HTThíchThanh Từ soạn dịch
TuViệnChơn Không 1971
32.-Hoằng-Nhẫn (602 - 675 T.L.)
Sưhọ Châu quê ở Châu-Kỳ thuộc huyện Huỳnh-Mai. Thuở nhỏ,Sư thông minh, xinh đẹp. Có ông thầy xem tướng khen rằng:<Đứa bé nầy có đầy đủ tướng tốt, chỉ thua Phậtbảy tướng thôi>
Nămbảy tuổi, Sư gặp Tổ Đạo-Tín độ cho xuất gia. Từ đâyvề sau, Sư theo hầu Tổ đến khi được truyền tâm ấn. KhiTổ tịch, Sư kế thừa trụ trì tại núi Phá-Đầu, giáo hóanơi đây rất thạnh hành. Khi ấy, dân chúng kính mộ tôngphong dù ở xa nghìn dặm cũng tìm đến tham học. Tại đạotràng nầy, tăng chúng thường trực không dưới năm trăm người.
Khoảngniên hiệu Hàm-Hanh (670-674 T.L.) nhà Đường, có người cưsĩ họ Lư tên Huệ-Năng từ phương Nam đến yết kiến Sư.Sư hỏi: -Ngươi từ đâu đến? Huệ-Năng thưa: -Đệ tửở Lãnh-Nam đến. –Ngươi đến ý muốn cầu việc gì? -Đệtử chỉ muốn cầu làm Phật. -Người Lãnh-Nam không có Phậttánh, làm sao làm Phật được? -Người thì có Nam Bắc, Phậttánh há có Nam Bắc sao? Sư biết là bậc lợi căn, giả vờnạt bảo: -Lại nhà sau đi! Huệ-Năng đảnh lễ, đi xuốngnhà sau lãnh phần bửa củi, giã gạo.
Mộthôm, Sư dự biết thời kỳ truyền pháp đã đến, liền gọiđồ chúng đến bảo: -Chánh pháp khó hiểu không nên nhớghi lời nói suông của ta, giữ làm nhiệm vụ của mình. Cácngươi, tùy ý mỗi người thuật một bài kệ, nếu ý ngộthầm phù hợp, ta sẽ truyền pháp và y bát.
Lúcđó, hội chúng hơn bảy trăm người, ai cũng tôn sùng thượngtọa Thần-Tú làm bực thầy. Họ đồng bảo nhau: -Nếu khôngphải Thượng-Tọa Tú, còn ai đảm đương nổi. Họ đồngnhường phần trình kệ cho Thần-Tú. Thần-Tú thầm nghe lờibàn tán của chúng như vậy, tự suy nghĩ phải làm kệ. Làmkệ xong, ban đêm ông lén biên lên vách chùa phía ngoài hànhlang: Thân thị bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thờithời cần phất thức, Mạc sử nhạ trần ai.
Dịch:Thân là cội bồ đề, Tâm như đài gương sáng, Luôn luônphải lau chùi, Chớ để dính bụi bặm.
Sángngày, Sư đi kinh hành qua thấy bài kệ, đọc qua biết là củaThần-Tú làm. Sư khen rằng: -Người đời sau, nếu y bài kệnầy tu hành cũng được thắng quả. Toàn chúng đều đua nhauđọc tụng. Ở nhà trù, Huệ-Năng đang giã gạo, có một ôngđạo đi qua tụng bài kệ ấy. Hỏi ra biết của Thần-Túlàm, Huệ-Năng bèn nhờ dẫn đến chỗ biên kệ đảnh lễ,đồng thời nhờ biên giùm một bài kệ hòa lại: Bồ đềbổn vô thọ, Minh cảnh diệc phi đài, Bổn lai vô nhất vật,Hà xứ nhạ trần ai.
Dịch:Bồ đề vốn không cội, Gương sáng cũng chẳng đài, Xưanay không một vật, Chỗ nào dính trần ai.
Sưthấy bài kệ nầy thầm nhận, song không dám nói sợ e cóngười tật đố hại Huệ-Năng. Sư bôi, nói: -Ai làm bài kệnầy cũng chưa thấy tánh. Sư bèn gọi Huệ-Năng nửa đêmvào thất. Sư lấy y che xung quanh thất, giảng kinh Kim-Cang choHuệ-Năng nghe. Đến câu < Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm>, Huệ-Năng bừng ngộ, Sư dạy:
-ChưPhật ra đời chỉ vì một đại sự nhân duyên, bởi chúngsanh căn cơ có lớn nhỏ, tùy đó hướng dẫn, mới có nóira ba thừa, mười địa đốn tiệm, gọi đó là giáo môn.Như-Lai riêng đem chánh pháp nhãn tạng vô thượng chơn thậtvi diệu trao cho Tổ Ma-Ha-Ca-Diếp, lần lượt truyền đếnđời thứ 28 là Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma. Tổ Đạt-Ma sang Trung-Quốctruyền nối đến đời ta, nay ta đem đại pháp và y bát đãthọ trao lại cho ngươi. Ngươi phải gắng gìn giữ truyềntrao đừng cho bặt dứt. Nghe ta nói kệ: Hữu tình lai hạ chủng,Nhơn địa quả hoàn sanh, Vô tình ký vô chủng, Vô tánh diệcvô sanh.
Dịch:Hữu tình đến gieo giống, Nhơn đất quả lại sanh, Vô tìnhđã không giống, Không tánh cũng không sanh.
Huệ-Năngthọ pháp và y bát xong, lễ bái thưa: -Pháp đã nghe dạy, còny bát có nên truyền cho người sau chăng? Sư bảo:
-XưaTổ Đạt-Ma sang là người nước khác, truyền pháp cho TổHuệ-Khả, vẫn ngại người đời không tin sự truyền thừacủa thầy trò, nên lấy y bát truyền cho để làm tín nghiệm.Nay tông môn của ta thiên hạ đều biết rõ, không còn ai chẳngtin, nên y bát dừng ngay đời ngươi. Song chánh pháp đến đờingươi truyền bá càng rộng, nếu còn truyền y sẽ sanh sựtranh giành. Cho nên nói: <người nhận y mạng như chỉ mành>. Ngươi nên đi liền, khéo tránh, thời gian sau sẽ ra hoằnghóa.
Huệ-Nănglại hỏi: -Nay con phải đi về đâu? Sư bảo: -Đến Hoàithì dừng, gặp Hội thì ẩn. Huệ-Năng lãnh dạy, lễ tạrồi ra đi ngay đêm ấy. Sau khi truyền pháp, liên tiếp ba hôm,Sư không thượng đường thuyết pháp. Toàn chúng đều nghingờ, đồng đến thưa thỉnh. Sư bảo: -Pháp của ta đã đivề phương Nam rồi. Giờ lại nói gì? Chúng thưa: -Ngườinào được? Sư bảo: -Năng thì được đó. Chúng biết làcư sĩ Huệ-Năng. Họ đồng đuổi theo, song tìm không gặp.
Bốnnăm sau, một hôm chợt Sư gọi đại chúng bảo: -Việc ta đãxong, đến lúc nên đi. Sư vào trong thất ngồi an nhiên thịtịch, nhằm niên hiệu Thượng Nguyên thứ hai (675 T.L.) nhàĐường, thọ 74 tuổi. Chúng xây tháp ở Đông-Sơn huyện Huỳnh-Maitôn thờ. Vua Đường-Đại-Tông truy phong là Đại-Mãn ThiềnSư, tháp hiệu Pháp-Võ.
Sưcó trước tác tập <Tối thượng thừa luận>.hiện giờcòn lưu hành. Sư được ba đệ tử ưu tú: Huệ-Năng, Thần-Tú,Huệ-An.