Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

[05]

24/05/201320:02(Xem: 3562)
[05]


Một cuộc đời, một ngôi sao
(Truyện Ngài Xá-Lợi-Phất)

Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Huế 1996
---o0o---

[05]



Với trưởng giả Tu-Đạt

Tăng chúng mấy hôm nay bàn tán xôn xao về chuyện ông triệu phú ở Xá-Vệ (Sàvatthi), đó là trưởng giả Tu-Đạt (Sudatta).

Sau khi nghe pháp từ Đức Thế Tôn, ông triệu phú, chứng quả Tu-Đà-Huờn. Niềm hân hoan sung sướng trong đời chưa từng có đã đến với ông - trưởng giả Tu-Đạt ngõ lời cung thỉnh Đức Phật và Chư Tăng về Xá-Vệ, quê hương ông để hoằng dương Chánh Giáo. Ông sẽ cúng dường đất và thiết lập tịnh xá để Đức Phật và Tăng chúng có chỗ tịnh cư. Đức Phật hướng tâm đến, biết đây là nhân duyên rất lớn; Xá-Vệ chính là thủ phủ sau này của Giáo Pháp nên Ngài đã im lặng nhận lời. Tuy nhiên, Đức Phật có gợi ý rằng, Ngài và Tăng chúng thường ưa chỗ vắng vẻ, không gần cũng không xa thành phố. Thế là trưởng giả Tu-Đạt mừng vui hớn hở trở lại quê nhà tìm đất. Suốt mấy ngày cùng với phụ tá, gia nhân rảo khắp tất cả miền ngoại ô Xá-Vệ ông chỉ tìm thấy được một khoảng đất vừa ý. Ở đây có núi đồi nhấp nhô, nước suối ngọt ngào mát lạnh tỏa nức mùi hương. Từng khoảng rừng suốt ngày im bóng bởi những tàn cổ thụ xanh um; cây lá phong phú sắc màu, kỳ hoa dị thảo đua nở khắp nơi. Xuyên trong rừng là những khoảng trống lớn nhỏ có thể làm nơi tụ họp hoặc hành thiền cả hàng trăm người. Lại có những tảng đá bằng phẳng, liền lạc nối dài cả hai ba chục đòn gánh chạy trong một thung lũng im mát. Suốt ngày gió hát chim ca, mù sương khi đậm khi nhạt, mây trắng vắt ngang đầu núi. Ôi! Quả thật là sơn thủy hữu tình, khí linh thiêng hội tụ chờ đợi đâu từ ngàn năm để chào đón bước chân của đấng vĩ nhân xuất thế!

Nhưng khu rừng xinh đẹp ấy lại là của hoàng tộc. Hoàng thân Kỳ-Đà (Jeta) là sở hữu chủ, dự định sẽ biến cải khu rừng này làm nơi di dưỡng tuổi già! Khó khăn làm sao! Trưởng giả Tu-Đạt khăn áo chỉnh tề đến xá lạy hoàng thân Kỳ-Đà ngõ ý muốn hoàng thân chuyển nhượng cho miếng đất ấy.

- Tôi không dám mua đâu, thưa hoàng thân! Hoàng thân tiền rừng bạc bể còn chúng tôi là hạng dân dã thật chẳng dám cao vọng. Chỉ xin hoàng thân mở lượng hải hà mà chuyển nhượng cho tôi vì tôi muốn làm một công việc quan trọng nhất trong đời tôi.

Hoàng thân Kỳ-Đà ngẩng đầu lên, trả lời:

- Ta cũng không dám đâu, thưa ngài triệu phú. Ở Xá-Vệ này chẳng nơi nào đẹp và quí bằng khu rừng của ta. Ngài triệu phú phải biết rằng đất ở đấy, nước ở đấy, cây lá ở đấy đều tỏa mùi hương,; mùa đông không lạnh, mùa hè không nóng, ngài biết chứ?

- Dạ biết, thưa hoàng thân!

Hoàng thân Kỳ-Đà cao giọng:

- Vậy sao ngài triệu phú còn đòi mua? Ta biết ngài triệu phú giàu sang nức tiếng mấy đời, nếu ngài có khả năng thì cứ lấy vàng mà đổi đất, ta sẽ bán cho.

Trưởng giả Tu-Đạt hớn hở:

- Thưa hoàng thân, đổi như thế nào ạ?

- Suối không kể, đá không kể, chỉ tính là đất thôi - ngài lấy vàng lát cho đầy mặt đất, vàng lát đến đâu là đất ta bán cho ngài đến đó!

- Đồng ý. Tôi sẽ mua với giá như vậy. Tôi biết hoàng thân là người trọng tín nghĩa nổi danh ở đất Xá-Vệ này, một lời nói ra xem nặng bằng non!

Thế là suốt mấy ngày ròng rã, trưởng giả Tu-Đạt với hàng trăm gia nhân hì hục vận chuyển vàng từ kho này sang kho khác, những mong lấp cho đầy đất, mua trọn cả khu rừng để cúng dường đến Đức Thế Tôn và Tăng chúng.

Hoàng thân Kỳ-Đà không ngờ chuyện nói chơi mà thành thật. Ông vội vã cho thắng ngựa đến nơi xem. Ngạc nhiên làm sao, từ khu đất này sang khu đất khác, vàng đã được lát đầy, sít sao không có kẽ hở! Và kìa, trưởng giả Tu-Đạt đang đứng trầm ngâm nhìn ngắm những gốc cây cổ thụ.

Hoàng thân Kỳ-Đà mỉm cười:

- Sao? Đắt quá phải không? Ta không cần vàng đâu, ngài triệu phú! Hãy rút lời lại đi, cũng không muộn mà!

- Dạ, không ạ! Thưa hoàng thân! Tôi không dám nghĩ là đắt đâu! Tôi đang tính toán là vàng phải lát như thế nào ở nơi những gốc cổ thụ choáng đất kia!

Hoàng thân Kỳ-Đà mở lớn mắt, ông không còn dám tin vào tai của mình nữa. Quả có chuyện kỳ lạ như vậy ư? Ông triệu phú này điên khùng hay sao mà dám coi vàng còn tệ hơn đất cục? Đồng ý là đất này quí nhưng cũng không thể quí bằng vàng được! Từ ngạc nhiên đến tò mò, hoàng thân bèn cặn kẽ hỏi lý do. Trưởng giả Tu-Đạt cũng tự sự đầu đuôi kể cho hoàng thân nghe về Đức Thế Tôn và Tăng chúng. Ông cũng không quên kể chuyện là vua Bình Sa đã qui y Đức Thế Tôn, cúng dường Trúc Lâm tịnh xá như thế nào. Riêng ông thì được nghe pháp và sự chuyển hóa lạ lùng, sự bình an lạ lùng xảy ra trong tâm ông ra sao!

Hoàng thân Kỳ-Đà chăm chú lắng nghe, tự nghĩ:

"- Ông Phật, qua đó chắc là một vị đạo cao đức trọng, một vị Thánh đang xuất hiện ở đời này. Ông triệu phú đã làm một việc có ý nghĩa vĩ đại. Ông ta là hạng dân dã mà dám phát tâm cao thượng - còn ta, ta cũng nên đóng góp vào đấy một chút công đức."

Bèn nói:

- Thôi! Ngài triệu phú đừng tính vàng nơi mấy gốc cây kia nữa, nhiều lắm đấy! Ngài cúng dường đất đến Đức Phật và Tăng chúng còn ta thì xin được cúng dường cây. Đất là của ngài triệu phú, còn cây là của Kỳ-Đà này, được chăng? (*)

(*) Vì tích này nên Kỳ Viên tịnh xá còn được gọi là Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên (Kỳ thọ: cây của Kỳ Đà; Cấp Cô Độc viên: vườn của Cấp Cô Độc)

Trưởng giả Tu-Đạt xiết bao mừng rỡ.

Sau khi mua đất xong xuôi, đã được Đức Vua đóng dấu có triện son, trưởng giả Tu-Đạt tức tốc trở lại Trúc Lâm tịnh xá tâu bạch mọi sự cho Đức Phật hay. Cũng như Vua Bình Sa kiến thiết Trúc Lâm tịnh xá, trưởng giả Tu-Đạt muốn cúng dường một công trình xây dựng thật quy mô nên xin Đức Thế Tôn góp ý chỉ đạo. Sau đó ông còn tâu trình việc khác nữa:

- Bạch Đức Thế Tôn! Xá-Vệ là một thành phố giàu mạnh ở phương Bắc, dân cư đông đúc, mức sống khá cao, tuy thế so với Vương-Xá thành thì nó chỉ là vùng biên địa xa xôi, nhân dân tuy bản chất thuần hậu nhưng còn mọi rợ. Lại nữa, đấy là chỗ mà bàng môn tả đạo đang lộng hành. Khắp thành phố, bọn ngoại đạo nghênh ngang làm tiền, mê hoặc dân đen ngu muội, cuồng tín bằng những phép lạ, bùa chú, ngãi nghệ, thuật số... cùng hàng trăm cách cúng tế khác nhau. Thần linh đủ loại ngồi đầy mọi nơi, mọi chỗ. Quanh năm thiên hạ cúng tế đầu súc vật, hiến tế máu, trái cây, trầm hương nghi ngút. Họ tu ngồi xổm, hai tay ôm đầu và nhảy. Họ tu quét đất, nằm ra đất mà lạy mà bò. Họ tu lõa thể, đi tồng ngồng chỗ này chỗ kia, thấy tóc, râu, lông chứ không thấy mặt mũi. Họ tu hạnh nằm giữa đất, ăn trên đất chứ không ăn trong lá chuối. Họ ngồi trong vũng bùn, cống rãnh. Họ treo ngược người lên cây và ăn mỗi ngày từng hạt, từng trái lượm được. Họ sống vinh thân phì da với năm mụ vợ, mười mụ vợ mà thuyết con đường về với Phạm thể. Họ độc quyền về ma chay, cưới hỏi, các cuộc hội lễ với thần linh, ngày tốt xấu, hướng nhà, hướng cửa... với những giá cắt cổ, bóp hầu thâu họng...

Bạch Đức Thế Tôn! Có lẽ do duyên lành vạn kiếp, mặc dầu bị bên này vận động, bên kia tuyên truyền, con vẫn trơ trơ không theo bọn chúng, không ngã theo đạo nào! Nhờ vậy con mới gặp được Đức Thế Tôn, được nghe Giáo Pháp trong sáng và lành mạnh. Cũng vậy, thành phố Xá-Vệ, quê hương của con cần thiết phải có mặt Giáo Pháp vô thượng của Đức Thế Tôn. Rác và bụi trong mắt mọi người cần phải được quét sạch. Cuồng tín và ngu si cần phải được trí tuệ rọi sáng. Những hôi hám, dơ dáy trong mọi sinh hoạt tinh thần cần phải được làm cho sạch sẽ, thanh tịnh...

Bạch Đức Thế Tôn! Phi Đức Thế Tôn! Không ai ngoài Đức Thế Tôn cùng các Ngài Trưởng lão Đại Trí Tuệ, Đại Thần Thông... là có thể khuất phục được chúng ngoại đạo. Ở Xá-Vệ có nhiều khó khăn và phức tạp khi đặt viên đá đầu tiên xây dựng cũng như sự phát triển sau này của Giáo Pháp.

Đức Phật chăm chú lắng nghe tất cả lời tâu trình rõ ràng và mạch lạc của trưởng giả Tu-Đạt; Ngài biết là ông ta nói rất đúng, rất chính xác, bèn quay qua Tôn giả Xá-Lợi-Phất:

- Này Xá-Lợi-Phất! Ông nghe rõ về tất cả mọi điều mà ông trưởng giả Tu-Đạt vừa nói đó chứ? Đấy là tất cả sự thật ở Xá-Vệ. Khó khăn lắm đấy!

- Thưa vâng, bạch Đức Thế Tôn!

Đức Phật tiếp lời:

- Như Lai muốn ông hãy đi đến Xá-Vệ, góp ý với ông Tu-Đạt trong việc kiến thiết, xây dựng. Còn việc đối phó, giao tiếp với chúng ngoại đạo thì ông cứ tùy nghi linh động giải quyết. Bất cứ sự cảm hóa, cải thiện, đổi mới nào - mặc dầu là có lợi ích - vẫn bị sự chống đối, phá hoại, phỉ báng từ nhiều phía. Đấy là cái đương nhiên phải xảy ra. Đừng mong là thuyền ra khơi luôn được thuận buồm xuôi gió, trời trong biển lặng! Đừng hy vọng hảo huyền là con đường đi của Giáo Pháp chơn chánh trên đời này sẽ được lót bằng những tấm thảm nhung! Con người không dễ dàng gì thay đổi một thói quen, nhất là những thói quen đã biến thành hình thức, tập quán ăn sâu, cắm rễ trong truyền thống từ đời này sang kiếp nọ! Này Xá-Lợi-Phất! Giáo Pháp giác ngộ, giải thoát cần phải được xiển dương, cần phải được tăng trưởng, lớn mạnh, phát triển. Cần phải đi vào lòng người và lòng xã hội. Giáo Pháp của tự do và trí tuệ phải là ánh sáng, là ngọn đèn dẫn đường cho những tâm thức nô lệ, yếu hèn và ngu muội. Hãy giương cao ngọn cờ munja! Hãy giương cao ngọn cờ của bậc thiện trí! Hãy vô vi, vô dục, mở rộng tấm lòng từ bi quảng đại! Hãy bình lặng như đất, kham nhẫn như đất - tùy duyên mà giáo hóa sinh quần!

Này Xá-Lợi-Phất! Hãy nghiêng vai mà nhận lãnh trách nhiệm ấy, khó khăn ấy - tất cả, Như Lai giao phó cho ông. Chừng bốn, năm tháng nữa, trước mùa mưa, Như Lai và Tăng chúng trên một ngàn vị sẽ đến đấy để an cư!

Đức Phật chỉ dạy như vậy, Tôn giả Xá-Lợi-Phất đã nắm rõ toàn bộ vấn đề. Ngài tóm tắt trong óc mình như sau:

"- Vậy là có tất cả ba vấn đề chính yếu. Việc thứ nhất là sẵn sàng luận tranh với bọn luận sư ngoại đạo nhiều môi mép và miệng lưỡi; phải làm cho chúng tâm phục, khẩu phục Giáo Pháp Vô Thượng của Đức Tôn Sư. Thứ hai là phải đối trị với những phép lạ lòe đời của chúng ngoại đạo. Và thứ ba là góp ý xây dựng công trình kiến trúc!"

Đến đây, một ý nghĩ khác lại khởi sanh trong tâm của Tôn giả:

"- Nghe nói chúng ngoại đạo ở đây thần thông, phép lạ, pháp thuật cao cường, nhưng tại sao Đức Tôn Sư không cho Đại Mục-Kiền-Liên đi cùng? Tuy nhiên, một Đấng Toàn Tri Diệu Giác khi làm một việc gì là đã suy nghĩ chu đáo, rốt ráo ta không cần phải thắc mắc nữa!"

* * *

Từ Vương-Xá thành đến Xá-Vệ có rất nhiều lối đi, nhưng theo đường bộ, men dọc sông Hằng, vượt lên phía Bắc là con đường mà khách thương hằng lui tới. Đây là con đường đi qua nhiều quốc độ có ít trộm cướp, thú dữ, độc trùng, mãng xà. Ông trưởng giả Tu-Đạt chọn lộ trình này mà Đức Phật và Tăng chúng cũng thường đi theo lối này.

Tôn giả Xá-Lợi-Phất đắp y, mang bát đến đảnh lễ Đức Phật lúc sao mai còn vằng vặc trên trời.

- Này Xá-Lợi-Phất! Như Lai tin tưởng ở nơi ông. Xá-Vệ sau này sẽ là kinh đô lâu dài cho Giáo Pháp, vậy ông hãy kham nhẫn mà chu toàn mọi công việc thay mặt cho Như Lai!

- Đức Tôn Sư dạy bảo gì cho đệ tử nữa không?

- Không, chỉ vậy là đủ.

Đức Đại Mục-Kiền-Liên, Đức Đại Ca-Diếp, Đức Ànanda, Đức Đề-Bà-Đạt-Đa cũng đến tiễn chân Tôn giả Xá-Lợi-Phất từ rất sớm.

- Đường bộ hành xa xôi diệu vợi, Tôn giả hãy bảo trọng.

- Sớm mong gặp lại Tôn giả để nghe lời nhắc nhở, chỉ dạy.

Chư tôn Trưởng lão ai cũng mến mộ Ngài Xá-Lợi-Phất, nói lời tiễn biệt: Ngài ân cần đáp lễ:

- Chư hiền, chư hiền cũng ráng bảo trọng, hầu hạ Đức Tôn Sư! Xá-Lợi-Phất tôi là ai mà dám mất thì giờ của chư hiền đến vậy!

Đặc biệt hôm đó Tôn giả nắm tay Ngài Ànanda:

- Hiền đệ rất được Đức Tôn Sư tán thán về sự nghe nhiều học rộng. Trong thời gian tôi đi vắng, nhờ hiền đệ chăm chút dạy bảo đám học trò chung của chúng ta, ước chừng đến hôm nay đã có mấy trăm tỳ-khưu, sa-di trẻ rồi.

- Thưa vâng, con sẽ tuân mạng!

Tôn giả lại nắm tay Đề-Bà-Đạt-Đa:

- Tôi đã nhiều lần gặp hai hàng cư sĩ áo trắng ở Vương-Xá thành để ca ngợi, tán thán giới hạnh tinh nghiêm, trong sáng của Đại Đức. Tôi thật rất sung sướng và hoan hỷ mà ca tụng tài đức, thanh danh của Đại Đức lan xa nhiều quốc độ; để hàng hậu học noi gương, để cận sự nam, cận sự nữ phát khởi lòng tin.

- Tôi thật chưa xứng đáng để Trưởng lão quan tâm ưu ái như vậy. Tôi nguyện sẽ cố gắng để khỏi phụ lòng Trưởng lão.

Sau đó Tôn giả Xá-Lợi-Phất xá lễ, quay lưng theo lối mòn thiên lý, an trú chánh niệm trước mặt và cất bước.

Từ vệ đường, một chiếc xe hai ngựa đổ lại và trưởng giả Tu-Đạt bước xuống.

- Cung thỉnh Đại Đức Trưởng lão lên chiếc xe của con.

Tôn giả Xá-Lợi-Phất vẫn ôm bát đứng yên lặng.

Trưởng giả Tu-Đạt lại thưa:

- Đường sá xa xôi, mưa nắng thất thường, đầu thì đội trời, chân đạp đất; Trưởng lão chẳng có gì che chắn sức khỏe cho mình cả. Xin Trưởng lão hãy hoan hỷ bước lên xe.

Tôn giả Xá-Lợi-Phất nói:

- Trưởng giả đừng lo cho tôi, sức khỏe của tôi còn tốt. Vả lại Đức Tôn Sư có dạy rằng: "Này tỳ-khưu! Hãy nhìn con thiên nga kia, nó đã lìa khỏi ao hồ tù đọng để thênh thang giữa trời cao bể rộng! Các thầy cũng vậy! Các thầy đã có chiếc mỏ là bình bát, lá y là đôi cánh; các thầy cũng tự do thênh thang ra đi, lòng như mây trắng không vướng một chút gì trên trần thế, ăn cơm ngàn nhà, đến muôn phương mà giáo hóa sinh quần."

Trưởng giả Tu-Đạt kính cẩn chấp tay lắng nghe.

Tôn giả Xá-Lợi-Phất lại tiếp:

- Ông là cư sĩ, lại lớn tuổi hơn ta, ông có thể ngồi trên xe ngựa mà đi, điều ấy là hợp pháp, chẳng ai chê cười cả. Còn ta thì khác, ta là thầy tỳ-khưu ôm bát đi xin ăn, ở trong một Giáo Hội tự nguyện sống đời vô sản bần cùng; ta đã có mỏ, có cánh để lên đường, ông khỏi lo cho ta! Lại nữa, Đức Thế Tôn sẽ không cho phép ta đi xe, đi ngựa; giới luật không cho phép, thế gian không cho phép - mà chính ta, ta cũng không cho phép. Vậy ông hãy lên đường trước, hẹn gặp nhau ở Xá-Vệ.

Trưởng giả Tu-Đạt bây giờ mới hiểu điều đó:

- Thế thì con cũng vậy, mặc dù chỉ là cư sĩ sơ cơ, từ rày con cũng không cho phép mình ngồi trên xe cho ngựa kéo.

Nói xong, ông Tu-Đạt hối hả mang cả chiếc xe ngựa tặng cho một gia đình nông dân nghèo bên đường, rồi khoác tay nải, hớn hở bước theo chân Đức Xá-Lợi-Phất.

Thế là thầy trò lên đường, ngày đi đêm nghỉ. Ông trưởng giả Tu-Đạt có nhiều cơ hội để hỏi chuyện, cơ man nào là chuyện trong những khi rảnh rỗi. Tôn giả Xá-Lợi-Phất cũng sẵn lòng giải đáp mọi điều cho vị Thánh cư sĩ tò mò, ham học hỏi này.

Mặt trời lên chừng ba con sào, dừng chân bên một bóng cây, Tôn giả Xá-Lợi-Phất nói:

- Bây giờ ta sẽ vào xóm nhà kia để làm bổn phận xin ăn của một thầy tỳ-khưu. Trưởng giả hoặc là đi trước hoặc là đợi chờ ở đây thì tùy vậy.

- Bạch Trưởng lão - Ông Tu-Đạt ngần ngừ - con có một ước muốn...

- Ông cứ nói.

- Con muốn đặt bát cho Trưởng lão. Dâng vật thực, nước uống, tăm xỉa răng đến cho Trưởng lão vào mỗi buổi trưa, trước giờ ngọ, tại chỗ dừng chân, được chăng?

- Nếu có lời thỉnh cầu của ông cư sĩ thì được, tuy nhiên, không được quá ba bữa.

- Thưa, con chưa hiểu.

- Đó là do lời nguyện của ta, ta muốn đi nhiều nơi để gieo duyên cho nhiều người.

- Vậy thì con không thể thỉnh mời luôn?

- Này ông Tu-Đạt! Đã có trường hợp thí chủ thỉnh mời Đức Thế Tôn và Tăng chúng để hộ độ trong suốt mùa an cư. Tăng chúng thì có thể, nhưng Đức Thế Tôn hằng ngày thường muốn đi hóa độ nhiều nơi. Ngài chỉ nhận một bữa thôi.

Trưởng giả Tu-Đạt vậy là đã hiểu. Quý Ngài muốn cho nhiều người phát tâm cúng dường để họ được gieo duyên, tạo nghiệp lành cho chính họ. Đến trưa, ông làm bổn phận của một đệ tử mà cảm thấy niềm hân hoan, mát mẻ dâng ngập cả tâm hồn. Thấy Tôn giả Xá-Lợi-Phất với bình bát bên chân, định tỉnh, an trú niệm, từ tốn, chậm rãi độ thực; ông tự nghĩ trong tâm:

"- Ôi! Quý Ngài cao thượng xiết bao! Người ta dâng cúng vật gì quý Ngài dùng thứ ấy, tuyệt đối không đòi hỏi, không gợi ý bao giờ! Xem kìa! Ta chưa thấy ai vo từng miếng cơm cẩn trọng, nhai cẩn trọng, nuốt cẩn trọng như vậy. Tất cả ở nơi Ngài đều toát ra sự cẩn trọng và vắng lặng một cách lạ lùng."

Khi ông Tu-Đạt cất đặt mọi thứ xong xuôi, Tôn giả Xá-Lợi-Phất nhẹ tay đặt lên vai ông:

- Phải cẩn trọng chứ ông Tu-Đạt! Vật thực kia chính là do ân đức của xã hội, chúng sanh mà có. Khi dùng vật thực, thầy tỳ-khưu phải hiểu rằng nó chỉ để nuôi mạng, để được mạnh khỏe mà tu học, chứ không phải để cho béo tốt, để mà phô phang bắp tay bắp chân như kẻ vũ phu...

- Thưa vâng!

- Lại còn biết dừng nơi chỗ vừa đủ, đừng no quá nữa, ông Tu-Đạt!

- Thưa vâng!

Một lát ông Tu-Đạt lại hỏi:

- Đức Thế Tôn và Tăng chúng có khi nào bị đói không, bạch Trưởng lão?

- Chuyện ấy không phải là không xảy ra! Như cách đây hai năm, tại Veranjà có nạn đói, suốt ba tháng nhập hạ ở đó, Đức Thế Tôn và năm trăm vị tỳ-khưu đã chia sớt nhau chút ít thức ăn của ngựa do người lái ngựa có lòng tốt dâng cúng.

Ông Tu-Đạt tự nghĩ:

"- Sau này, khi thỉnh Đức Thế Tôn và Tăng chúng về quê nhà, ta sẽ bỏ ra tất cả gia tài để chăm lo vật thực cho đầy đủ, mấy ngàn vị cũng được. Ta quyết không để cho Đức Thế Tôn và Tăng chúng thiếu thốn bất cứ vật gì. Sức khỏe của quý Ngài chính là hạnh phúc cho tất cả chúng sanh."

Rồi lại hỏi:

- Đã có khi nào Đức Thế Tôn an cư một mình mà không có ai hầu hạ, không có người lo lắng vật thực không, thưa Trưởng lão?

- Có đấy! Ông Tu-Đạt! Một lần Đức Tôn Sư nhập hạ một mình trong rừng, một lần Đức Tôn Sư nhập hạ trên cõi trời Đao Lợi.

- Con muốn nghe cho rõ ràng.

- Năm ấy tại Kosambi có hai nhóm tỳ-khưu cứng đầu, tranh cãi, tranh luận về kinh và luật rất là ồn ào, nhiệt não. Đức Thế Tôn đã đi vào rừng Pàrileyyaka để an cư một mình.

- Vậy thì phải làm sao?

- Có làm sao đâu mà ông lo lắng? Ở rừng, Đức Thế Tôn có hai thí chủ dâng cúng trái cây và nước uống hằng ngày. Đấy là một con voi chúa và một con khỉ chúa, chính chúng cũng đã chán nản bầy đàn nên vào đấy để tỉnh cư một mình!

- Thật là kỳ diệu!

- Còn vào hạ thứ bảy thì Đức Thế Tôn lên cõi trời Đao-Lợi, thuyết pháp độ cho Phật mẫu để đáp đền công ơn sinh thành.

- Thật là kỳ diệu, thưa Tôn giả! Cõi trời ấy ở đâu? Đức Thế Tôn lên xuống ra sao? Thuyết pháp ra sao? Xin Tôn giả bi mẫn giải thích.

- Từ từ đã ông Tu-Đạt - Ngài ưu ái nhìn ông - từ từ ta sẽ kể cho ông nghe

Rồi Tôn giả kể:

- Khi hoàng hậu Ma-Gia hạ sanh hoàng tử Sĩ-Đạt-Ta được bảy ngày thì hoàng hậu hóa sanh lên cõi trời Đâu-Suất làm một Chư Thiên nam. Cõi trời ấy gọi là Đệ Tứ Thiên Đường, một ngày ở đấy bằng bốn trăm năm ở nhân gian, và những hạnh phúc vật chất thì người đời không thể tưởng tượng được. Cõi trời Đao-Lợi thì gọi là Đệ Nhị Thiên Đường, có cả thảy ba mươi ba tòa cung điện nên có tên là Cõi Trời Ba Mươi Ba. Cai quản cung trời này là Thiên Vương Đế Thích mà nhân gian thường gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế, ông ta cũng là đệ tử của Đức Tôn Sư. Một ngày ở đấy bằng một trăm năm tại Châu Diêm Phù Đề này. Phước báu Trời Đao-Lợi tuy không bằng trời Đâu-Suất nhưng cũng gấp ngàn lần ở nhân gian...

Trưởng giả Tu-Đạt thốt lên:

- Thật là kỳ lạ!

- Chư Thiên có sắc thân rất vi tế, nên người đời thường không thể thấy được. Tuổi thọ của họ dài lâu, hình hài thay đổi rất chậm nên không thể giảng đạo, nói pháp về lý vô thường, khổ não. Vì tâm của họ quá tế vi nên Đức Tôn Sư phải giảng pháp vi tế - đấy là Tạng Luận - nói về những diễn tiến của tâm, con đường đi của tâm, những tâm vương, tâm sở, sanh diệt, nhân quả của các trạng thái tâm ấy. Mỗi ngày, Đức Thế Tôn giảng ở cung trời Đao-Lợi. Vị trời, tiền thân là Hoàng hậu Ma-Gia - từ Đâu-Suất bay sang nghe; sau hạ ấy Phật mẫu đắc quả Tu-Đà-Huờn!

Trưởng giả Tu-Đạt cứ ngẩn ngơ nhìn trời, sau đó lại hỏi:

- Loài người có nghe được Tạng Luận ấy không, thưa Tôn giả?

- Được chứ! Đức Thế Tôn có năng lực thần thông vô lượng vô biên. Cứ sau mỗi thời giảng, Đức Thế Tôn xuống trần tóm tắt tinh yếu lại cho ta và ta giảng rộng ra cho đại chúng nghe. Suốt ba tháng ở nhân gian, Đức Thế Tôn giảng xong Tạng Luận.

- Thật là lạ lùng! Thật là cao siêu!

Tối đến, bất kỳ nghỉ ở đâu, Tôn giả Xá-Lợi-Phất cũng tọa thiền. Đôi khi Ngài trú định suốt đêm. Thi thoảng Ngài nằm nghiêng lưng vào trước canh ba, quay đầu về hướng Trúc Lâm tịnh xá - nơi có Đức Thế Tôn và Trưởng lão Assaji ngự. Vào cuối canh ba, Tôn giả đi kinh hành cho đến sáng.

Trưởng giả Tu-Đạt lại được dịp tò mò chiêm ngưỡng. Ông ngạc nhiên sao vị Đại Đức này dường như không ngủ hay ít ngủ mà thần sắc lại tươi tỉnh, hồng nhuận như vậy!

Tôn giả lại phải giải thích:

- Ta đã ngủ rất sâu đấy, ông Tu-Đạt! Thiền định chính là sự nghỉ ngơi hoàn toàn của thân và tâm! Một khắc của thiền định bổ dưỡng cho sức khỏe con người hơn cả một đêm ngủ ngon, không mộng mị!

Sống bên cạnh vị Thánh, lúc nào ông trưởng giả cũng thấy mát mẻ, an lành, và đức tin, niềm kính trọng đối với Tam Bảo ngày càng lớn mạnh ở trong ông.

Hôm kia, sau khi Tôn giả Xá-Lợi-Phất đi bát về, họ dùng ngọ dưới một cội si già vươn tán rộng che phủ cả bến nước sông Hằng thì gặp một đám tang rất lớn. Người ta bỏ thi thể trên một cái giàn bằng cây, phủ vải trắng và phủ rất nhiều hoa. Một đám phu khiêng chừng vài mươi người đi giữa, bên sau là bà con cùng thân nhân quyến thuộc. Xung quanh và trước là mấy chục tu sĩ Bà la môn ăn mặc sang trọng, đầu quấn khăn trắng, chân đi giày và tất màu trắng. Trước nữa là một đám rước có dù, lọng các vị thần tôn trí trong mấy kiệu hoa, được đám nghệ sĩ ăn mặc sặc sỡ, diêm dúa tháp tùng, đánh trống, thổi kèn. Lại có cả mười cô vũ nữ nhà nghề ở trong các đền tế vừa đi vừa múa các vũ điệu huyền bí của thần linh...

Không có một tiếng khóc. Đám tang mà giống một cuộc hội tế, một cuộc vui! Rõ ràng là thân nhân quyến thuộc không phải đưa một đám ma vào cõi chết với những hình ảnh ghê rợn của Diêm Chúa cùng lũ đầu trâu mặt ngựa mà họ đang cung tiễn một linh hồn đến nơi an nghỉ cực lạc vĩnh hằng!

Đến bến nước, mọi người dạt ra, họ đặt thi thể xuống. Vũ, kèn, trống tạm ngưng và giọng tụng kinh trầm bỗng vang lên. Đám phu khiêng, bây giờ, cột xung quanh giàn gỗ những thân chuối to, bưng từ từ xuống bến nước rồi thả nổi giữa sông. Tiếng kinh, lời cầu nguyện vang lên không ngớt trong lúc chiếc bè thi thể dần dần trôi ra giữa giòng... Những tiếng "aum, aum" tha thiết, thành kính bốc lên cao, lan giữa sông nước, vọng thấu trời xanh...

Vị tu sĩ trưởng Bà la môn chủ tế, đầu đội mũ đỏ, khăn đỏ, áo đỏ; chấp tay xướng, rồi tất cả tu sĩ Bà la môn cùng tụng theo với nội dung như sau:

- Hỡi Đấng Rama! Thượng Đế Hằng Sinh! Là cha của muôn loài! Xin Ngài rủ lòng thương xót con cái Ngài! Xin Ngài tiếp độ vong linh! Xin Ngài tiếp dẫn vong linh! Xin Ngài phóng hào quang soi đường đưa vong linh đến cõi thiên đường cực lạc! Aum, aum!

Trưởng giả Tu-Đạt quay sang Tôn giả Xá-Lợi-Phất, hỏi rằng:

- Họ thành kính cầu nguyện như vậy mà Đấng Rama có tiếp dẫn họ không, thưa Tôn giả?

- Thượng Đế với nghĩa hằng sinh như vậy thì không có đâu, ông Tu-Đạt! Có thể đấy là Ngọc Hoàng Thượng Đế trong quan niệm nhân gian. Có thể đấy là vị Phạm Thiên tối cao trong truyền thống tôn giáo của họ. Các vị ấy chỉ là vị trời thôi, một chúng sanh do phước báu hóa sanh hoặc do đắc định hóa sanh. Các vị thiên ấy rồi cũng phải chết, hết phước báu thì họ phải tái sinh trong sáu đường như tất cả chúng sanh khác. Chính họ cũng chưa cứu được mình huống hồ tiếp dẫn cho ai!

- Cầu nguyện như vậy có năng lực không, thưa Trưởng lão?

- Không có năng lực nào vượt thoát ngoài năng lực của nghiệp, này ông Tu-Đạt!

- Xin Trưởng lão giảng rộng cho con nghe.

- Vâng! Ví như chiếc bè thi thể kia là một tảng đá nặng ngàn cân. Nếu ở bên này sông một trăm thầy Bà la môn, bên kia sông một trăm thầy Bà la môn nhất tâm cầu nguyện cho tảng đá kia được nổi. Tảng đá kia có nhờ cầu nguyện, có do năng lực cầu nguyện mà nổi lên mặt nước không, ông Tu-Đạt?

- Không thể nổi được, thưa Trưởng lão.

- Cũng vậy, nếu một chúng hữu tình sát sanh, hại vật, lấy của không cho, trộm cắp, tà vạy, dối trá, ác độc... đến khi thân hoại mạng chung, do ác nghiệp, trọng tội mà y đã tạo, phải bị đọa vào bốn đường khổ. Trường hợp ấy, mấy trăm thầy Bà la môn nhất tâm cầu nguyện thì người kia có thể nhờ năng lực cầu nguyện ấy mà được sanh lên thiên đường không, hở ông Tu-Đạt?

- Thưa không thể.

- Ví như có một thùng dầu đổ trên mặt sông, nổi trên mặt sông nhưng mấy trăm thầy Bà la môn kia cầu nguyện cho dầu bị chìm, thì dầu ấy có chìm không, ông Tu-Đạt?

- Thưa, không thể.

- Cũng vậy, nếu có một chúng hữu tình sống không sát sanh hại vật, có lòng từ, biết bố thí, giữ giới, làm các hạnh lành, sống đời chân thật, hiền lương... đến khi thân hoại mạng chung, do thiện nghiệp ấy, y được sanh lên cảnh trời. Đấy là điều hiển nhiên của định luật nhân quả, là cái tất yếu. Dẫu có hàng trăm thầy Bà la môn tụng kinh cầu nguyện đêm ngày mong cho người kia bị đọa, thì người kia cũng không vì vậy mà bị đọa vào bốn đường khổ, có phải thế không?

- Thưa, giờ thì con đã hiểu rõ ràng.

- Này ông Tu-Đạt! Nhẹ thì được bay lên, nặng thì bị rơi xuống - đấy là định luật. Một người làm việc lành, chuyên làm các hạnh lành thì tâm hồn người ấy luôn luôn được hỷ lạc, mát mẻ, thư thái, nhẹ nhàng cho nên được sanh lên. Người làm việc xấu ác thì tâm hồn người ấy luôn luôn bồn chồn, nóng nảy, sợ hãi, bất an... Cái tâm ấy quá nặng nề nên phải rơi xuống thôi, có phải thế không?

- Thưa, quả đúng vậy!

Trên đường đi, thỉnh thoảng cả hai người phải dừng lại vì có nhiều nhóm tỳ-khưu trên đường ngược chiều bộ hành về Trúc Lâm tịnh xá. Nhìn những tu sĩ thuộc Giáo Hội của Đức Bổn Sư, trưởng giả Tu-Đạt dễ dàng nhận ra ngay vì cách khoác y trang nghiêm, tóc râu sạch sẽ và có một tác phong, cử chỉ, cách đi đứng rất khác xa với những đạo sĩ hành cước hay du sĩ ngoại đạo. Và họ cũng nhận ra Tôn giả Xá-Lợi-Phất qua hình dáng bên ngoài, hoặc có vị đã nghe danh, hoặc có vị đã từng gặp mặt. Tôn giả đã ân cần thăm hỏi, khích lệ, sách tấn; đôi khi phải nhiều thì giờ giảng cho họ nghe một số điểm phức tạp, tế nhị thuộc Kinh hoặc Luận. Thế là tầm vóc của vị Trưởng lão này càng ngày càng cao lớn trong mắt nhìn của ông Tu-Đạt.

Cũng đã vài lần các tu sĩ ngoại đạo chế diễu, nói móc đến Đức Gotama nhưng Tôn giả Xá-Lợi-Phất đã nhẫn nại lắng nghe, sau đó tìm lời khôn khéo , từ bi để giáo hóa họ. Nói tóm lại là nhờ uy nghi của Ngài, tấm lòng của Ngài cùng uy lực của Giáo Pháp mà chúng đều phải nhu thuận, nể phục.

Lòng của ông Tu-Đạt rất vui, rất mát mẻ như bước đi trong ánh nắng ban mai chan hòa cùng đất trời, núi sông, cây cỏ...

Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên

Sau khi đi một vòng thăm khu đất, Tôn giả Xá-Lợi-Phất nói với ông Tu-Đạt:

- Kỳ diệu thay! Ông không những là người có một tấm lòng quảng đại mà còn có con mắt và cả đầu óc kỳ vĩ nữa!

- Con không dám!

Tôn giả khẽ nắm bàn tay con người khiêm tốn, khi họ cùng đi dạo với nhau - và nói rằng:

- Ông biết không! Ta lấy làm ngạc nhiên khi cả vùng ngoại ô Xá-Vệ đất đai mênh mông, bỏ hoang, vô chủ mà ông lại không chọn, lại chỉ chọn vùng đất cam chịu đổi vàng! Đất này còn quý hơn cả vàng đấy, ông Tu-Đạt!

- Xin Trưởng lão chỉ dạy.

Họ ngồi bên một con suối nhỏ, nước trong leo lẻo, đàn cá trắng đỏ vàng chao lượn nhởn nhơ. Tôn giả cúi xuống vốc một bụm nước:

- Nước này thơm ngọt và mát lành như nước của cung trời. Thuở xưa ta học về nghề thuốc nên ta biết rằng nước này uống vào sẽ lợi thận, thông tiểu, chắc răng, sáng mắt... nó còn lọc sạch dạ dày và đường ruột nữa.

- Kỳ lạ thế ư?

Tôn giả đi vài bước, bóc một mảng vỏ cây, chỉ cho ông Tu-Đạt xem một số loài cây và một số loài hoa.

- Các vỏ cây này, lá này và hoa này đều có những mùi thơm khác nhau do chất nhựa tiết ra khác nhau. Thứ thì muỗi mòng phải tránh xa, thứ thì khử tất cả mọi ô nhiễm, chất độc, thứ thì bảo vệ con người thoát khỏi các chứng bệnh ho hen, nhức đầu, sỗ mũi...

- Thật là kỳ lạ!

Bây giờ thì họ đang ngồi trên một tảng đá bằng phẳng, trước mặt là dãy núi cong cong che chắn cả hướng Tây Bắc.

- Hướng này là hướng thường có gió độc: ác phong, cuồng phong, hàn phong... nhưng dãy núi kia đã ngăn chúng lại rồi. Ngoài ra - Trưởng lão ngập ngừng, vốc một nắm đất lên xem - không biết là từ trong đất, trong đá hay trong cây, có một cái gì đó điều hòa được nhiệt độ, làm cho khí hậu ở đây mát mẻ quanh năm! Thật là lý tưởng, thật tuyệt diệu, thật là tốt cho sức khỏe của Đức Thế Tôn!

- Đúng vậy - trưởng giả Tu-Đạt xuýt xoa - Tôn giả quả là bậc bác học, cái gì cũng biết. Trước khi mua đất này, con có hỏi ý kiến một thầy Bà la môn tinh thông địa lý, phong thủy, ông ta cũng nói như Tôn giả vậy.

Ngài Xá Lợi Phất lại nói:

- Đức Thế Tôn từ cung trời Đâu-Suất, lúc giáng thế, Ngài cũng chọn Hy mã lạp sơn, nơi tụ hội khí thiêng linh nhất của Châu Diêm Phù Đề; còn ông, ông cũng biết lựa chọn một khu đất xinh tươi, một địa linh để sau này làm kinh đô cho Giáo Pháp. Công đức của ông lớn lắm, ông biết không?

Trưởng giả Tu-Đạt rất hể hả trong lòng.

Bây giờ họ đi vào rừng cây. Quả thật, không khí như bốc hương, vạn vật êm đềm, bình lặng. Chợt Tôn giả Xá-Lợi-Phất hỏi:

- Ông cảm thấy trong người như thế nào?

- Thưa, cảm thấy thư thái, sảng khoái; tinh thần như nhẹ lâng lâng...

- Đúng vậy! Đức Thế Tôn, các vị A-La-Hán muốn trú tâm thư thái thì các Ngài trú tâm thư thái, muốn trú tâm nhẹ nhàng, lâng lâng thì các Ngài trú tâm nhẹ nhàng, lâng lâng. Nhưng đại chúng, chư phàm tăng, cận sự nam, cận sự nữ thì không thể làm vậy, có phải thế không?

- Thưa, vâng.

- Do vậy, Giáo Pháp sẽ tăng trưởng rất vững mạnh ở đất này, đâm chồi nẩy lộc ở nơi này, đơm hoa kết trái phú túc, thịnh mãn... rồi sẽ lợi lạc vô cùng cho chúng sanh về sau.

Đứng nhìn những thế đất, chỗ uốn lượn của các ngọn đồi, màu xanh thẩm tươi mát của lá cây, Tôn giả Xá-Lợi-Phất nói:

- Giới luật của Đức Tôn Sư có dạy rằng: mỗi vị tỳ-khưu nửa tháng mới được tắm một lần vì khắp nơi nơi, chỗ nào cũng thiếu nước, nhưng đây thì không. Ở đây cho dù có mấy ngàn vị cũng dư thừa nước uống và nước sinh hoạt. Nếu biết chỗ, biết chọn đúng nơi để đào những chiếc hồ rộng thì hoa sen, hoa súng sẽ phô thắm hương sắc cả bốn mùa đấy, ông Tu-Đạt!

- Thật là kỳ diệu! Kiến thức của Tôn giả thật là kỳ diệu! Hèn gì Đức Thế Tôn bảo rằng chỉ cần một Đại Đệ Tử của Như Lai là đủ! Bây giờ con sẽ rất sung sướng mà kiến tạo nơi đây thành một Đại Tòng Lâm huy hoàng nhất Xá-Vệ.

Ngày hôm sau, trưởng giả Tu-Đạt cho mời năm thầy Bà la môn tinh thông thiên văn, địa lý, kiến trúc đến đảm nhận công việc. Họ hăng hái chọn đất, chọn hướng, vẽ họa đồ theo gợi ý của trưởng giả Tu-Đạt. Họ làm rất nhanh, vì làm nhanh sẽ có phần thưởng xứng đáng.

- Thưa Trưởng lão! Họa đồ xây dựng các thầy Bà la môn đã vẽ xong, tuy nhiên họ bày ra rất nhiều lễ cúng phiền phức. Xin Trưởng lão chỉ dạy cho con nghe về việc này?

- Trước khi xây dựng, bảo họ đưa cho ta xem lại toàn bộ công trình họa đồ ấy, nhất là hương phòng của Đức Thế Tôn và đại giảng đường.

- Thưa vâng!

- Còn các lễ cúng - chủ chốt là họ cúng các Sơn thần, Thổ địa. Sơn thần, Thổ địa cũng có đấy, ông Tu-Đạt , tuy nhiên, họ cũng là một loại chúng sanh thôi. Nơi những chỗ núi non, rừng rậm, ao hồ, gò đống, cây cối, làng mạc, ruộng vườn... đều có những loại chúng sanh khác nhau ngụ cư. Thường họ là những Chư Thiên bậc thấp, những Địa tiên, những Thọ thần, những Atula, những Dạ-Xoa, những La-Sát, những loài Rồng. Chúng có thể hiền lành, thiện lương; chúng có thể hung dữ, ác đức. Chúng sống xung quanh ta, gần ta, nhưng ta không thấy vì sắc thân chúng vi tế lắm. Chúng có thể thân thiện với ta, hộ trì giúp đỡ ta mà cũng có thể chúng ghét ta, phá hoại ta!

Này ông Tu-Đạt! Nói chung, đấy là các loài phi nhơn. Thế gian thường sợ hãi chúng nhưng đệ tử Đức Thế Tôn thì không bao giờ sợ cả. Khi nào ông làm phước cúng dường thì ông hãy nhớ hồi hướng phước báu đến cho họ. Họ cần phước báu ấy lắm.

- Thưa vâng! Còn các lễ cúng như đầu súc vật các loại, mâm trái cây các loại... bày trên những cỗ bàn cao đến ngọn thì có lợi ích gì không, có hiệu quả gì không , thưa Trưởng lão?

- Không hữu ích gì đâu, ông Tu-Đạt! Mỗi loại chúng sanh có cấu tạo thân thể khác nhau, ăn uống khác nhau nên thực phẩm cũng khác nhau. Ví như các vị Phạm Thiên thì thân sắc của họ trong suốt, có hào quang hoặc có ánh sáng. Họ không ăn uống thực phẩm vật chất như cõi người mà họ "ăn uống" bằng các trạng thái tinh thần như lạc, hỷ, xả, thanh tịnh. Lạc, hỷ, xả, thanh tịnh là vật thực của các vị Phạm Thiên.

- Ồ! Thật kỳ diệu!

- Các vị Chư Thiên trong sáu cõi trời Dục Giới thì họ cũng thụ hưởng vật chất. Nhưng vật chất ở đấy rất là tinh khiết, tế vi, tối thượng, ngon quý vô ngần, thế gian quả là không bì được!

- Xin Tôn giả cho ví dụ.

- Ồ! Lại thế nữa! Này nhé, ông đã từng thấy con bọ hung say sưa chúi mũi, chúc đầu trong những đống phân bao giờ chưa?

- Vâng, thấy ạ!

- Ông đã từng thấy giòi bọ nhung nhúc làm một bữa tiệc thịnh soạn trong xác của một sinh vật sình thối chưa?

- Dạ thấy ạ!

- Chư Thiên sáu cõi trời Dục Giới nhìn xuống loài người, thấy vật thực của loài người cũng y như ta nhìn bọ hung, giòi bọ trong đống phân và trong xác chết của sinh vật vậy!

- Ồ! Thật là kinh khủng!

- Thân thể con người hôi hám, dơ dáy; tâm địa loài người dơ dáy, hôi hám... Tất cả xú khí ấy bốc thẳng lên trời cao cả trăm do-tuần. Cũng vậy, ta có việc mới bước vào hầm xí, Chư Thiên có việc mới dám bước xuống Châu Diêm Phù Đề nầy!

- Thưa vâng, con đã rõ.

- Cho nên, súc sanh có vật thực của súc sanh, các loại Rồng, Dạ-Xoa, Sơn thần, Thổ địa... đều có những loại vật thực riêng, trong thế giới của riêng ho. Vật thực của loài người họ không dùng được. Đức Thế Tôn dạy rằng, phước báu mà chúng ta đã làm, hồi hướng phước báu ấy đến họ thì phước báu sẽ biến thành thực phẩm riêng cho mỗi loài, mỗi loại. Họ sẽ theo đó mà tùy nghi thọ hưởng. Hồi hướng là việc cần phải làm, lễ cúng mâm cao cỗ đầy là việc vô ích. Ông hãy nhớ vậy nhé!

- Thưa vâng!

- Còn Đức Thế Tôn và Tăng chúng thì ông khỏi lo. Đức Phật và Tăng chúng thường có uy đức rất lớn. Có Đức Thế Tôn và Tăng chúng ở đây thì các loài phi nhân kia phải chịu mình một phép, không dám hỗn hào, xấc xược, phá phách đâu. Sau này, chúng sẽ tìm Đức Thế Tôn mà quy y nữa đấy. Rồi chúng sẽ trở thành một lực lượng hộ pháp cho Giáo Hội của Đức Tôn Sư.

- Lành thay! Con thật vô cùng hoan hỷ.

* * *

Cái tin ông trưởng giả Tu-Đạt mua đất đổi vàng đã xôn xao cả kinh thành Xá-Vệ, đã chấn động lan xa cả mấy tiểu quốc. Nhưng xôn xao, chấn động nhất, bàn tán sôi nổi nhất là ở trong các giáo phái ngoại đạo, khi họ hay tin đất ấy đã được cúng dường cho Giáo Hội Đức Gotama. Họ cảm thấy thất vọng, tức giận, ganh tỵ... vừa cảm thấy một mối nguy cơ, hiểm họa sắp gần kề. Giáo Pháp của ông Thế Tôn nào đấy mà đặt căn cứ địa ở đây, lại được sự tiếp tay của ông đại triệu phú giàu nứt đố đổ vách kia nữa thì chẳng mấy chốc họ sẽ không có chỗ dung thân!

Hiểm họa đã đến với chúng ngoại đạo thật sự rồi: ông triệu phú kia đã thỉnh được một cao đệ của Đức Thế Tôn, một vị Đệ Nhất Đại Đệ Tử thần thông quảng đại đích thân đến đây để xem xét, đôn đốc công trình xây dựng, dự định sẽ hoàn tất trước mùa mưa. Vậy là chúng họp bàn nhau những mưu kế để đối phó.

Buổi sáng, Tôn giả Xá-Lợi-Phất đắp y, mang bát trang nghiêm đi vào thành phố. Theo dự định, Ngài sẽ không dừng lại một vài nhà để khất thực, mà Ngài sẽ đi vài con đường lớn để xem xét, lắng nghe dân tình. Bóng dáng một Sa môn xuất hiện uy nghi, và từ tốn trên đường phố Xá-Vệ quả thật đã làm cho dân chúng tò mò. Và có lẽ họ tò mò hơn khi nghe tin đồn đãi về một ông Đại Đệ Tử thần thông biến hóa của một tôn giáo mới - cả gan không tin Thượng Đế và phỉ báng cả thần linh - đang có mặt ở đây. Mới một ngày mà họ đã được rỉ tai cho nhau phải xua đuổi tôn giáo ấy đi, không được thân thiện, không được cung cấp vật thực, ai trái lệnh thì thần linh sẽ vặn cổ, thần tài sẽ không vào nhà nữa và con cái họ sẽ bị tai nạn, tật nguyền, nạn nước, nạn lửa v.v...

Thế là họ cứ thập thò, tụm năm, tụm ba... lấm lét nhìn Tôn giả đi qua. Lác đác đây đó từng nhóm côn đồ hung dữ cầm đùi, cầm gậy, sát khí đằng đằng.

Thành phố thật là sầm uất. Rất nhiều tu sĩ thuộc nhiều giáo phái đi khất thực; gặp Ngài, họ đứng trố mắt nhìn như một hiện tượng lạ vì Ngài thanh sáng quá, tươm tất quá! Có một cái gì rất quý phái, rất hiền lành, rất khiêm nhu từ nơi phong thái, dáng đi của Ngài... làm cho nhiều người không thể ghét được, không thể xua đuổi được! Tuy nhiên, bởi sự hăm dọa nào đó, khi Ngài đứng lại trước cửa mọi nhà thì không ai dám đặt bát cả.

"- Không sao! Ngài tự nghĩ. Dẫu không có vật thực thì đệ tử của Đức Tôn Sư vẫn giữ tâm bình lặng như đất, và mở rộng lòng từ..."

Đi thêm vài con đường nữa, vẫn không có chút ít vật thực nào. Thoáng nhìn dân chúng, Tôn giả biết là trưởng giả Tu-Đạt nhận xét rất đúng: họ thuần hậu, chất phác, nhưng xen vào đấy, trong bản chất vẫn thấp thoáng một chút gì hoang dã của núi rừng sơ nguyên, rất dễ sinh ra hung dữ và cuồng tín.

Đến một ngã tư đường, Tôn giả thấy một đám côn đồ tụ tập ở đấy. Chúng nguyền rủa:

- Ông Sa môn trọc đầu đê tiện!

- Này con số xui dơ dáy, hãy cút khỏi thành phố!

- Đừng cho chó ăn nghe bà con! Con chó của ông Sa môn Cồ-Đàm thối tha ấy!

Chưa thôi, chúng còn dàn hàng ngang và chận lại. Mặc cho chúng làm gì thì làm, Tôn giả Xá-Lợi-Phất vẫn trầm tĩnh bước đi. Ở nơi Ngài toát ra một uy lực lạ thường làm cho chúng hãi sợ, tự động thụt lùi rồi nhường lối cho Ngài. Những lời mạ lị, phỉ báng ở đâu đó cũng như chìm mất, tắt tiếng trong cổ họng!

Từ một góc đường, có mấy tay mặt mày đỏ gay, hung dữ, mùi rượu xông lên nồng nặc, lao ra với đùi và gậy, chúng đánh xuống đầu và vai của Tôn Giả. Mọi người quanh đấy thất kinh la lên. Họ chạy bu lại.

Ngài Xá Lợi Phất dừng chân, nhìn mấy tên say rượu rồi nói với mọi người:

- Không sao! Họ chỉ là người say rượu thôi, họ không biết họ làm gì đâu! Khi hết say họ sẽ không làm như vậy nữa!

Nói xong, Ngài an trú chánh niệm trước mặt rồi lặng lẽ bước đi.

- Hay cho bọn côn đồ dám mạo phạm bậc tu hành chơn chánh!

Hoàng thân Kỳ-Đà trên chiếc xe hai ngựa bước xuống, sắc mặt giận dữ, quát tháo với cái đùi rung rung trong tay. Đám côn đồ sợ hãi, bỏ chạy tán loạn.

- Ngài Sa môn có sao không?

Tôn giả Xá-Lợi-Phất chậm rãi đứng lại.

- Xin Hoàng thân yên tâm! Thay mặt Đức Thế Tôn, bần đạo hoan hỷ thọ nhận tấm lòng hào sảng của Hoàng thân khi cúng dường khu rừng cây!

- Ngài Sa môn sao lại biết tôi?

- Vâng, biết chứ! cám ơn Hoàng thân đã ra tay tương trợ, nhưng Ngài không có gì phải lo lắng cho bần đạo. Xin phép được kiếu từ, bần đạo còn có việc phải làm.

Hoàng thân Kỳ-Đà đứng ngẩn ngơ trông theo vị Sa môn kỳ lạ. Với đùi và gậy, với sức đánh như vậy; với lời mạ lị, phỉ báng như vậy mà chỉ như những giọt nước rơi trên lá sen, không dính gì vào tâm của ông Sa môn ấy cả.

Dân chúng thì cảm phục quá, thốt lên:

- Đúng là đức hạnh của một bậc chân tu.

- Cái Đạo ấy sao mà có vẻ hay quá nhỉ?

- Tại sao người ta ngăn cấm chúng ta để bát cho vị Sa môn dễ thương kia?

Hoàng tử Kỳ-Đà ngạc nhiên quay lại hỏi:

- Có việc như vậy thật sao?

- Thưa Hoàng gia! Chúng tôi được rỉ tai, bị ngăn cấm, bị đe dọa đủ thứ.

- Bọn côn đồ kia cũng từ âm mưu ấy sao?

- Thưa vâng!

Hoàng thân Kỳ-Đà nói to:

- Thật bọn chúng không còn coi luật vua, phép nước ra cái gì nữa! Xứ sở này tôn trọng tự do tín ngưỡng của mọi người. Ta báo cho dân chúng hay, nội vụ này ta sẽ tấu trình lên Đức Vua ngay tức khắc. Bọn nào xúi giục dân chúng, chửi mắng, mạ lị, dùng đùi gậy với các vị Sa môn này, ngăn cấm sự đi lại hay ngăn cấm vật thực... thì quân đội hoàng gia sẽ trừng trị thẳng tay! Hãy thông báo tin này rộng rãi khắp thành phố. Ta là hoàng thân Kỳ-Đà , ta nói là ta làm, chưa có gì mà ta nói được lại không làm được!

Tôn giả Xá-Lợi-Phất sau cả buổi sáng không ai để bát, thế là Ngài phải nhịn đói. Ra khỏi ngoại ô, Ngài xin nước uống rồi tìm một vườn cây yên tĩnh, lựa một bóng cây im mát, trải tọa cụ trên đám cỏ bằng, an trú niệm và nhập thiền.

Lát sau, trưởng giả Tu-Đạt tất tả chạy đến:

- Thưa Trưởng lão! Ngài có sao không? Con nghe tất cả mọi chuyện do hoàng thân Kỳ-Đà báo lại. Trưa nay, Ngài chẳng có gì để độ thực!

Tôn giả Xá-Lợi-Phất đành phải mở mắt ra:

- Không sao đâu, ông Tu-Đạt! Hãy về lo công việc của ông, còn đây là công việc của ta kia mà!

- Thưa vâng!

- Ông hãy yên tâm! Không ai có thể có khả năng làm hại đệ tử Đức Tôn Sư cho dầu đó là Chư Thiên, Phạm Thiên, Ma quân hay loài người! Đi bát có vật thực hay không có vật thực cũng chẳng phải là vấn đề của một vị tỳ-khưu! Hiện giờ mục đích của chúng ta là nhiếp phục bọn ngoại đạo! Ông hãy biết rằng, từ bi sẽ thắng hung dữ, oán thù; hỷ xả sẽ thắng ganh ghét, tỵ hiềm; nhẫn nhục sẽ thắng tất cả mọi khó khăn, gai chướng; và dũng lực, ý chí sẽ thắng yếu đuối, ươn hèn... Đức Tôn Sư đã từng dạy như thế. Ông hãy về chăm lo công việc kiến thiết, xây dựng kẻo ta sẽ buồn vì ông đấy!

- Thưa vâng!

Trưởng giả Tu-Đạt không dám không tuân mệnh, chân bước đi mà mặt thì mấy lần ngoảnh lại. Ông tôn kính, cảm phục Trưởng lão xiết bao và đồng thời hai hàng nước mắt lại tuôn chảy. Quả thật, đức tính vị tha, quảng đại, cao thượng bao giờ cũng làm xúc động những trái tim chân thật và hướng thượng.

Khi Tôn giả Xá-Lợi-Phất đang an trú định thì chúng ngoại đạo lại tìm đến vây quanh. Một vài người lấy đá sỏi chọi vào, nói nhiều lời thô tục nhưng Ngài vẫn bình tịnh như không... Đột nhiên lúc ấy có hai đạo sĩ tóc búi, dáng dấp phương phi đường bệ xô vẹt đám đông bước vào, chăm chú nhìn Tôn giả Xá-Lợi-Phất.

Một người nói:

- Đây chính là Tôn giả Xá-Lợi-Phất, đệ tử của ông Cồ-Đàm.

Người kia hỏi:

- Nghe nói pháp thuật cao siêu lắm phải không?

Đám đông có người chỏ miệng vào:

- Đúng đấy! Đùi, gậy, đá sỏi không làm ông đau! Chửi mắng, phỉ báng ông coi như pha!

- Nếu lỡ ông ấy tức giận, ông trổ pháp thuật thì chúng ta chạy đâu cho thoát?

- Coi chừng đấy! Người mà dám đơn thân độc mã đến xứ này tuyên truyền cho một tôn giáo mới thì không phải là kẻ tầm thường đâu!

- Tôn giáo mới ấy ra sao?

- Sao ông ta đẹp quá vậy?

- Hắn có theo kinh điển Vệ-Đà không?

Đám đông lao xao như vỡ chợ. Người đạo sĩ tóc búi cất giọng lớn:

- Nghe đây, chư đạo hữu! Cách đây mấy tháng tôi có việc ở Vương-Xá thành, nghe nói có một vị Phật, một Đấng Toàn Giác xuất hiện ở trên đời: đấy là ông Cồ-Đàm, thuộc dòng dõi Thái Dương, giai cấp Sát-Đế-Lỵ, họ là Thích Ca, ở một vương quốc xinh xắn mỹ lệ bên cạnh chúng ta đây thôi - ấy là thành Ca-Tỳ-La-Vệ. Ông Cồ-Đàm này đã được phong làm thái tử, nhưng ông đã khẳng khái từ bỏ vương vị, vợ đẹp con thơ, điện ngọc lầu vàng như quẳng chiếc áo rách. Ông tu khổ hạnh sáu năm, sau đó thành đạo dưới cội cây Bồ Đề bên sông Ni-Liên. Từ đó ông gióng một tiếng trống Pháp chưa từng được nghe- mà họ gọi là Tiếng Trống Bất Tử - đầu tiên độ cho năm vị đại đạo sĩ, hiền triết nổi danh ở vườn Lộc Giả...

- Ồ!

Một số người kinh ngạc vì trong bọn họ đã có người nghe danh năm anh em Kiều Trần Như.

Người kia cất giọng rành rõi:

- Sau đó, ông tiếp tục độ cho những ông hoàng quý tộc, những trưởng giả giàu sang... thành tỳ-khưu, không biết cơ man nào mà kể! Ông hô: "Lại đây, này tỳ-khưu!" thế là các vị đó tự nhiên râu tóc rụng hết, y áo đỏ chói như san hô ở đâu đó không biết, trong chớp mắt đã có sẵn trên người họ, rồi bát nữa, rồi tám món vật dụng của thầy tỳ-khưu nữa, đều có đủ hết, mới keng! Như mới mua từ thành Xá-Vệ này vậy!

- Kỳ lạ! Đúng là pháp thuật rồi!

Người thuyết trình viên được dịp cao giọng:

- Chư vị có biết Con Rắn Thần bảo vệ lửa thiêng trong đền thờ thần lửa của đạo sĩ tóc búi không?

- Biết chứ! Con Rắn thần ấy to bằng cột đền, dài mười cái đòn gánh, trên đầu có cái mào đỏ cao cả sải tay, khi rắn phì hơi một cái thì lửa tuôn ra có ngọn và khói bốc lên mịt mù như thần mây hóa phép!

- Chư vị! Thế mà ông Cồ-Đàm đã từng ở một đêm với Thần Rắn ấy, sáng ngày Rắn Thần nằm bên chân ông ta ngoan ngoãn như một chú mèo con!

- Khiếp!

- Còn ba Ngài Đại Ca-Diếp cùng một ngàn đồ chúng của họ bây giờ trở thành đệ tử của ông Cồ-Đàm ráo trọi!

- Này! Ngài Đạo Sĩ có lầm không đấy!

- Lầm sao được! Thần thông của ba Ngài Đại Ca-Diếp chỉ là trò trẻ con đối với ông Cồ-Đàm! Chính mắt tôi trông thấy mà!

- Thần thông ấy như thế nào?

- Nói ra chư vị cũng không tin đâu!

- Cứ nói cho chúng tôi mở rộng tầm con mắt.

- Này nhé, hôm đó, hôm đó ông Cồ-Đàm đã thò tay lấy quách cái mặt trời bỏ vô bình bát của mình rồi đậy nắp lại!

- Thật không đấy! Ngài có khoác lác không đấy!

- Hèn gì hôm ấy tôi thấy mặt trời đi ngủ sớm, thiên địa tối om om!

- Thần thông như thế nào nữa?

Người kia lại được dịp trổ miệng lưỡi:

- Khi đi đến sông Hằng, ông Cồ-Đàm thò bình bát xuống, thế là nước cả dòng sông Hằng cuồn cuộn tuôn chảy vào đấy. Sông thì cạn ráo mà bình bát thì nước mới lưng lửng! Eo ôi! Nhìn xuống sông mới khiếp; nào kình ngư, cá sấu, thuồng luồng, tôm cá, ếch nhái... nhảy loi nhoi, trườn bền bệt, quẫy lung tung... thật là chuyện chưa từng thấy!

- Ớn thiệt!

- Có nói quá không đấy!

- Tôi thấy sao thì nói vậy. Mà còn nữa nhé! Nhờ thần thông quảng đại như vậy nên vua Bình Sa, các quan đại thần, hoàng tộc, binh lính mấy vạn người đổ xô đến quy y ông Cồ-Đàm hết ráo. Còn Tôn giả Xá-Lợi-Phất đây cùng với ông Mục-Kiền-Liên là hai trưởng giáo Bà la môn sừng sỏ ở Upatissa và Kolita cũng trở về quy giáo ông Cồ-Đàm với đồ chúng hai trăm rưỡi người.

- Có lẽ là hiện thân của thần Krishna chăng?

- Hay là con cái của thần Rama?

Tôn giả Xá-Lợi-Phất lúc ấy đang trú "quang định" nên tự thân Ngài phát quang, càng trú sâu thì vùng ánh sáng trắng càng tỏa rộng...

- Coi kìa!

- Đi thôi các bạn ơi! Đừng có chọc thần linh mà khốn!

- Xin Ngài tha tội cho chúng con!

Chúng ngoại đạo bây giờ mới sụp xuống, vái lạy hết lòng thành kính.

- Ba vạn đồng tiền, từ nay chúng con không dám đụng đến các vị Sa môn của tôn giáo này nữa.

Thế rồi bọn chúng kéo đi. Quân binh của nhà vua rầm rập các ngã đường. Những ống loa được lan truyền đi khắp mọi nơi, thông báo nghiêm lệnh của Đức Vua về vấn đề tự do tín ngưỡng và truy lùng bọn côn đồ hành hung Tôn giả Xá-Lợi-Phất.

Suốt đêm, Tôn giả Xá-Lợi-Phất được yên ổn. Và ngày hôm sau khi đi bát, dân chúng vui sướng đặt bát cho Ngài. Những phẩm chất cao thượng của Ngài đã được dân chúng đồn đãi, thêu dệt làm cho danh tiếng của Ngài càng thêm chói lọi. Người ta còn truyền miệng nhau về thần thông biến hóa lạ lùng của Ngài nữa!

Chúng ngoại đạo, tiểu nhân đã cố hại bậc Thánh thật chẳng khác gì quăng đá lên trời, đá rơi xuống đầu chúng; chẳng khác gì nhổ nước bọt ngược chiều gió, tự làm hoen lấm mặt mày! Nhẫn nhục và từ bi là tất thắng vậy!

Trưởng giả Tu-Đạt có lẽ là người mừng vui hơn ai hết sau biến cố ấy. Tuy nhiên, Tôn giả Xá-Lợi-Phất nhìn xa, thấy rộng hơn ông:

- Chúng chưa dễ dàng bỏ cuộc đâu! Ông trưởng giả hãy coi chừng chúng sẽ phá phách công trình xây dựng!

- Xin Trưởng lão an tâm! Hôm qua hoàng thân Kỳ-Đà đã tức tốc tâu trình nội vụ lên Đức Vua. Và Ngài đã cho quân lính đến đây để bảo vệ công trình.

- Có nên làm thế không, ông Tu-Đạt?

- Thưa, con hiểu. Con chỉ sử dụng gia nhân và người làm công. Con đã trả lương thật cao để chúng sốt sắng, nhiệt tâm với công việc bảo vệ.

- Hay lắm! Giỏi lắm! Ông Tu-Đạt! Tấm lòng ông dịu dàng như ánh trăng mà trí tuệ ông thì sáng như gương!

Được vị Thánh ca ngợi nhưng ông Tu-Đạt lại rất mực khiêm cung:

- Con thật không dám thế!

Thế là công trình kiến thiết "Kỳ Thọ Cấp Cô Độc Viên" khởi công tốt đẹp. Trưởng giả Tu-Đạt cho vời những thợ thầy nổi danh khắp các tiểu quốc. Ông đặt mua vật liệu xây dựng quý giá và chắc bền ở nhiều thành phố, ngày đêm ngựa xe nườm nượp vận chuyển về. Hàng ngàn người làm việc đều được trả lương hậu hỷ, ăn uống đầy đủ. Không có một lời than thở. Không thấy xảy ra các cuộc ẩu đả, tranh cãi nhau. Trên dưới răm rắp một lòng. Tâm ý hòa bình. Mây lành phơi phới. Tiến độ công việc nhanh chóng như có phép lạ.

Hôm kia, vào buổi sớm, trên một mô đất cao trước cổng tịnh xá, trưởng giả Tu-Đạt phát hiện có sáu nhành liễu ai cắm lên ở đấy. Một nhóm trẻ nít đang bu quanh.

Ông Tu-Đạt hỏi:

- Của ai cắm đấy các con?

- Mấy ông đạo, họ vừa bỏ đi!

Trưởng giả tức tốc báo cho Tôn giả Xá-Lợi-Phất hay. Ông cũng biết đó là dấu hiệu thách thức của chúng ngoại đạo.

Ngài Xá Lợi Phất nói:

- Việc này trước sau gì rồi cũng xảy ra. Ông hãy ra bẻ đọt cành liễu và cắm ngược cả sáu nhánh trở lại trên mô đất.

- Thưa, tại sao ta làm vậy?

- Cắm ngược nhành liễu lại chỗ cũ là ám chỉ chúng ta sẽ đàm đạo trong tinh thần tương kính, ôn hòa!

Yên lặng một lát, trưởng giả lại nói:

- Nếu ta bẻ gãy hoặc ta không nhổ?

- Bẻ gãy là khinh thường họ. Không nhổ là tự ý thua cuộc. Và như vậy thì ta phải cuốn gói ra đi khỏi thành phố này, cuốn gói cả công trình xây dựng, cuốn gói luôn cả Giáo Pháp của Đức Tôn Sư!

- Vậy ra Trưởng lão chấp nhận một cuộc luận tranh?

- Ông không thấy đó sao, không chỉ một, mà là sáu cuộc.

Trưởng giả Tu-Đạt có vẻ bần thần lo nghĩ. Tôn giả Xá-Lợi-Phất lại trấn an:

- Ông cứ ra ngoài mà làm theo lời ta dặn và hãy yên tâm! Đệ tử của Đức Tôn Sư không phải chỉ nhổ có sáu cành liễu ít ỏi ấy, mà sẽ còn nhổ trăm trăm nghìn nghìn nhành liễu trên khắp toàn cõi Châu Diêm Phù Đề, và vĩnh viễn không bao giờ chiếm bại!

Thấy nói vậy ông Tu-Đạt vẫn còn bất an, Tôn giả Xá-Lợi-Phất nhẹ vỗ vai ông:

- Này ông triệu phú! Trước khi quy y làm môn hạ Đức Tôn Sư, ta và Mục-Kiền-Liên vốn là những trưởng giáo Bà la môn được gần xa biết tiếng về sức học. Có thời, ta và Mục-Kiền-Liên lang thang khắp toàn cõi Châu Diêm Phù Đề, đã gặp rất nhiều chân sư, đạo sư của thiên hạ. Ta và Mục-Kiền-Liên đã từng luận tranh với họ, mặc dù chúng ta không muốn luận thắng họ, nhưng họ cũng chưa hề luận thắng được chúng ta! Lại nữa, Đức Tôn Sư, một đấng Toàn Tri Diệu Giác, không có gì hướng tâm đến mà Ngài không biết; vậy nếu ở đây công việc khó khăn, sức ta không làm nổi thì Đức Tôn Sư đã cắt cử người khác rồi, thảng hoặc, tự Đức Tôn Sư sẽ dùng thần thông và sẽ có mặt lúc cần thiết. Chẳng có gì đáng ngại phải không?

- Đúng vậy, giờ thì con hoàn toàn yên trí.

Sáu nhành liễu được cắm ngược trở xuống không bao lâu thì họ lục tục kéo đến. Họ, chính là đại diện cho sáu tông phái lớn nhỏ có mặt ở thành Xá-Vệ, Tôn giả Xá-Lợi-Phất nghĩ vậy. Nhưng khi họ đến, Ngài hơi ngạc nhiên là họ rất còn trẻ, đủ mọi thành phần, sắc phục phức tạp và rất khó xác định là đại biểu cho ai. Đi theo họ, có lẽ là đồ chúng hoặc bằng hữu, lại toát ra cái tĩnh lặng, ôn hòa chứ không hung dữ như côn đồ trên đường phố.

Trên một đám đất bằng, dưới những tàn cây cổ thụ râm mát, họ vây quanh Tôn giả Xá-Lợi-Phất. Một người từ trong đám bước ra, cung tay hỏi:

- Tôn giả chính là Xá Lợi Phất, Đại Đệ Tử của Đức Thế Tôn?

Người hỏi rất nhã nhặn và lễ độ, quấn trên vai hờ hững một chiếc phấn tảo y rách nát xuống tận đầu gối; người gầy ốm, thanh tú, đôi mắt rất sâu, tóc dài quá vai...

- Hiền giả có phải là một hành giả Yogi thuộc phái Du-Già? Vâng, Xá Lợi Phất chính là tôi.

Người kia mỉm cười, lặng lẽ ngồi xuống theo thế kiết già - y không lót tọa cụ - trả lời:

- Chúng tôi rất kỉnh trọng và cảm phục dấu hiệu hòa hiếu của Tôn Giả! Chúng tôi là gì mà dám đến đây luận tranh với Đấng Đại Đệ Tử của Đức Phật! Đúng là tôi thuộc phái Du-Già - y đua tay chỉ một số người chung quanh - và bằng hữu huynh đệ của chúng tôi cũng vậy, cốt ý đến nghe để học hỏi. Cuối cuộc luận tranh chúng tôi xin được hỏi vài điều trong Giáo Pháp của Đức Thế Tôn.

Họ gồm bảy người, đều là những hành giả yogi khổ hạnh. Phái nầy đầy dẫy khắp nơi, đi đâu cũng gặp. Họ thường mặc áo vải gai thô, mặc áo bằng da con sơn dương, mặc áo bằng vỏ cây tirita, mặc áo bằng cỏ cát tường bện lại, mặc áo bằng những tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện, đuôi ngựa bện, lông cừu bện... Họ nhổ râu tóc hoặc để râu róc mọc tự do. Họ ngủ trên giường gai, ngủ trên đất. Họ tiết chế ăn uống: ngày ăn một lần, bảy ngày một lần; một vài muổng cơm, một vài vá canh v.v... Nhưng những đạo sĩ khổ hạnh này dung mạo lại không xấu xí, nói năng lại rất điềm đạm, ôn hòa; toát ra một vẻ gì đó có chân tu, có thực học... Họ đến ngồi lặng lẽ, kiết già sau lưng vị đại huynh của mình, có lẽ vậy!

Ngài Xá Lợi Phất thân thiện đáp lời:

- Chư hiền là những hành giả yogi trẻ tuổi, trí thức, đạo hạnh; tôi sẽ rất vui sướng mà trao đổi giáo pháp với chư hiền.

Một người khác bước ra:

- Chúng tôi cũng không tranh luận. Chúng tôi nghe rằng Giáo Pháp của Đức Thế Tôn là "Diệt Khổ" như mục đích tối hậu của chúng tôi. Còn về nhận thức thì Giáo Pháp của Đức Thế Tôn là "Vô Ngã" mà chúng tôi cũng "Vô Ngã". Vậy thì hai quan điểm triết học về vô ngã có gì khác biệt nhau? Chúng tôi chỉ muốn tìm hiểu về điều đó thôi.

Nhóm này chừng năm người. Người dẫn đầu tuổi độ trung niên, cao ráo, phương phi; tóc râu sạch sẽ, đôi mắt có thần sắc, vầng trán cao; choàng cẩn trọng chiếc y màu trắng đã ngã vàng. Những người kia cao thấp, gầy mập khác nhau nhưng thái độ chung cũng bình lặng, ôn hòa.

Tôn giả Xá-Lợi-Phất cung tay đáp lễ:

- Chư hiền giả có phải là đệ tử của giáo chủ Kapila, một luận sư uyên bác của phái Số Luận nổi danh khắp toàn cõi Châu Diêm Phù Đề?

- Vâng! Chính thị! Đôi mắt tinh tường của Tôn giả thật đáng khâm phục!

- Chư hiền! Thật không dám vậy đâu. Vì mục đích "Diệt Khổ" của chúng ta giống nhau nhưng nhận thức "Vô Ngã" của chúng ta hoàn toàn khác nhau đấy. Vô Ngã của quý giáo là quan điểm, là chủ trương, là triết học. Quý giáo đã liệt kê ra hai mươi lăm thực thể của một chúng sanh. Hai mươi bốn thực thể đầu tiên liên kết với nhau như một mắc xích, là thành phần vật chất, là vô ngã; nhưng thành phần thứ hai mươi lăm, quí giáo lại bảo nó là thần ngã, siêu ngã, là nguyên lý phổ quát, là năng lực biến hóa hằng hữu, bất sinh bất diệt, có phải thế không?

- Thưa vâng!

- Giáo Pháp của Đức Tôn Sư không phải là quan điểm, là chủ trương, là triết học, là luận số, là lý giải, là tư tưởng... Đức Thế Tôn vì thấy như thực nên nói ra toàn bộ cái như thực về thân và tâm ấy - tức là về toàn bộ đất nước lửa gió, cảm giác, tri giác, ý chí, nhận thức - tất cả chúng đều là vô ngã. Thần ngã, siêu ngã ấy không có mặt trong Trí Tuệ của Đức Tôn Sư! Khác nhau là khác ở chỗ ấy, thưa chư hiền!

Các đạo sĩ thuộc phái "Số Luận" nín lặng, họ nghĩ trong tâm rằng: "Chưa chừng về giáo pháp phái Số Luận và mọi triết học, quan điểm xung quanh nó, vị Tôn giả này còn hiểu rõ hơn chúng ta là khác." Bèn từ tốn nói:

- Cuối cuộc tranh luận, chúng tôi xin được nghe và học hỏi thêm từ kiến giải của Tôn Giả.

Họ trải năm tấm tọa cụ xuống rồi lặng lẽ ngồi kiết già, trầm mặc và an tịnh.

Một số người đến đây tuy bên ngoài có vẻ hòa hiếu mà trong tâm họ là quyết thắng, nhưng khi thấy hai nhóm giáo phái có tiếng là sừng sỏ nhất đã sớm bị "hạ phong" trước uy lực của Tôn giả thì họ cũng cùng chung một tâm lý là hơi "khớp"!

- Trí tuệ sáng sủa thì nhận thức mới sáng sủa. Nhận thức muốn được sáng sủa thì lý luận phải sáng sủa. Lý luận sáng sủa, nhận thức sáng sủa thì mới tìm ra Con Đường đến Niết Bàn - có phải vậy không Tôn giả?

Ngài Xá-Lợi-Phất mới nghe đã biết đấy là miệng lưỡi của phái "Luận Lý" rất nổi danh đây đó. Ngài đưa mắt nhìn thấy người hỏi là một vị đạo sĩ mày cao mắt sáng, da trắng, môi mỏng, thần sắc rất trang nghiêm, quàng chiếc y sậm, sạch sẽ, tươm tất.

- Con đường đến Niết Bàn phải đi qua một đạo lộ nghiêm túc, cần tu chứng, liễu tri chứ không thể nào đi bằng con đường lý luận của "ngũ đoạn luận" như quý phái "Luận Lý học" chủ trương đâu, thưa hiền giả!

- Câu đáp vừa rồi của Tôn giả không phải "lý luận" là gì? Dẫu Tôn giả có trườn uốn cách nào cũng không đi ra khỏi con đường của phái chúng tôi!

- Trình bày khác với lý luận, thưa hiền giả!

- Khác nhau ra sao?

- Trình bày là vì thấy, vì biết, vì đã thấy đã biết; còn lý luận là vì chưa thấy, chưa biết!

- Xin được giải thích rõ hơn.

Tôn giả Xá-Lợi-Phất chợt mỉm cười quay sang hỏi vị đạo sĩ ấy:

- Trước khi trả lời, hiền giả có thể cho biết hiền giả quê quán ở đâu không?

Vị kia dẫu ngạc nhiên nhưng vẫn đáp:

- Quê tôi ở Ba-La-Nại.

- Đường đến Ba-La-Nại có xa không? Phải bao nhiêu đường đất đi bộ? Bao nhiêu con sông phải vượt qua?

- Không xa lắm, mấy chục do tuần thôi, chỉ cần qua hai con sông nhỏ, có mấy thị trấn sẵn xe ngựa kéo, còn đa phần là đi bộ, lối đi cũng dễ dàng lắm.

- Cám ơn hiền giả đã "trình bày" cho nghe rất rõ ràng con đường đến Ba-La-Nại. Sở dĩ hiền giả trình bày được rõ ràng như vậy là vì hiền giả quê quán ở đấy, từng sống ở đấy. Như vậy thì đâu phải hiền giả "lý luận" con đường về Ba-La-Nại?

Cả hội chúng bất giác vỗ tay ngợi khen Trí Tuệ sắc bén của Tôn giả. Vị đạo sĩ ngẩn ngơ một hồi rồi quỳ sụp xuống ôm lấy chân Tôn giả :

- Chỉ cần một ví dụ nhỏ của bậc Trí là đã giúp cho chúng tôi - cả huynh đệ chúng tôi - đôi mắt chợt sáng ra. Rất tri ân Tôn giả vậy! Rồi chúng tôi sẽ tái ngộ Tôn giả sau.

Nói xong, cả sáu người lặng lẽ đến nhổ cành liễu rồi bỏ đi. Đám đông yên lặng rất lâu trước biến cố đó.

Chợt một đạo sĩ to lớn, cằm vuông, râu hàm én, mặc y màu đất nung, cất giọng ồm ồm:

- Sự vận động, sinh hóa của vạn hữu có ý chí hay không có ý chí, thưa Tôn giả?

- Hiền giả hãy xác định rõ ý chí ấy là ý chí của Thượng Đế, ý chí của cá nhân, ý chí của các định luật, hay là ý chí của các năng lực mù quáng, vô hình?

- Tôi... tôi cũng không rõ! Chắc là ý chí của Thượng Đế!

Tôn giả Xá-Lợi-Phất cất giọng ôn tồn:

- Chính hiền giả cũng chưa nắm vững được câu hỏi của hiền giả. Lỗi ấy không phải là lỗi của hiền giả đâu. Tôi đã từng tham vấn nhiều vị uyên thâm thuộc phái "Phân Biệt Luận, Thắng Luận" của quý giáo, và chính họ cũng mù mờ như vậy. Quý giáo chủ trương rằng ngoài "nguyên tử và chân không" ra, không có gì hết. Rồi quý giáo bảo rằng các nguyên tử ấy là bất diệt, nó vận động, sinh hóa ra vạn hữu! Tuy bảo vậy nhưng quý giáo cảm thấy không ổn, vì các nguyên tử vốn là cái mù quáng, nhưng cái mù quáng tại sao lại sinh hóa vạn vật muôn loài, cây cỏ trong một trật tự kinh khiếp, kỳ lạ đến như vậy? Đến đây quý giáo lại lúng túng, hoài nghi... nên quý giáo chợt nghĩ rằng: "hay là do ý chí của Thượng Đế"?

Thưa hiền giả! Quả thật thế gian này có sự tham dự ý chí của Thượng Đế hay không có tham dự ý chí của Thượng Đế thì những khổ não trong thế gian, trong chúng ta vẫn tồn tại bất động ở đấy, từ nghìn xưa đến nghìn sau. Vậy thì ích gì những quan điểm triết học đúng hoặc sai, có hoặc không, có phải thế chăng? Giáo Pháp của Đức Tôn Sư không xây dựng từ các quan điểm triết học, không giải thích thế giới hữu biên hay vô biên, không phân tích đất nước lửa gió, thân thể con người, vạn hữu thành những chi li phân tử, nguyên tử! Giáo Pháp của Đức Tôn Sư chỉ được gói gọn trong bốn sự thật sau đây: Sự thật về Khổ, Sự thật về nguyên nhân Khổ, Sự thật về diệt Khổ và sự thật về con đường đi đến diệt Khổ. Chỉ có vậy thôi! Giáo Pháp của Đức Tôn Sư chỉ nhằm giải thoát những khổ đau vô cùng tận của chúng sanh trong ba cõi sáu đường. Vậy ai là người đau khổ hãy đến với Giáo Pháp của Đức Tôn Sư để tìm ra phương thuốc diệt khổ. Ai không đau khổ thì đừng đi đến. Tất cả chúng ta đều tự do...!

Lời diễn giảng của Tôn giả Xá-Lợi-Phất toát ra một năng lực trí tuệ và từ hòa làm cho hội chúng cảm thấy mát mẻ. Vị đạo sĩ môn đệ phái "Phân Biệt Luận" và những huynh đệ của họ đều ngồi nín lặng: họ đã "bất an" với giáo pháp của họ mất rồi!

Chợt một giọng nói cất lên:

- Chúng tôi là đại biểu cho phái Mimansa (Thắng Man), chúng tôi quan niệm rằng trí óc của con người là khí cụ quá nhiều nhược điểm. Lý trí con người cũng vậy, nó chính là cô gái bán phấn buôn hương, gặp ai có tiền là nó đi theo ngay! Là tu sĩ, chúng ta đừng nên tin nó, vì nó không sản sinh ra được một "tri thức" , một "chân lý" nào hết. Chúng tôi cũng cực lực lên án bọn vô tín ngưỡng, bọn tà giáo, bọn hoài nghi, bọn hư vô chủ nghĩa, bọn ngụy biện, bọn vô thần, bọn duy vật... Chúng phỉ báng thần linh, thượng đế mà sống đời đam mê nhục dục, kiêu căng, sống đời xa hoa hưởng thụ...

Thưa Tôn giả! Con đường của chúng tôi không đi qua tâm địa phản trắc của cô gái điếm trí óc, không lần mò vào mê cung rắc rối của luận lý; chỉ có sự minh triết và an tĩnh của tâm hồn là quý báu, là lộ trình chơn chánh, có phải thế không hở Tôn Giả?

Ngài Xá-Lợi-Phất nhìn qua, thấy người hỏi là một đạo sĩ da trắng xanh - có lẽ quanh năm trong đền tế - mặc y màu trắng, tóc tai tươm tất, gọn ghẽ... Ngài nói:

- Con đường ấy là thực hành theo các hình thức nghi lễ cổ truyền một cách kính cẩn, nghiêm túc và giữ đức tin bất động với Thượng Đế chí tôn, phải vậy không, thưa hiền giả?

- Sao... sao Tôn giả biết rõ vậy?

- Thưa hiền giả! Con đường ấy chính tôi đã đi qua, cha tôi đã đi qua, hàng ngàn tu sĩ thuộc căn cơ đức tin trong truyền thống đã đi qua. Trước đây tôi là một trưởng giáo Bà la môn ở Upatissa, một giòng dõi cổ kính còn duy trì một gia tài kinh điển với tất cả mọi nghi lễ thờ cúng một cách đúng đắn, trang nghiêm nhất. Thế nhưng, từ thế hệ này sang thế hệ kia, chẳng có ai tìm ra được sự minh triết và sự an tĩnh tâm hồn! Còn hiền giả thì sao - các huynh đệ của hiền giả ở đây nữa - chắc đã tìm ra được sự minh triết và sự an tĩnh tâm hồn rồi chứ?

Nghe Tôn Giả đặt câu hỏi, họ im lặng không trả lời. Dù sao, các tu sĩ tu theo giáo phái này thường sống tri túc và họ rất chân thực.

Cho nên, một người đứng lên thổ lộ:

- Quả thật chưa tìm ra Tôn giả ạ! Chúng tôi vẫn còn đau khổ và bất an! Chúng tôi sẽ có ngày trở lại đây học hỏi Giáo Pháp Diệt Khổ của Đức Thế Tôn.

Nói thế xong, họ đến rút một nhành liễu nữa rồi bỏ đi. Không hẹn nhau, bốn nhành liễu còn lại cũng lần lượt được rút lên.

Một thanh niên đạo sĩ cất giọng rổn rảng:

- Thật đã ê mặt chưa? Khi chưa đến đây thì ai cũng hùng hùng hổ hổ, đến đây gặp đệ tử ông Cồ-Đàm, ai ai cũng khép nép, rụt rè, sợ hãi như chuột thấy mèo! Các người bảo tranh luận, sáu cuộc tranh luận mà có cuộc tranh luận nào đâu? Mới ló cái đuôi nào ra là ông Sa môn vung đao chặt đứt ngay cái đuôi ấy! Coi chừng sẽ không có một mảnh đất cắm dùi ở cái thành Xá-Vệ này! Sợ gì ông Sa môn trọc đầu đê tiện kia chứ? Cứ cãi phứa đi, cãi càng đi! Phải cũng cãi mà trái cũng cãi! Cứ cãi tưới hột sen đi! Phải làm như vậy mới đúng! Rồi dân chúng, đạo hữu, tín đồ của chúng ta sẽ rêu rao chỗ này chỗ kia rằng: "cuộc luận tranh thật là nẩy lửa, cuộc luận tranh thật là bất phân thắng bại!" Mà bất phân thắng bại là chúng ta thắng rồi! Vì sao vậy? Vì chúng ta là đệ tử hạng năm, hạng bảy, hạng tôm tép, mà luận tranh ngang hàng với Đại Đệ Tử của ông Cồ-Đàm! Hãy xông lên mà cãi! Dựng cao cành liễu mà cãi!

Có một đạo sĩ trung niên nãy giờ hoàn toàn ngồi yên lặng không góp ý một lời, khí sắc rất an tĩnh, bây giờ mới mở giọng trầm ấm, vang vang như chuông đồng:

- Người huynh đệ trẻ tuổi không được hỗn láo! Không có một giáo phái nào trên toàn cõi Châu Diêm Phù Đề này lại có cái thứ ngôn ngữ đầu đường xó chợ như huynh đệ! Cuộc nói chuyện hôm nay là giữa các bậc trí giả với nhau, ai cho phép miệng lưỡi côn đồ như huynh đệ chỏ vào? Bần đạo yêu cầu ai là huynh trưởng của người trẻ tuổi ấy phải biết xử lý môn hộ để không còn những lời bẩn tai phạm thượng đến Tôn giả đây, một nhân cách vô song, một trí tuệ vượt bậc, một đức hạnh hiếm có trong Giáo Hội của Đức Phật Tổ Cồ-Đàm!

Người đạo sĩ thanh niên biết mình có lỗi nên đã lẫn trốn đâu mất.

Vị đạo sĩ trung niên trật y vai phải cung kính đến xá lạy Tôn giả Xá-Lợi-Phất , rồi nói:

- Cái lạy này coi như là lời xin lỗi, thay mặt đạo sĩ vô lễ, bất kính vừa rồi, xin Tôn giả hỷ xả cho!

Tôn giả Xá-Lợi-Phất cũng xá lại đáp lễ:

- Nếu tôi có lời nào đụng chạm đến các quan điểm, đụng chạm đến một vài cá nhân trong quý giáo thì cũng xin chư hiền xá tội cho!

Cả hội chúng đồng thanh nói:

- Không dám đâu! Không dám đâu!

Vị đạo sĩ trở lại chỗ cũ trên tọa cụ của mình, cất giọng chậm rãi, trầm ấm:

- Đã có đại biểu năm giáo phái rồi, còn tôi là đại biểu cho Vệ-Đàn-Đà. Thưa Tôn giả! Quê tôi ở bờ biển miền nam, năm xưa tham dự Đại hội Bà la môn ở Vương-Xá thành và đã có cơ may gặp gỡ được Tôn giả. Tôi rất hâm mộ Tôn giả và Tôn giả Kolita. Khi nghe tin nhị vị Tôn giả đã bước ra ngoài truyền thống và theo đạo sĩ Sanjaya, tôi tìm đến Vương-Xá thì nhị vị đã cất bước ta-bà tầm sư học đạo. Mới đây lại được nghe tin nhị vị đã là Đại Đệ Tử của Đức Cồ-Đàm, tôi rất vui mừng cho chư Tôn giả đã tao ngộ được Chánh Pháp. Thú thật rằng, đã hơn hai mươi năm trong truyền thống, tôi vẫn chưa tìm ra được bình an. Mọi tri thức, kinh điểm tôi cũng đã hoài nghi từ lâu lắm. Tôi bất lực trước Màya (ảo hóa) và Avidya (vô minh). Tôi nghi ngờ Atman (tiểu ngã) và Brahman (phạm thể). Thần Vichnou và thần Ishavara cũng dường như vô năng trước sự thống khổ của chúng sanh. Tư tưởng, triết học thật rỗng không và phù phiếm!

Thưa Tôn giả! Tranh luận với nhau mà làm gì chứ! Tôi đã khuyên họ mà họ có nghe tôi đâu. Một đạo sĩ thanh niên đã tự bẻ sáu nhành liễu đem cắm ở đây, nó muốn tạo ra thế tranh luận thắng bại giữa những giáo phái tu học. Tranh luận để học hỏi là tốt, nhưng tranh luận làm sao được đối với Tôn giả, người đã nắm được căn bản của mọi tông giáo trên đời này, rõ ràng như những đường chỉ trong lòng bàn tay của mình! Tôi chỉ muốn gặp Tôn giả để học hỏi thôi. Trước đây tại một ngôi làng quê, tôi cũng đã làm trưởng giáo Bà la môn. Thuở đó, so với Tôn giả tôi chỉ là con đom đóm mà Tôn giả là ánh mặt trời. Vĩnh viễn là như thế! Tôi khao khát học hỏi để giải thoát đau khổ mà thôi! Hẹn được tái ngộ Tôn giả.

Lời chí tình của vị đạo sĩ Bà la môn làm cho Tôn giả Xá-Lợi-Phất và toàn thể hội chúng đều cảm động.

Phái Du-Già, phái Số Luận cũng phát biểu:

- Chúng tôi chỉ muốn trao đổi để học hỏi. Thì giờ đã muộn, hẹn gặp Tôn giả một ngày gần đây để xin thọ giáo một cách tường tận hơn.

Thế rồi, không ai bảo ai, tất cả đồng đến chào Tôn giả Xá-Lợi-Phất. Họ trở lại trú xứ của mình.

Ngơ ngẩn, xuất thần nhìn mọi người giải tán trong ôn hòa, lặng lẽ; trưởng giả Tu-Đạt quỳ lạy ôm chân Tôn giả Xá-Lợi-Phất, cảm thán thốt lên:

- Như trên trời chỉ có một ngôi sao Bắc Đẩu, như rừng xanh kia chỉ có một chúa Sư Vương! Hôm nay, giữa chúng ngoại đạo trí thức, tài giỏi như vậy mà Trưởng lão tranh luận nhẹ nhành như cầm cành hoa bên tay mặt mà bỏ qua tay trái; như vị nhạc công của cõi trời vuốt sợi dây đàn để điều chỉnh âm thanh cao thấp như ý muốn; như nắm viên ngọc mani mà dọi vào hóc tối này hay hóc tối kia! Con hoan hỷ, sung sướng và mãn nguyện dạt dào như sóng nước vô tận giữa biển đông! Trưởng lão có biết thế không?

Tôn giả Xá-Lợi-Phất nói vui:

- Ông Tu-Đạt lúc này cũng sính văn chương chữ nghĩa nhỉ?

- Dạ, không dám!

- Tâm thành của ông nó tự làm nên bút, ý thành của ông nó tự làm nên văn mà thôi, có phải ông muốn nói thế chăng?

Trưởng giả Tu-Đạt lại thêm sợ hãi, kính phục:

- Quả có vậy, quả con có ý nghĩ như vậy!

- Thôi được rồi! Việc xây dựng tịnh xá, thế là những chướng ngại, những khó khăn lớn đã đi qua rồi. Đức Thế Tôn có dặn bảo là công trình phải hoàn tất trước mùa mưa, ông nhớ chứ?

- Thưa nhớ chứ! Không những thế, con còn quyết tâm hoàn thành "vượt mức kế hoạch."

Chưa bao giờ trưởng giả Tu-Đạt cảm thấy hạnh phúc như hôm nay. Hỷ lạc ở trong ông ăm ắp cả tuần lễ không chịu tan đi. Ông muốn chia sẻ niềm vui ấy với tất cả mọi người. Thế là thợ thầy được tăng lương, kẻ làm công, người ở được biếu tặng tiền bạc, vải vóc, thực phẩm, thuốc men. Ngoài ra ông còn cho thiết lập hai trại chẩn bần, hai trại cúng dường cho thập phương đạo sĩ không phân biệt giáo phái nào, hai trại phát thuốc chữa bệnh cho người nghèo rải rác trong thành phố và vùng phụ cận. Ông thuê mướn một trăm người giàu lòng thiện tâm, trả lương rộng rãi để cho họ sốt sắng chu toàn các công vụ này...

Tiếng lành đồn xa. Ti?ng lành về ông đại triệu phú từ bi, bác ái đã chinh phục trái tim mọi người. Các giáo phái sau cuộc tranh luận vừa rồi, có người nặng mặc cảm, nhưng thấy ông hào sảng cúng dường không phân biệt, nên phải đem tâm kỉnh trọng. Tất cả mọi người nghèo trong xứ thảy đều hàm ơn, họ gọi ông là trưởng giả Cấp Cô Độc (trợ cấp cho người nghèo khó, cô độc) là vì vậy. Còn Ngài Xá-Lợi-Phất lại trở nên sáng rỡ như một ngôi sao duy nhất trên vòm trời Xá-Vệ.

Và công trình kiến thiết "Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên" có quy mô vĩ đại, huy hoàng theo đó mà hoàn thành viên mãn.

* * *

Hôm kia, đứng trên ngọn đồi cao nhìn xuống, trưởng giả Tu-Đạt xoa bàn hài lòng ngắm nhìn công trình kiến trúc, tự nghĩ:

"- Trưởng lão Xá-Lợi-Phất quả là có đầu óc vĩ đại. Ngài không vẽ họa đồ, không nhìn sao, chọn hướng; Ngài không bắt tay vào việc xác định địa cuộc, tìm long mạch; không hề đưa ra một lời có tính quyết định - mà bao giờ Ngài cũng chỉ nói: "cho bần đạo góp một ý kiến nhỏ..., cho bần đạo được lòi cái dốt của mình ra...", Thế nhưng, điểm gì Ngài đã nói là như thò cái kim châm vào trúng đại huyệt, như đưa ngón trỏ chỉ trúng ấn đường! Các vị kiến trúc sư, thiên văn, địa lý kia khâm phục sát đất, chẳng dám ho he nửa lời. Ôi! Ngài quả là bậc thầy của những bậc thầy; cao cả, trác viết mà khiêm nhu xiết bao!

Ồ! coi nào! để coi nào! là những ý kiến nhỏ, là những cái dốt lòi ra... thế rồi công trình giờ đây ra sao? Kìa! Kìa! Đại Giảng Đường chính là cái đầu của Con Rồng Thiêng. Hương phòng của Đức Thế Tôn rõ là một con mắt hiện, một con mắt ẩn! Những liêu thất, am cốc của Chư Tăng là những chiếc vảy rồng kế dài, nhấp nhô, uốn lượn nhịp nhàng suốt ba ngọn đồi. Những chân rồng, những móng rồng là những bệnh xá, nhà kho, nhà ăn, nhà nghỉ...; các công trình phụ như bể nước, hồ tắm, nhà vệ sinh nằm kín đáo trong những lùm cây xanh...

Ồ! coi nào! để coi nào! Rõ ràng là con Rồng Thiêng này đang uống nước - mà hai cái vòi của nó là hai chiếc cầu cong cong, thon nhỏ, thanh mãnh, dịu dàng, sống động. Ôi! Chiếc hồ mênh mông nằm ngang trước Đại Giảng Đường, nước đầy ăm ắp và trong như mắt mèo, mỗi ngày phản chiếu năm sắc khác nhau! Khi đào chiếc hồ này các thầy Bà la môn tự quyết định vị trí và khoanh các vùng giới hạn. Họ bảo sẽ có mạch nước vô tận. Thế nhưng, khi họ đào đến một đòn gánh, hai đòn gánh - mạch nước cũng chỉ ri rỉ như rồng nhiểu nước miếng! Tôn giả Xá-Lợi-Phất mỉm cười... cho bần đạo góp một ý kiến nhỏ..., cho bần đạo được lòi cái dốt của mình ra... Các thầy thử cho đào chệch về hướng sao Bắc Đẩu ba đòn gánh thêm một hắc tay nữa xem sao! Thế rồi sao nào! Không phải hai đòn gánh, không phải ba đòn gánh, mà đúng là ba đòn gánh và một hắc tay, thì nước đâu đó từ trong lòng đất tuôn ra ào ạt, mạch chảy trong các họng nham thạch, luồng giữa mấy khối đá tảng, trong như ngọc và tỏa mùi hương chiên đàn! Kỳ lạ không chứ! Rõ Tôn giả là tổ sư của các tổ sư địa lý!

?! Còn hương phòng của Đức Thế Tôn thì sao nào? Các thầy Bà la môn cho quay mặt về hướng mặt trời. Tôn giả Xá-Lợi-Phất khen ngợi họ, vậy là giỏi, vậy là tài; tuy nhiên Ngài bảo, cho bần đạo góp một ý kiến nhỏ..., cho bần đạo được lòi cái dốt của mình ra..., các thầy hãy cho chệch về bên phải ngôi Sao mai một lóng tay! một lóng tay thôi nhé! Vậy là chuyện gì xảy ra? Hương phòng của Đức Thế Tôn bên trong mát lạnh hơn bên ngoài. Và không biết có một luồng gió nhẹ ở đâu thoang thoảng đi qua các khung cửa làm cho không khí của nội thất không bao giờ bị tù đọng. Các thầy Bà la môn phục quá. Từ đó về sau, họ không còn dám khoác lác, khoe khoang nữa!

Thế rồi, một lần trưởng giả Tu-Đạt hỏi Ngài:

- Thưa Trưởng lão! Giáo Pháp của Đức Thế Tôn cũng có thiên văn, địa lý, phong thủy sao?

- Không có đâu, ông Tu-Đạt. Ta học được các môn ấy từ thuở thiếu thời.

- Nó như thế nào theo lời dạy của Đức Tôn Sư?

- Nó chính là các định luật về trăng sao, phương hướng; định luật về thời tiết, khí hậu; định luật về vật lý... cùng các định luật khác nữa về sự tương quan, qua lại giữa nhau.

- Nó có biến cải được số phận, thọ yểu, sang hèn của chúng hữu tình không?

- Không biến cải được đâu ông Tu-Đạt. Giáo Pháp của Đức Tôn Sư là một nhận thức như thực, đúng đắn về toàn bộ các định luật ấy, không chối bỏ bất cứ một định luật nào. Tuy nhiên, quyết định tối hậu cho số phận con người chính là định luật tâm, ngắn gọn hơn là định luật nhân quả nghiệp báo!

- Còn các định luật kia thì sao? Nó có hỗ trợ, tương tác, tương thuận, tương nghịch gì với định luật tâm không, thưa Tôn giả?

- À! Ông hỏi thế hay lắm đấy! Hãy nghe đây ông Tu-Đạt! Đức Thế Tôn ngồi dưới cội cây Bồ-Đề mà thành đạo, Ngài quay mặt về hướng Đông, là hướng của thanh khí, dương khí. Thanh khí, dương khí là khí nhẹ, khí trong sáng... nó sẽ hỗ trợ cho các trạng thái tâm nhẹ nhàng, trong sáng được thăng hoa toàn mãn. Đức Thế Tôn nằm nghỉ đầu quay hướng Bắc, mặt nhìn hướng Tây là để quân bình, hài hòa các khí, các lực giữa tiểu vũ trụ là con người và đại vũ trụ là quả địa cầu!

- Thưa, vậy là con đã hiểu rõ rồi!

- Bàng môn tả đạo họ sử dụng các thuật kia để nuôi mạng, để tà mạng, để lòe bịp đời, để quyết định số phận, thọ yểu, sang hèn của con người... cho nên họ đi vào mê lộ của tà ma! Họ chấp vào đấy, không chịu tu học, không chịu làm thiện, không chịu biến cải, thay đổi đời mình bằng những thiện nghiệp. Tâm là nhân, các định luật kia là duyên. Họ đã chấp duyên làm nhân mà họ không biết. Nguy hiểm là vậy!

- Thưa, chắc chắn là con đã nắm được rồi!

- Đức Tôn Sư với năng lực tâm bao trùm vũ trụ. Với năng lực tâm của Ngài thì mặt trời mặt trăng sẽ dừng lại và quả địa cầu này cũng có thể đứng yên nếu như Ngài muốn!

Nói như thế để hiểu rằng, Ngài không cần một định luật nào bên ngoài để hỗ trợ cả. Tuy nhiên, chúng ta là đệ tử, chúng ta phải có bổn phận bảo vệ sức khỏe cho Đức Tôn Sư. Sức khỏe của Đức Tôn Sư là sức khỏe lâu dài cho Giáo Pháp. Sức khỏe lâu dài của Giáo Pháp là hạnh phúc lâu dài cho Chư Thiền và nhân loại!

- Thưa vâng, con đã rõ!

Đến đây Ngài Xá-Lợi-Phất nói nhỏ lại:

- Vì Đức Tôn Sư luôn luôn sống giản dị, bình thường như một chúng sanh giản dị, bình thường; chỉ khi nào cần thiết nhất cho sự giáo hóa Ngài mới sử dụng thần thông hoặc các năng lực siêu phàm khác.

- Thưa vâng, con hiểu. Con cảm thấy thỏa mãn và vô cùng an vui trước những lời giảng giải cặn kẽ của Trưởng lão."

Nghĩ đến ngang đây, bất giác ông Tu-Đạt mỉm cười, đảo mắt nhìn công trình một lần nữa. Con Rồng bây giờ như đang chuẩn bị xòe móng, giương vây để bay lên giữa trời xanh bao la vô tận... Và hy vọng rằng, Giáo Pháp của Đức Tôn Sư cũng như con Rồng Thiêng kia vậy.

--- o0o ---

Chân thành cảm ơn Đạo hữu Bình Anson đã gởi tặng tập sách này
Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567