm nay con xin phát nguyện:

- Sẽ y theo lời PHẬT dạy, lánh dữ, làm lành và chăm lòng tu-tập, gìn một câu niệm A-DI-ÐÀ PHẬT, cầu được vãng-sanh. Khi con đã vãng-sanh về cõi Cực-lạc rồi, con sẽ nương theo đại nguyện của PHẬT và của chính-mình, hiện-thân trở lại cõi Ta-bà (nói riêng) và khắp cả mười phương (nói chung)để độ hết các loài hàm-thức, khiến cho tất-cả đồng nhau thoát ra khỏi biển khổ, sông mê nơi ba cõi, sáu đường, sanh về Cực-lạc.

Nam-mô

Cầu SÁM-HỐI BỒ-TÁT

Ðến đây, là phần đảnh-lễ để cầu xin chứng-minh, gia-hộ ở nơi:

- CẦU SÁM-HỐI BỒ-TÁT là một vị Ðại Bồ-tát, mà mỗi khi mình đọc đến tên Ngài và trong tâm phát khởi ra ý-niệm tha-thiết sám-hối, thì lập-tức phát sanh ra một sự "cảm-ứng đạo-giao" đến NGÀI và NGÀI liền hiện đến chứng-minh.

Vị Bồ-tát nầy có một nguyện-lực là:

- "Nếu có chúng-sanh nào nghe danh-hiệu hoặc thấy hình tôi, thì đều được tiêu-trừ hết tất-cả các tội - Kẻ đó trong hiện-tại và tương-lai sẽ được vĩnh-viễn xa lìa ba ác-đạo, mãi-mãi sanh về các nẻo an-vui cho đến ngày giải-thoát".

Cho nên sau phần sám-hối, tất-cả các Phật-tử chúng-ta đều cung-kính xưng-niệm danh hiệu của NGÀI là như vậy.

---------------

(1)- Ngũ-dục: Là 5 điều ham-muốn không biết chán của chúng-sanh là: Tài (tiền bạc), sắc (sắc đẹp), danh (danh lợi), thực (ăn uống), thùy (ham mê ngủ-nghỉ).

(2)- Lục-trần:Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (phàm-phu pháp)

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 28664)
Hòa thượng pháp danh Thiền Tâm, pháp hiệu Liên Du, tự Vô Nhất thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 43, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, sinh năm 1925 (Ất Sửu) tại xã Bình Xuân, Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Song thân là cụ Nguyễn Văn Hương và cụ Trần Thị Dung pháp danh Giác Ân. Ngài là người thứ 10 trong số 13 anh em, 4 trai, 9 gái.
09/04/2013(Xem: 7357)
Hòa Thượng Thích Thanh Kiểm, thế danh Vũ Văn Khang, sinh ngày 23/12/1921 (Tân Dậu), tại làng Tiêu Bảng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Cụ Ông Vũ Đức Khanh, thân mẫu là Cụ Bà Đỗ Thị Thinh. Hoà thượng có 5 anh chị em, 3 trai 2 gái. Ngài là con thứ 4 trong gia đình.
09/04/2013(Xem: 5175)
Lý Càn Đức (Bính Ngọ 1066 - Mậu Thân 1128) là vua thứ 4 nhà Lý, con trai duy nhất của vua Lý Thánh Tông và Ỷ Lan phu nhân tức Linh Nhân hoàng hậu. Càn Đức sinh ra ở Cung Động Tiên, gác Du Thiềm (gác thưởng Trăng) vào tháng Giêng năm Bính Ngọ, niên hiệu Chương Thánh năm thứ 8 (23-2-1066), hồi vua Thánh Tông đã ngoài 40 tuổi. Một ngày sau ngày sinh thì được lập làm Thái tử, 6 tuổi vua cha mất, được tôn làm vua, tức vua Lý Nhân Tông. Vua có tướng hảo, tâm hiền, bản chất thông minh dũng lược.
09/04/2013(Xem: 6139)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con người và sự nghiệp Lý Công Uẩn. Giá trị lịch sử của một con người không chỉ ảnh hưởng đến tự thân mà dư âm giá trị lịch sử của con người đó còn ảnh hưởng trực tiếp đến muôn người khác từ thế hệ này qua thế hệ khác. Và quả thật, Vạn Hạnh Thiền sư là người có công rất lớn trong việc khai sáng ra triều đại nhà Lý thì Lý Công Uẩn là vị vua đầu tiên thực thi tinh thần Vạn Hạnh bằng tất cả sự thể nhập "Đạo Pháp - Dân tộc" trong một thực thể duy nhất.
09/04/2013(Xem: 12749)
Có lần trong tù, đói quá, Thầy Quảng Độ nằm mơ thấy được nhà bếp cho một cái bánh bao. Ăn xong thấy bụng căng thẳng, no nê, rất hạnh phúc. Sự thật là đêm ấy, trước khi đi ngủ, vì đói quá nên thấy uống nước cho đầy bụng dễ ngủ. Và Thầy đã đái dầm ra quần. Sáng hôm đó Thầy có làm một bài thơ.
09/04/2013(Xem: 6343)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu. Xuất gia và thọ cụ túc với Hòa Thượng Bổn sư là Tổ Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên Huế, sau các Pháp huynh là quý Hòa Thượng Giác Nguyên, Giác Viên, Giác Tiên, Giác Nhiên...
09/04/2013(Xem: 7484)
Từ ngày 18-23/5/1996 HT.Thích Minh Châu, Phó CT kiêm Tổng thư ký GHPGVN, Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, Hiệu trưởng trường CCPHVN... đã lên đường đến Thái Lan để nhận bằng Tiến Sĩ Phật Học Danh Dự (Honarary Doctorate Degree in Buddhist studies) tại Đại Học Phật Giáo Mahachulalongkornrajvidyalaya, Thủ đô Bangkok, Thái lan.
09/04/2013(Xem: 9785)
Thiền sư THÍCH ĐỨC NHUẬN, pháp hiệu Trí Tạng, thế danh Đồng Văn Kha, sinh ngày 14 tháng Chạp năm Quí hợi (thứ bảy, ngày 19 tháng giêng, 1924). Chính quán : làng Lạc Chính, xã Duyên Bình, huyện Trực Ninh, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Thân phụ là Đồng Văn Trung và thân mẫu là bà chính thất Hà Thị Thìn hiệu Trinh Thục (cả hai vị đều đã mãn phần). Là con thứ tư trong một gia đình thanh bần - dòng quí tộc. Ngài có 2 anh, 1 chị và 3 người em dì bào (2 trai, 1 gái).
09/04/2013(Xem: 4874)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, thế danh là Lâm Văn Tuất sinh năm 1897 (Đinh Dậu) tại thôn Hội Khánh, xã Vạn Khánh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Thân sinh là cụ Lâm Hũu Ứng và bà Nguyễn Thị Nương.
09/04/2013(Xem: 7015)
Hòa Thượng Bửu Chơn thế danh là Phạm Văn Thông, sinh năm Tân Hợi (1911) tại Sa Đéc – Đồng Tháp. Thuở thiếu thời Ngài sinh sống tại đất nước Chùa Tháp Campuchia, do đó Ngài thấm nhuần Phật Giáo Nam Tông vốn là quốc giáo của Vương quốc này. Sẵn có túc duyên Phật pháp nên vào năm 1940, Ngài xuất gia thuộc hệ phái Nam Tông. Sau đó Ngài vào rừng chấp trì hạnh đầu đà (Dhatanga) suốt mười hai năm. Năm 1951 Ngài được Phật tử Việt Nam cung thỉnh về Sài Gòn để truyền bá giáo pháp Nguyên Thủy
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567