Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Mật Tông (khóa 5 - Phật Học Phổ Thông do HT Thích Thiện Hoa biên soạn)

03/12/202207:23(Xem: 793)
05. Mật Tông (khóa 5 - Phật Học Phổ Thông do HT Thích Thiện Hoa biên soạn)

ht thien hoa

Phật Học Phổ Thông

HT. Thích Thiện Hoa


Khóa Thứ Năm

Lịch Sử Truyền Bá Phật Giáo,
10 Tông Phái và Vũ Trụ Nhơn Sanh

--- o0o ---

Bài Thứ 7

Mười Tông Phái Phật Giáo Ở Trung Hoa (tiếp theo)

Mật Tông

 

1.- Duyên Khởi Lập Tông 

Tôn này thuộc về Đại-thừa, thờ Đức Đại Nhựt Như Lai (Tì Lô Giá Na) làm giáo chủ. Ngài Kim Cang Bồ Tát đích thân chịu làm lễ quán đảnh, kế thừa pháp mầu nhiệm của Đức Đại Nhựt Như Lai, vì thế cho nên tôn này gọi là Mật Tôn hay Chơn ngôn tôn (lời dạy chơn thật mầu nhiệm, bí mật).

Ngài Kim Cang Bồ tát truyền cho Ngài Long Thọ; Ngài Long Thọ truyền cho Ngài Long Trí; Ngài Long Trí truyền cho Ngài Thiện Vô Uĩy Tam tạng và Ngài Kim Cang Trí Tam tạng.

Vào đầu đời Đường, hai Ngài Vô Uĩy và Kim Cang sang Trung Hoa, rộng truyền bí pháp Mật tôn.

Ngài Vô Uĩy truyền cho Ngài Nhất Hạnh Thiền sư. Ngài Nhất Hạnh Thiền sư sớ thích kinh Đại Nhật làm cho giáo nghĩa của Mật tôn được rõ rệt ở Trung Hoa. Còn Ngài Kim Cang Trí thì truyền giáo pháp cho Ngài Bất Không Tam tạng. Ngài sau này truyền cho Ngài Huệ Quả Hòa thượng, Ngài Huệ Quả truyền cho Ngài Không Hải là một Đại sư người Nhật. Ngài Không Hải về sau trở thành vị tổ Mật tôn ở Nhật.

Mật tôn có nhiều phái: a) Mật tôn ở Trung Hoa; b) Mật tôn ở Nhật thường gọi là Đông mật; c) Mật tôn ở Tây tạng tức là Lạt ma giáo, hay là Tạng Mật. 

Kinh điển của Mật tôn.- Tôn này nương vào hai bộ kinh lớn làm cội gốc bộ kinh đại Nhật và kinh Kim Cang Đảnh. Nếu kể thêm ba bộ kinh Tô tất địa, Du ký và Yếu lược niêm tụng, thì thành ra năm bộ kinh về Mật tôn.

Đức Đại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) là thế nào? Như chúng ta đã thấy ở đoạn đầu, Tôn này thờ Đức Đại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) làm Giáo chủ và Ngài Kim Cang Bồ Tát (tức Ngài Kim Cang Tát Đỏa) băng phương pháp quán đảnh đã nhận lãnh pháp mầu nhiệm của Đức Đại Nhựt Như Lai để truyền thừa Tôn này.

Nhưng Đức Đại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na) là thế nào?

- Như chúng ta thường nghe nói Phật có 3 thân là: Pháp thân, Báo thân và Ứng thân.

1.-Pháp Thân, hay từ tánh thân là pháp giới chơn tịnh của các đức Như Lai, làm sở y bình đẳng cho Báo thân và Ứng thân; Pháp Thân tức là thể tánh thân tịnh có đầy đủ công đức, thật tánh bình đẳng của hết thảy các pháp.

2.-Bảo Thân, hay thọ dụng thân, là thân của các Như Lai do thành tựu công đức tu hành trãi qua ba đại kiếp mà được.

3.-Ứng Thân, hay biến hóa thân, là thân chư Phật do trí thành sở tác mà biến hóa ra thành vô lượng thân, ứng theo căn cơ của chúng sanh mà hóa độ. Như đức Phật Thích Ca là ứng thân của Phật trong cõi Ta-bà này. Vậy đại Nhựt Như Lai (hay Tỳ Lô Giá Na), không phải là đức Phật Thích ca như một số người lầm tưởng, mà chính là pháp thân Phật. 

Theo các tôn phái khác thì pháp thân không có hình tướng, không thuyết pháp chỉ báo thân và ứng thân, như đức Phật Thích Ca mới có hình tướng và nói pháp.

Theo Mật tôn thì có chia ra làm hai loại giáo pháp; Hiển giáo và Mật giáo.

Những lời dạy của ứng thân Phật, như đức Phật Thích Ca thì tủy theo căn cơ của mỗi chúng sanh mà chỉ dạy, tức là pháp môn quyền thiệt hay là Hiển giáo.

Còn Mật giáo là những pháp môn mầu nhiệm, bí mật mà chỉ những vị đại Bồ tát, nhờ trí huệ sáng suốt, mới cảm thông, họ lãnh được của pháp thân Phật, như Ngài Bồ tát Kim cang Tát đỏa, nhờ quán đảnh mà thừa tiếp pháp mầu nhiệm của Đức Đại Nhựt Như Lai, (hay Tỳ Lô Giá Na). 

Tóm lại, Mật tôn thuộc về Mật giáo. Vị Giáo chủ bí mật là Đức Đại Nhựt Như Lai, (hay pháp thân Phật). Còn vị sơ tổ của tôn này là Ngài Bồ tát Kim cang Tát đỏa là vị Bồ tát đã chép lại kinh Đại Nhựt và kinh Kim Cang Đảnh.

II.-Tôn Chỉ Và Giáo Lý Căn Bản.

1.-Lục đại: Mật tôn chủ trương Lục đại là chơn thật thể của vũ trụ. Lục đại đà: địa đại, thủy đại, hỏa đại, phong đại, không đại và thức đại. Lục đại là bản nguyên của các tánh năng sinh (sinh ra), năng lưu (lưu xuất ra).

Trong lục đại thì năm đại trước thuộc về vật, đại cuối cùng (thức đại) thuộc về tâm. Sau đại này mỗi mỗi đều dung thông, không ngăn ngại, thâu nhiếp lẫn nhau, làm nhân làm duyên cho nhau mà sinh ra các pháp.

Lục đại bao hàm 3 phương diện 

Thể đại, tức là bản thể chung cùng của vũ trụ;

Tướng đại, tức là hình tướng của sự vật và chúng sanh

Dụng đại, tức là ngôn ngữ, động tác, cong dụng của mỗi sự vật.

Vũ trụ vạn hữu không có cái gì ra ngoài thể đại, tướng đại, dụng đại.

Thể, tướng, dụng là chúng ta dùng trí lực chia chẽ ra như thế để dễ quán sát; chứ thực ra ba phương diện ấy không thể rời nhau, không thể tồn tại riêng rẽ được. Ngoài thể đại, thì tướng đại và dụng đại cũng không thể có được; ngoài tướng đại thì thể đại và dụng đại cũng không thể có được. Vì vậy xét một phương diện thì rõ được cả ba.

Như chúng ta đã thấy ở đoạn trên: sáu đại dung thông, thâu nhiếp lẫn nhau, và ba phương diện: thế, tướng , dụng cũng không thể rời nhau, nên vũ trụ vạn hữu, mặc dù muôn hình vạn trạng, rộng lớn vô biên, vẫn có lý dung thông vô ngại, châu biến khắp tất cả. Cái đó gọi là lý tánh hay chơn như. Lý tánh hay chơn như là nồng cốt của sự tướng nhưng nếu không có sự tướng, thì chơn như hay lý tánh cũng không thể biểu dương được. Lý tánh và sự tướng là hai khía cạnh tịnh và động của nhất như. Nói tóm lại, có lý tức có sự, có sự tức có lý. Lý tánh của vũ trụ vạn hữu cũng tức là Phật tánh. Như vậy, Phật tánh đều sẵn có trong mọi chúng sanh, trong mọi hình thức.

Muốn chứng ngộ Phật tánh, muốn thể nhập chơn như, trước tiên phải quan sát sự tướng, sự tướng có thể gồm trong bốn loại sau đây tức là bốn Mạn trà- la.

2.- Bốn Mạn trà- la: Mạn trà- la nghĩa là tròn trịa đầy đủ, rộng lớn không lường. Bốn pháp Mạn trà- la, hay gọi tứ Mạn tưởng đại, là bốn tướng rộng lớn, đầy đủ của bản thể do sáu đại mà biến hiện ra. Bốn pháp Mạn trà- la là: 

đại Mạn trà- la.- nghĩa rộng là thân của các loài hữu tình trong mười pháp giới, là sắc tướng của môn pháp trong vũ trụ, các sắc tướng của môn pháp trong vũ trụ, y theo lục đại mà hiện. 

Nghĩa hẹp là chỉ cái sắc tướng trang nghiêm của Phật, Bồ tát được thể hiện trong các pho tượng chạm trổ, tô vẽ.v.v...

Tam muội gia Mạn trà- la.- nghĩa rộng là hết thải các cơ khí trong vũ trụ, những vật dụng thường ngày của chúng sanh, hay rộng hơn nữa là cái đặc tánh riêng biệt của mỗi pháp, núi, sông, cây cỏ...nghĩa hẹp là chỉ những vật mà Phật và Bồ tát thường cầm như hoa sen, ngọc bửu châu, cành dương liễu để tiêu biểu cho lời thề nguyện hay cái đặc tánh thù thắng riêng của quý Ngài trong việc cứu độ chúng sanh.

Pháp Mạn trà- la. -nghĩa rộng là hết thảy âm thanh, lời nói, hình ảnh, tên gọi, ký hiệu trong vũ trụ. Nghĩa hẹp là chỉ cho những chủng tử hay chơn ngôn của các đức Phật hay Bồ tát. Chủng tử ở đây tức là chữ cái. Chữ tiêu biểu cho bản thể của Phật và Bồ tát, như chủng tử của đức Đại Nhựt Như Lai (đọc là A), chủng tử của Ngài Kim Cang Tát đỏa (đọc là Hùm). Còn chơn ngồn tức là Mật chú, và danh hiệu của Phật, Bồ tát cùng tất cả văn nghĩa trong các kinh điển.

Yết ma Mạn trà- la:- Yết ma là cử động làm các sự nghiệp. Vậy nghĩa rộng của Yết ma Mạn trà- la là chỉ cho hết thảy động tác của chúng sanh và môn vật. Nghĩa hẹp là chỉ cho hết thảy oai nghi động tác của chư Phật và Bồ tát để làm các sự nghiệp độ sinh.

Bốn Mạn trà- la này đồng thời tồn tại, đã có một Mạn trà- la, tức phải có ba Mạn trà- la kia. Bốn Mạn này Phật, Bồ tát và chúng sanh đều có. Bốn mạn của Phật không lìa bốn mạn của chúng sanh; bốn mạn của chúng sanh không lìa bốn mạn của Phật. Vì thế, kinh thường gọi là bốn mạn không lìa nhau.

III.- Phương Pháp Tu hành

Cũng như các tôn phái khác trong Phật Giáo, sự tu hành của Phật tôn có hai pyương diện: Sự và Lý, hay nói theo danh yừ của Mật tôn là Giáo tướng và Sự tướng.

Sự tướng là tất cả những thực hành như tụng chú, kết ấn, cúng dường, lập đàn ...Tất cả những thực hành ấy phải theo đúng khuôn phép nhất định, chứ không thể dùng ý riêng mà làm càn được.

''Giáo tướng'' là tất cả những ý nghĩa sâu xa mầu nhiệm mà chư Phật và Bồ tát đã rút ra trong sự tướng để dạy chúng ta.

Người tu hành phải học tập và thực hành cả hai phương diện ấy,không được thiên bỏ bên nào. Không học giáo tướng thời không lãnh hội được ý nghĩa của sự tướng để làm cho đúng. Không học sự tướng thì hết thảy đều là nói suông. Giáo tướng thì có thể nương theo kinh điển mà học hỏi; còn sự tướng thì phải có các bậc A xà lê, tức các vị truyền đạo của Mật tôn, truyền cho mới biết được.

Ngoài sự tu hành thường ngày, phương pháp tu hành trọng yếu của Mật tôn là Tam mật.

Tam mật là phương pháp tu hành mầu nhiệm dựa trên thân. Ngữ, ý. Tam mật gồm có: Thân mật, ngữ mật (khẩu mậy ) và ý mật.

Như trên đã nói , chúng sanh và đức Như Lai đều có sáu đại làm thẻ, bốn pháp Mạn tà la làm tướng, không sai khác. Vậy Như Lai và chúng sanh thì thể tướng mật. Như đức Đại Nhựt Như Lai đều có tam pháp giới là thân mật, hết thảy tiếng tăm là ngữ mật,. Cái thức lớn bao khắp tất cảlà ý mật. Còn chúng sanh , thì tay băý aán là thân mật, miệng niệm chơn ngôn là ngữ mật, tâm chuyên vào tam-ma-địa (thiền định) là ý mật.

Nhưng Phật và chúng sanh khác nhau ở tịnhvà nhiễm, ngộ và mê, giải thoát và ràng buộc. Vậýc muốn được như Phật , phải tu hành theo phép tam mật. Nhờ tay bắt ấn mà tịnh được thaan nghiệp, miệng niệm chơn ngôn mà tịnh được khẩu nghiệp, trs quán tưởng đức Đại Nhựt Như Lai mà dẹp được vọng tưởng, ý nghiệp được thanh tinh. Sự tu hhành tam mật có thể chia làm hai giai đoạn lớn.

Giai đoạn đầu gọi làtam mật gia trì. Trong giai đoạn này, sau khi hành-giả đã làm chủ được thân, ngữ, ý rồi thìtâm thủy ( tâm vắng lặng như nước đứng yên ) cả mình được ánh sáng mầu nhiệm của Địa Nhựt Như Lai chói rọi vào, tức là "Gia"; Và tâmthùyminh cùng cảm chịu, thu nhận được ánh sáng mầu nhiệm ấy tức là "Trì". Một bên thì "Gia", một bên thì"Trì", hai bên thừa tiếp nhau nên gọ là Tam mật gia trì.

Giai đoạn thứ hai gọi là Tam mật du già. Khi giai đoạn Tam mật gia trì đã thuần thục, thì ánh sángcủa đưc Đại Nhựt Như Lài là ánh sáng ttrong tâm thủy của hành-giả hiệp nhau ( du già) không sai không khác, thì gội là "Tam mậu du già". Đến đây tức là công phu tu hành hữu tướng tam mật đã thành tựu .

IV.-Quả Vị Tu Chứng

Hành-giả sáu khi đã thành tựuTam-mật hữu tướng, thông suốt được ýnghĩa mầu nhiệmcủa bốn mạn-trà-la, thì nhất cử, nhaạt động đều rập khuốnđung theo oai nghi của Phật , làm lợi lạc cho chúng sanh một cách tự nhiên, có làm tất cả mọi việc lợi ích mà như không làm. Đó tức là vô tướng tam mật.

Đến độ vô tướng tam mậtthì mọi hành vi cử động đều tòan là ấn cả, hết thãy lời nói đều là chú và chơn ngôn, hết thãy ý nghĩ đều là diêu quán cả. Do đó mà trong kinh có câu nói sau đây để hình dung hạng người đã chứng được vô tướng tam mật: "mỡ miệng ra tiếng, chơn ngôn diệt tội; dơ tay động chân, đều thành mật ấn; theo việc khởi niệm, diệu quán tự thành".

Đó cũng là ý nghĩa của bốn chữ"tức thân thành Phật "; nghĩa là hiện đời thành Phật .

V.-Kết Luận

Sự lợi ích tu về Mật tôn, đến khi kết quả cùng tộtcũng đồng một mục đích như các pháp môn khác; nghĩa là ba nghiệp thanh tịnh. Thaan ngồi trì chú, tay bắt ấn, nên thân không làm các việc tội ác, vì thế mà thân nghiềp được thân tịnh (thân mật). Miệng đọc thần chú, nên miệng không nói các điều tội lỗi, vì thế mà khẫu nghiệp được thanh tịnh (nhữ mật). Tâm tưởng chú hoặc quán tưởng những chữ thần chú, nên tâm không nghĩ tưởng những điều tội lỗi, vì thế nên ý nghệp được thanh tịnh ( ý mật) Kinh chép: "Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Taay phương".nghĩa là:nếu ai ba nghiệp chướng thanh tịnhthì được về tây phương đồng ở với Phật .

Trì chú có rất nhiều lợi ích, như trì chú vãng sánhẽ nhỗ sạch hết gốc rễ của nghiệp chướngvà được sanh về Tịnh độ (bạt nhứt thế nghiệp chướng căn bản, đắc sanh Tịnh độ Đà-la-ni); trì chú lăng nghiêm sẽ được tiêu trừ các oan gia nghiêp chướng và tình ái-dụcnặng nề từ nhiều kiếp trước, như ông A-nan và bà Ma-Đăng-Già ( xin quý vị xem quyển Đại cương Lăng nghiêm về đoạn nói lớiich trì chú Lăng nghiêm); trì chú phổ am sẽ tiêu trừ được phục thi cốt khí các yêu tinh quỷ quái trong gia trạch; triều ttrì Ngủ bộ chú hay Đaị bi thập chú sẽ được phước huệ tăng long, tùy tâm hành-giả cầu như thế nào, sẽ được mãn nguyện như thế ấy.

6.- Pháp Hoa Tông Hay Là Thiên Thai Tông

I.- Duyên Khởi Lập Tông 

Thiên thai tôn được khởi xướng từ Bắc tế. Do Ngài Huệ văn Thiền sư dựa vào bộ tríd độ luận mà lập ra pháp ''Mhứt tâm quan quán''. Pháp quán này được truyền cho Ngài Nam Nhạc Huệ Tự Thiền sư. Ngài Huệ Tự lại truyền cho Ngài Trí Giả ở núi Thiên Thai. Ngài Trí Giả là một bậc đại sư , y theo kinh pháp hoa, bổ yúc thêm cho pháp ''Mhứt tâm quan quán'' được hoàn bị và lâop thành một tôn pháp có uy thế ở núi Thiên Thai. Dooó mới có tên là Thiên Thai tôn (hoặc gọi Pháp hoa tôn). vị đại đệ tử của Ngài Trí Giả là Ngài Chương An Đại sư ghi chép lại những lời của Thầy, làm ra nhiều bộ luận có giá trị, để làm cơ sở cho Thiên Thai tôn, như bộ Pháp hao huyền nghĩa, Pháp hoa văn cú, Ma ha chỉ quán. từ Ngài Chương An, giáo nghĩa củ tôn này được hoằng truyền mãi cho các vị Đại đệ tử, thứ tự như sau: Ngài Trí Oai, Ngài Huệ Oai, Ngài Huyền Minh Và Ngài Trạm Nhiên.

Đến đời Ngài Trạm Nhiên, cũng gọi là kinh Khê tôn giả, giáo-lý và tôn chỉ của Thiên Thai tôn lại được rộng truyền và thêm nhiều thanh thế, vì Ngài Trạm Nhiên là một vị cao tăng, học rộng, biết nhiều, bổ túc thêm các bộ luận căn bản của tôn được hoàn bị, tù Ngài Trạm Nhiên về sau, đời nào cũng có những vị đệ tử có tài đứ rộng truyền giáo nghĩa của tôn này.

Kinh sách của Thiên Thai tôn rất nhiều, trong số này có thể lựa ra ba bộ sách lớn làm căn bản cho tôn này là: Pháp hoa huyền nghĩa, Pháp hoa văn cú, Ma hoa chỉ quán. ngoài ra có thể thêm năm bộ nhỏ, tuy không quan trọng bằng ba bộ trên, nhưng củng rất cần thiết cho người tu học là: Quán âm huyền nghĩa, Quán âm nghĩa sớ, Kim quang kim huyền nghĩa, Kim cang minh văn cú và Quán kinh sớ.

II.- Tôn Chỉ Và Giáo Lý Căn Bản

Cũng như các tôn phái khác trong Phật Giáo, Thiên thai tôn không đi ra ngoài giáo-lý căn bản của đức Phật. Đó là: ''Chư pháp duy nhứt tâm''. Cái công lớn nhất của Thiên thai tôn là làm sáng tỏ giáo-lý trên bằng một phương-pháp diễn dịch rất là minh bạch tinh vi.

Sao gọi là ''Chư pháp duy nhứt tâm''?. Theo Thiên thai tôn thì ngoại tâm không có các pháp , ngoài các pháp không có tâm. Tâm tức là nhất thiết pháp, nhất thiết pháp ấy là tâm. Hai cái không phải là khác, nhưng cũng không phải là một. Tâm bao trùm tất cả. Tâm tức là chúng sanh, tâm cũng tức là Bồ tát, Phật. sinh tử cũng ở nơi tâm ấy.

Nhưng làm sao để nhận chân được những phương diện của tâm, mà mới nghe qua hình như là trái ngược, mâu thuẩn với nhau.

Muốn thấy được toàn diện của tâm, người quan sát phải đứng nhiều khía cạnh, nhiều quan điểm khác nhau mà nhìn:

-nếu chúng ta đứng về phương diện truyệt đối mà xét sự vật (hay nói theo danh từ nhà Phật, đứng về phương diện chơn đế), thì thấy sự vật trong vũ trụ, không có một sự vật gì nó đứng vững một mình và tồn tại, mọi vật không có thể tự riêng biệt, mọi vật đều do nhân duyên mà thành. Cái ''có'' của sự vật là một cái có tạm bợ giả dối, ''có '' mà cũng như ''không ''. Đứng về phương diện tuyệt đối mà xét thì không có một pháp nào là tuyệt đối cả. Cho nên gọi là ''không''.

Nhưng nếu đứng về phương diện tương đối mà xét (hay nói theo danh từ nhà Phật, đứng về phương diện tục đế), thì không thể bảo mọi pháp là hoàn toàn ''không '' được. Trước mắt chúng tánh, đành rành có đủ mọi vật, và mỗi vật có một giới hạn, một đời sống riêng biệt, sao lại bảo là hoàn toàn ''không ''? Cho nên đứng về phương diện đối đãi, thì mọi vật không thiếu một vật gì. 

Đứng về phương diện tuyệt đối, thì vạn pháp là ''không ''?; Đứng về phương diện tương đối thì vạn pháp là ''có''. '' Không'' và ''có '' đấy là hai phương diện của tâm. Lấy phương diện này mà bỏ phương diện kia, hay trái lại lấy phương diện kia mà bỏ phương diện này, đều là thiên chấp, thiếu sót. Một giáo lý hoàn toàn là phải chấp nhận cả hai phương diện ấy. Đó là trung đạo. Phải là trung đạo, mới có thể tuyên bố: ''Tâm là nhứt thiết pháp, nhứt thiết pháp là tâm; tâm là sanh tử luân hồi, mà cũng là Niết bàn tịch tịnh''.

Như thế tâm có đầy đủ các tánh: thiên và ác, tịnh và bất tịnh, Phật và chúng sanh. Trong cỏi sanh diệt vô thường, vẫn có cái lý bất sanh bất diệt; trong cỏi ta ba, vẫn có cảnh giưói củ Phật. đó là ý nghĩa của câu '' pháp môn tánh cụ'' nghĩa là bản tánh bao giờ cũng có đủ các pháp, như lành và dữ, tịnh và bất tịnh...Do có đủ các pháp, nên hành động như thế nào thì kết quả như thế ấy. Muốn thành Phật, còn muốn làm chúng sanh thì tạo nhơn chúng sanh. Chúng sanh muốn thành Phật chỉ nhứt trừ ác nghiệp và chuyển lại tu thiện nghiệp

Và cũng vì có đủ các pháp, nên trong mỗi pháp giới là sáu loại phàm phu (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, Tu la, Nhơn, Thiên) và bốn thánh bậc (Thanh văn, Duyên giác, ồ tát và Phật).

Do chủ trương: ''pháp môn tánh cụ'', và mỗi pháp giới đều có đủ mười pháp giới, nên quan niệm tu hành của Thiên thai tôn cũng lạc quan hơn các tôn phái khác. Ơí trong pháp giới nào cũng dù tối tăm, khổ sở bao nhiêu cũng có thể tu hành và thành tựu được. Như thế không cần từ bỏ một cảnh giới này, cầu sanh vào một cảnh giới khác mới có thể tu hàng và thành Phật.

III.- Phương Pháp Tu Hành

Phần chủ trương của Thiên thai tôn như đã trình bày ở trên, có phần lạc quan và dễ dàng: trong cảnh giới hiện tại có đủ cảnh giới phàm và thánh muốn thành Phật, Bồ tát thì cứ gieo nhơn (tu hành) thành Phật, Bồ tát. Đó là nói về lý thuyết. Nhưng trong thực hành không phải dễ dang như thế.

Trước tiên, chúng ta phải nhận định hoàn cảnh thực tế của chúng sanh là một hoàn cảnh bị che phủ rất nhiều mê lầm, hay nói theo thuật ngư nhà Phật thì là ''chướng'' hay ''hoặc''. Dứt trừ được những 'chướng'' hay ''hoặc'' ấy là công việc chính của người tu hành. Nhưng muốn dứt trừ những tên giặc nguy hiểm ấy, trước tiên phải tìm hiểu tướng trạng, hành tung, phạm vi họat động của chúng ta như thế nào đã. Những chướng ngại, mê lầm hay những hoặc nói trên nhiều vô số, nhưng có thể phân chia làm ba loại, từ cạn đến sâu, từ hẹp đến rộng. Đó là kiến tư hoặc, trần sang hoặc và vô minh hoặc.

3.- Vô minh hoặc: Chử vô minh nghĩa chung là mê lầm. Mê lầm cũng có niều bậc cạn và sâu, hẹp và rộng, thô thiển và vi tế. Hàng Tiểu-thừa cũng dùng chữ vô minh, mà hàng Đại-thừa cũng dùng chữ vô minh. Nhưng vô minh theo quan niệm của Tiểu-thừa là sự mê lầm che lấp không cho chúng sanh thấy được cái cội gốc của đau khổ, phiền não, nguyên nhân của sanh tử luân hồi. Còn theo nghĩa của Đại-thừa và đặc biệt của Thiên thai tôn là sự mê lầm che lấp chơn lý thật tướng của Trung đạo. Vô minh hoặc ở đây có một nghĩa bao quát rộng rãi như thế, nên cũng gọi là giới ngoại đạo hoặc; và chỉ có hàng Bồ tát mới dứt trừ được , nên cũng gọi là biệt hoặc.

Đối vị với ba hoặc này, Thiên thai tôn lập ra ba pháp quán là: Không quán, Giả quán và Trung quán.

Ba Pháp Quán: Ba pháp này nguyên Ngài Tuệ Văn rút từ những phẩm kệ trong bộ Trung luận của Ngài Long Thọ Bồ tát mà lập ra. Phẩm kệ ấy như sau:

Nhân duyên sở sanh pháp 

Ngã thuyết thức thị không 

Diệc danh vi gỉa danh

Diệc thị trung đạo nghĩa.

(các pháp do danh duyên sanh, nên tánh bảo là không, mà cũng là giả danh, đó cũng là nghiã lý của Trung đạo).

Đối với Thiên thai tôn thì ba pháp quản này là phần nòng cốt trong sự tu hành. Nếu không thực hành ba pháp quán này thì không làm sao thành tựu được . ba pháp quán này, như trên đã nói; Không quán, Giả quán và Trung quán.

1.- Không quán: Không quán là đứng về phương diện chơn đế mà quan sát sự vật. Theo chơn đế thì các pháp là không, nhưng chúng sanh vì mê lầm không rõ, chấp là có thật. Do đó mà có kiến thức hoặc, và cứ mãi quay cuồng trong sanh tử luân hồi của tam giới. nay phải dùng Không quán mà phá trừ sự mê lầmchấp trước trên, cắt đứt tất cả tình chấp (trừ kiến và tư hoặc) mới thoát khỏi sanh tử luân hồi.

2.- Giả quán: Giả quán là đứng về phương diện tục đế mà quan sát sự vật. Các Phật tuy không và không sở đắc nhưng đứng về thế tục mà nhìn, thì thấy bản tánh vốn đủ các pháp , muôn hình vạn trạng, không thiếu một pháp nào. Giả quán này có thể dứt trừ được trần sang hoặc, vì hành giả biết rằng hoặc tuy nhiều như cát bụi, nhưng đều là giả cả, nên không lo sợ trước số nhiều ấy, và cứ tâm phát nguyện độ sanh khắp tất cả.

3.- Trung quán: Trung quán là đứng về phương diện trung đế để quan sát các pháp. Trung đế hay đệ nhất nghĩa đế là sự thật đúng đắn nhất, không gì hơn, sự thật trung chánh, tóm thâu bao gồm tất cả sự thật khác. Khi đứng về chơn đế hay tục đế mà quan sát sự vật thì không phải là không đạt đến sự thật; nhưng sự vật ấy mới chỉ được vén lên ở một khía cạnh nay hay một khía cạnh khác mà thôi. Và những sự thật ấy, nếu không có trung quán, thì trở thành mâu thuẩn, đối chọi nhau. Nhờ Trung quán mà nhìn cùng một lần cả hai khía cạnh Có và Không, mới nhận chân được rỏ ràng các pháp không phải chơn mà cũng không phải tục, tức chơn, tức tục, dung thông cả hai, không có chướng ngại. Pháp quán này sẽ trừ được vô minh hoặc một cách rốt ráo, cùng tột.

Ba pháp quán này có tể thực hành bằng nhiều lối:

Hoặc quán theo thứ lớp, hết Không đến Giả đến Trung. Lỗi quán này gọi là quán ba đế về lối cách lịch, thứ đệ, hay về biệt tướng, hay biệt giáo.

Hoặc quán theo lối thông tướng. Theo lói sau nay thì quán một đế mà ba đế đều đủ, ba tức là một. Thí dụ: quán pháp Không thời hết thãy đều Không; Giã, Trung cũng đều Không; quán pháp Giã, thời hết thảy đều Giả; Không , Trung cũng đều Giã; quán pháp Trung, thời hết thảy đều Trung; Không; Giả cũng đều Trung.

Hoặc quán theo lối Viên dung; nghĩa là đầy đủ, Dung nghĩa là dung hòa. Theo pháp qúan này, thì dùng một tâm mà đồng thời tu ba pháp quán, nghĩa là trong một tâm niệm mà ba pháp quán đều đủ và không ngăn ngại nhau. Quán như thế gọi là ''nhất tâm tam quán'', một pháp quán của viên giáo. Nhất tâm tam giáo là pháp quán vi diệu nhất. nhờ pháp quán này mà hành giả trực nhận được trong một lúc nhiều khía cạnhcu tâm ( mà cũng tức là vạn pháp ), rõ ràng như khi chúng ta soi vào gương, mà vừa nhận thấy được ánh sáng của gương (dụ cho không), những bóng phản chiếu trong gương (dụ cho trung). Ba thứ: ánh sáng, bóng phản chiếu và thể tánh của gương đều đầy đủ, đều thể hiện cùng một lúc mà vẫn viên dung, không trở ngại nhau. Cái lý ba đế viên dung là đức tánh sẵn có trong mười pháp giới, không một sự vật, một pháp gì, là không viên dung cả ba đế, cho nên thông thường gọi là: '' Một cảnh ba đê ú''.

Hành giả khi quán thuần thục, sẽ đi đến kết luận sau đây:

Chân như, Tâm và Vật, quan hệ mật thiết như tánh ướt, nước và sóng. Chân như dụ cho tánh ướt, Tâm dụ cho nước , Vật dụ cho sóng. Ngoài tánh ướt không có nước; ngoài nước không có sóng. Ngoài chân như không có tâm, ngoài tâm không có vật. Chân như, Tâm và Vật không rời nhau, mà cũng không phải là một, mà cũng không khác.

IV.- Quả Vị Tu Chứng

Như trên đã nói, do sự khám phá của ''Nhất tâm tam quán'', Thiên thai tôn có một quan niệm lạc quan về sụ tu chứng. Thật vây, khi đã nhận rõ chân-như nằm ngay trong sụ vật, phàm, thánh không hai, uế độ tức tịnh độ, thì hành giả không cần phải cầu sanh ở một cảnh giới thanh tịnh nào khác mới tu hành được, cũng không cần phải tu hành lâu đời, lâu kiếp mới thành Phật được. Ngay trong hiện tiền, nếu hiểu rõ được nghĩa lý của Trung đạo và khởi công tu luyện thì cũng là Phật rồi. Âúy là ý nghĩa của Thiên thai tôn đã đề xướng trong chủ trương ''Lục tức Phật''.

1.- 'Lục tức Phật, gồm có: Lý tức Phật, danh dự tức Phật, quán hạnh tức Phật, Tương trợ tức Phật, Phần chứng tức Phật, Cứu kính tức Phật.

a) Lý tức Phật: Lý tức là nghĩa lý. Hiễu rõ được nghĩa lý của Đức-Phật đã dạy trong câu '' Chúng sanh vốn đủ Phật tánh , cùng các đức Như Lai không hai không khác''; hay trong câu: ''Hết thảy chúng sanh đều là Phật''; hiểu rõ được lý ấy tức là Phật.

b) Danh tự tức Phật: Danh tự ở đây tức là những kinh điển, hay những lời thuyết pháp mà mình đã học hay đã nghe được, và đã hiểu được thông suốt rằng: ''Hết thảy các pháp đều là Phật pháp ''. Danh tự tức Phật nghĩa là lãnh hội được lý tánh của vũ trụ, vạn hữu qua kinh điển, văn tự tức là Phật.

c) Quán hạnh tức Phật: Quán hạnh là quán tưởng. Hạnh là tu hành, hành động; nói một cach tổng quát: quán hạnh tức Phật nghĩa là thực hành đúng theo lời Phật dạy tức là Phật.

d) Tương trợ tức Phật: Chử tương trợ ở đây có nghĩa là trong lúc mình tu hành, tuy chưa có thể thực chứng được lý tánh , nhưng tâm mình đã được yên lặng, nơi lý đã mường tượng như tuồng đã chứng được, nên gọi là tương trơ ủtức Phật. đến đây tức là Phật thập tín, thuộc về nội phàm (phàm phu trong nọi giáo).

e) Phần chứng tức Phật: Theo Thiên thai tôn, thì vô minh như là tấm màn dày đặc, gồm có 41 lớp; mỗi khi nhờ công phu tu hành, phá được một lớp, tức là chứng được một phần Trung đạo. Đó là ý nghĩa của phần chứng tức Phật. đến nay tức là đã lên đến các bậc Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa và Đẵng giác.

f) Cứu cánh tức Phật: Cứu cánh tức là đạt đến bực cuối cùng, chứng được chổ mầu nhiệm cực điểm, nghĩa là đến bực Diệu giác, Chủng trí đều viên mãn. Đến đây tức là đến bực Diệu giác hay Phật.

chúng ta nên nhớ rằng ''Lục tứ Phật'' này có phân biệt Lý và Sự khác nhau. Về lý thì mới bắt đầu bước lên bực thứ nhất và vị đã đến từng bực thứ sáu, đều bình đẳng như nhau, không hơn không kém, vì thể tánh vẫn là một và mọi chúng sanh đều là Phật. cái Lý này đem lại cho hành giả và sự phấn khởi, trên đường tu hành, không sanh lòng chán nãn, không buồn trách mình chậm thành đạo quả mà thối tâm.

Nhưng về sự thì vị thứ cao thấp đều có trật tự, kẻ mới tu hành và vị đã chứng quả Phật, không thể như nhau và ngang nhau được. Người tu hành hiểu rõ như thế mới không sanh lòng tăng- thượng-mạn, tự xưng là Phật là Thánh trên bước đường tu hành của mình.

Về Sự thì chỉ những vị đã đạt đến bực thứ sáu, tức là bực Cứu-cánh, mới đúng danh nghĩa là Phật, vì chỉ có Phật mới có đủ ba Trí, ba Đức.

2.- Ba trí: Ba trí tức là Nhất-thiết -trí, Đạo-chủng-trí và Nhất-thiết-chủng-trí.

Nhất-thiết-trí: Trí này rõ biết hết thảy các pháp đều không sanh; biết rỏ danh, tướn các pháp của nội tâm và ngoại cảnh, biết rõ không có ngã và ngã-sở. Trí này các bậc tu theo Tiểu-thừa, sau khi đã chướng quả đều có được. Còn theo Thiên Thai tôn thì do tu Không quán mà có được.

Đạo-chủng-trí: Trí này rỏ biết nhất thiết pháp đều là Có nhưng có một cách giả dối, do nhân duyên hòa hợp mà thành. Cái trí ở trên (nhất thiết trí) chỉ thông suốt được các pháp không sanh. Chứ không phân biệt được các pháp do duyên khởi. Vì không rỏ được nguyên nhân sanh-khởi, các pháp như thế, nên không thể dùng đạo pháp của các Đức-Phật để phát khởi các giống lành cho hết thảy chúng sanh, và không dám phát nguyện rộng lớn cứu độ chúng sanh. Vậy phải có Đạo-chủng-trí này mới phá tan được trần-sa-hoặc, có tâm dũng-mãnh để cứu độ chúng sanh. Trí này chỉ có các bậc Bồ Tát mới có được, và do Giả-quán mà thành.

Nhất-thiết-chủng-trí: Trí này rõ biết được hết thảy pháp đều là trung đạo, biết được đạo pháp của các Đức-Phật và hết thảy nhơn-chủng (chủng-tử khi tạo nhơn) của các loại chúng sanh, phá tan được vô-minh hoặc, thông-suốt thật-tướng của các pháp. Trí này tức là trí của Phật, do thành tựu Trung-quán mà có.

Chứng được ba trí trên này là nhờ tu ba pháp quán: không, giả, trung. Vì ba pháp quán này có cách-lịch, viên-dung khác nhau, nên khi chứng được ba trí cũng có thứ lớp và không thứ lớp khác nhau. Ba trí có thứ lớp, nghĩa là thành-tựu tuần-tự từ Nhất-thiết-trí, đến Đạo-chủng trí, cuối cùng đến Nhất-thiết-chủng trí.

Ba trí không thứ lớp tức là ba trí đồng thời thành-tựu, do tu pháp ''Nhất tâm viên quán''.

Đoạn văn sau đây, trong bộ Ma-Ha-Chỉ quán có thể tóm tắt một cách đầy đủ ý nghĩa của ba trí nói trên:

'' Trí-huệ Phật soi rõ lý Không, như chổ nhận thấy của bực Tiểu-thừa, gọi là Nhất-thiết trí. Trí huệ Phật soirõ lý Giả, nhưng sự nhận thấy của các bực Bồ Tát, gọi là Đạo-chủng trí. Trí-huệ soi rõ cả lý Không, Giả, Trung, thông suốt thật tướng các pháp, gọi là Nhất-thiết-chủng trí ....Ba trí do một tâm đồng thời tu ba pháp quán mà thành, biết rõ ba cảnh bất-tư-nghị, trí ấy do tu quản mà đặng, nên gọi là trí. Trí ấy cũng tức là Phật-trí.

3.- Ba đức: Kết quả tu chứng của Thiên-thai tôn, không phải chỉ có được ba Trí mà còn được ba Đức nữa. Chữ ''Đức'' ở đây không phải hiểu theo nghĩa thông-thường ở trên thế-gian, mà là Đức của cảnh-giới Niết-bàn, nghãi là có đầy đủ thường, lạc, ngã, tịnh. Ba đức ấy là:

a). Đức Pháp-thân: Pháp tức là khuôn phép đúng với chơn-tướng của vũ-trụ. Các Đức-Phật nhờ nương theo khuông phép ấy mà tu hành thành Phật, thể chứng được chơn-tướng vũ-trụ, cho nên gọi là pháp-thân.

b). Đức Bát-nhã: Tức là cái sáng-suốt về thỉ-giác của Phật, rõ biết các Pháp không sanh không diệt, vắng-lặng siêu-hình, một mực bình-đẳng, không thêm không bớt.

c).Đức Giải-thoát: Giải là không bị ràng buộc; Thoát và không vượt ra ngoài, là tự tại vô ngại. Ơí đây muốn nói các Đức-Phật đã lìa bỏ các phiền-não nghiệp-chướng ràng buộc, chứng được cảnh-giới đại tự-tại, Giải-thoát vậy. 

V.- Kết Luận

Bốn phần trình bày trên này về Thiên-thai tôn (duyên khởi lập tôn, tôn-chỉ và giáo-lý căn-bản, phương pháp tu hành, và quả vị tu chứng) tuy không nói lên được một cách tỉ-mỉ về mọi khía cạnh của tôn, nhưng thiết tưởng cũng đem lại cho quý vị độc giả một ý-niệm tổng-quát về Thiên-thai tôn, một tôn đăĩc-biệt thành-lập ở Trung Hoa và đã lan tràn ảnh-hưởng sang các nước Mông-Cổ, Nhật-Bản, Cao-Ly, Việt-Nam.

Điểm đặc-sắc của tôn này chính là ở pháp "nhất tâm tam quán". Nhờ ba pháp quán này mà hành-giả nhận chân được một cách rõ ràng ba khía cạnh của vũ-trụ vạn-hữu: Vât, Tâm, và Chân-như. Ba thứ ấy dụ cho sóng, nước và tánh ướt, mà nước cũng là tánh ướt. Nếu góp cả ba phương-diện mà xét, thì ba phương-diện có thể quy về một; nếu đứng về một phương-diện mà xét, thì vẫn có thể thấy cả ba. Đó là ý-nghĩa sâu sắc của Thiên-thai tôn mà cũng tức là lý-nghĩa chung của Viên-giáo.

Mong rằng quý độc-giả sẽ nghiền-ngẫm cho thấu đáo, để nhận rõ được cái lẽ ''tam tức nhứt, nhức tức tam'' ấy. Và như thế tức cũng đi dần vào pháp ''nhứt tâm tam quán'' rồi đó. 

  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567