Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

50 năm nhìn lại cuộc binh biến Quân đội VNCH

10/05/201608:11(Xem: 12819)
50 năm nhìn lại cuộc binh biến Quân đội VNCH

Hoa cuc quang duc (5)

1966 - 2016

NĂM MƯƠI NĂM NHÌN LẠI

CUỘC BINH BIẾN QUÂN ĐỘI VNCH

Cuộc  binh  biến  Quân đội VNCH

Cũng chính là cuộc vận động Bầu

cử Quốc Hội Lập Hiến của GHPGVNTN.

ĐĂNG TRIỆU

NHÓM THIỆN ĐẠO XUẤT BẢN

2016

 

                                     

                                                 HỘI ĐỒNG QUÂN NHÂN CÁCH MẠNG

   Hằng triệu dân Miền Nam nói chung trong các tôn giáo, nói riêng Quân, Cán Chính VNCH, (KiTô Giáo, Tam Giáo), tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương, đều thấy biết chốp bu (VIP) của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, đều là Tướng, Tá các cấp trong Tam giáo, do Đại Tướng Dương Văn Minh làm chủ tịch  có lời hiệu triệu kêu gọi toàn quân binh chủng tham gia Cách Mạng nhưng, những Tướng, Tá các cấp Cần Lao KiTô Giáo ngồi im và có hành động chống lại. Tức thì liền bị bắn chết ngay. Như Đại Tá  Quyền (Cần Lao – Bộ Tư Lệnh Hải Quân) bị bắn chết trên xa lộ, do không tham gia, chống lại HĐQNCM. Nói rõ hơn, Tướng, Tá gốc Cần Lao Thiên Chúa không ai lên tiếng xin tham gia, đánh điện ủng hộ. Đến khi nghe ĐT Quyền bị bắn chết, liền gọi điện thoại, đánh công điện về Bộ Chỉ Huy Cách Mạng xin tham gia, nói lời ủng hộ. Nhưng, tất cả đều giả vờ, không thật lòng, là ý tưởng chung của các ông Cần Lao, họ đã hội kiến với nhau, với các giới KiTô trong nhà thờ, ngoài xóm đạo, là cứ giả theo, để rồi sau đó đồng loạt vùng lên đảo chánh lật đổ, tái lập chế độ Diệm. Đúng thật, bản thể Cách Mạng chào đời mới được 3 tháng ( 11, 12, 1-164) quá non trẻ, đã bị một số Tướng, Tá Cần Lao và các giới KiTô Giáo tại Hố Nai, Gia kiệm, Biên Hòa, Sài Gòn thay nhau thực hiện nhiều cuộc đảo chánh, biểu tình thô lỗ, tục tằn liên tiếp từ tháng 1-1964 đến tháng 7-1965, (7 tháng,  5 ngày) được thấy rõ sau đây:

      CẦN LAO BIỂU TÌNH THÔ BẠO.

Ngày 30 tháng 1-1964, Tướng Cần Lao Nguyễn khánh làm cuộc chỉnh lý lật đổ chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ, bắt hết các Tướng, Tá của HĐCM Dương văn Minh nhốt tại Đà Lạt, Sài Gòn.

Ngày 13 tháng 9-1964: Một cuộc đảo chánh do hai tướng Lâm văn Phát, Dương văn Đức và một số đoàn thể KiTô Giáo yểm trợ nhưng không thành.

Ngày 19 tháng 2-1965: Cũng là Tướng Cần Lao Lâm Văn Phát. Cần Lao Nguyễn Bảo Kiếm và Đại Tá cộng sảnVN Phạm Ngọc Thảo làm cuộc đảo chánh với sự tiếp tay của một số đoàn thể KiTô Giáo, nhưng không thành. Nếu cuộc đảo chánh này thành công, thì Miền Nam VN bị mất vào lực lượng Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam và CSVN Hà Nội vào mùa hè 1965, không đợi đến 30-4-1975.

Ngày 20 tháng 5-1965: Một cuộc đảo chánh hụt.

Ngày 25 tháng 5-1965: Lực Lượng Đại Đoàn Kết của KiTô Giáo biểu tình chống chính phủ Phan Huy Quát.

Ngày 7 tháng 6-1965: Một đoàn người Thiên Chúa Giáo ồ ạt vào Dinh Gia Long gặp Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu bày tỏ bất tín nhiệm chính phủ Phan Huy Quát. Đám biểu tình chiếm Dinh Gia Long, la hét náo loạn, ăn uống vất đồ bừa bãi như chỗ không người. Tất cả các cuộc đảo chánh đều bị Tòa Đại Sứ Mỹ Sài Gòn phủ nhận, không ủng hộ.

  Đại Việt Thiên Chúa Đảo Chánh.

Số sĩ quan Thiên Chúa Đại Việt làm đảo chánh Tướng Khánh vào ngày 13/9/1964. Họ chiếm đài phát thanh Sài Gòn, đọc bản tuyên ngôn ca ngợi Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đòi tái lập Đệ Nhất VNCH. Cuộc đảo chánh không thành, do tướng Westmorland Hoa Kỳ làm áp lực với Tướng Dương Văn Đức, là Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn không ủng hộ cuộc đảo chánh.

   Lần nữa, Tướng Cần Lao Lâm Văn Phát và Đại Tá Phạm Ngọc Thảo (tình báo CSVN chiêu hồi giả theo Đạo Chúa, được Giám Mục Ngô Đình Thục đỡ đầu, rồi giới thiệu với Tổng Thống Diệm) cùng với lực lượng Thiên Chúa Giáo Sài Gòn, Biên Hòa hợp nhau làm cuộc đảo chánh chính phủ Phan Huy Quát vào ngày 19/2/1965 (sau 5 tháng). Thêm lần nữa, vào ngày 20/5/1965 (sau 3 tháng) tập đoàn Thiên Chúa Giáo Hố Nai - Biên Hòa kéo về Sài Gòn làm đảo chánh chính phủ Phan Huy Quát, xông vào Dinh Gia Long ám sát hụt Phan Huy Quát, vì cho rằng ông Quát là người của GH Phật GíaoVNTN.

Đến ngày 27/5/1965 (7 ngày sau), lực lượng Đại Đoàn Kết Thiên Chúa Giáo Sài Gòn biểu tình chống chính phủ Phan Huy Quát, vì cho rằng Thủ Tướng Phan Huy Quát theo GHPGVNTN.

Lần cuối ghê tởm hơn. Lần cuối này do một số chính khách chính trị Thiên Chúa Giáo Sài Gòn và các nơi hợp nhau vào Dinh Gia Long xin yết kiến Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu với lời lẽ thô bạo bất tín nhiệm Thủ Tướng Phan Huy Quát. Sau đó, lực lượng Thiên Chúa Giáo cả trong lẫn ngoài biểu tình la hét, chiếm Dinh Gia Long nhiều giờ... Họ ăn uống, ngồi la liệt, vứt rác bừa bãi khắp nơi như chỗ chợ đời vào ngày 7/6/1965 (sau 1 tháng).

  Trước những hiện tượng biểu tình thô bạo, bạo động xông tới quậy phá, ám sát ông Quát của giới Cần Lao Thiên Chúa Giáo trong và ngoài quân đội, khiến cho Thủ Tướng Phan Huy Quát chán ngán, quyết định rời khỏi chức vụ Thủ Tướng, trao quyền lại cho quân đội vào ngày 12/6/1965 (sau 5 ngày). Nội các quân phiệt ra đời vào ngày 19/6/1965 (sau 7 ngày quân đội giao quyền cho Tướng Nguyễn Chánh Thi - Tướng Thi giao quyền lại cho Tướng Kỳ). Tướng Kỳ làm Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Tướng Thiệu làm chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia. Cần Lao Nguyễn Văn Thiệu, trong vai trò CT UBLĐQG, ký sắc lệnh cho các thuộc hạ Cần Lao trong và ngoài quân đội tổ chức bầu cử Quốc Hội. Sắc lệnh ký ngày 12/04/1966. Đến ngày 16-8-1966, Giáo Hội Phật Giáo VNTN ra thông cáo tẩy chay cuộc bầu cử  Quốc Hội Lập Hiến vì tất cả Phật tử có điều kiện ra tranh cử đều bị vô hiệu hóa, bị bắt nhập ngũ, hoặc ở tù vì tranh đấu vận động bầu cử Quốc Hội Lập Hiến ! Còn những người chống bầu cử Quốc Hội Lập Hiến của Phật giáo, phần nhiều là các tổ chức Thiên Chúa Giáo giờ đây ra tranh cử QHLH được tổ chức vào ngày 11-9-1966. Cùng ngày này, tổ chức Liên Tôn ra thông cáo lên án chính phủ Nguyễn Cao Kỳ tham nhũng, luật bầu cử QHLH phản dân chủ. Ngày 21- tháng Mười, 1966  Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất bị phân hóa thành hai : Việt Nam Quốc Tự và ẤN QUANG (Như Áng Mây Bay- TÂM ĐỨC-  Từ trang 287-291). Hiến Chương GHPGVNTN (ra đời 4-1-1964) bị Thiệu Kỳ cho đông lạnh. Bên Việt Nam Quốc Tự có Hiến Chương mới. Đến khi Tổng Thống Thiệu được đắt cử nhiệm kỳ II do độc diễn (3-10-1971), TT Thiệu cho người đến gặp HT Trí Quang, nhã ý xin trả Hiền Chương. Chuyện này được HT Trí Quang ghi rõ lại trong tập“Tiểu Truyện Tự Ghi” của Ngài.

   Nói rõ hơn Việt Nam Cộng Hòa của hai đời Tổng Thống Diệm và Thiệu, là nước Thiên Chúa Giáo La Mã (lịch sử Ác).  Do vì xây dựng nước Thiên Chúa Giáo trên mảnh đất miền Nam VN, là nơi có tôn Giáo lớn cổ truyền lâu đời của dân tộc, đó là Phật Giáo có tín đồ cao nhất với con số 80% cho nên anh em ông Diệm mới cai trị dân miền Nam bằng cảnh sát, trong đó có 13 tổ chức công an, mật vụ, là những công cụ để bắt ép dân miền Nam Tam Giáo cải Đạo. Chứ chẳng phải để chống cộng sản. Vì không nhắm vào chống Cộng, họ đã chiêu dụ những cán binh cộng sản chiêu hồi. Họ liền ra chiêu hồi giả. Sau đó họ được các Linh mục đem vào nhà thờ rửa tội theo đạo Thiên Chúa, đưa vào Dinh Độc Lập và các cơ chế chính phủ, chính quyền. Chính những Cán bộ CSVN này đã phá vỡ toàn bộ cơ cấu Đệ II VNCH vào mùa xuân 1975, gọi là “gậy ông đập lưng ông, nuôi ong tay áo”. Những ai lâu nay vì quá si mê, ám độn, nên đã nói rằng Đệ II VNCH bị tan hàng là do Phật Giáo theo Cộng sản, Hãy sáng suốt lại đi, đừng u mê nữa ! Sáng suốt mới thấy anh, em ông Diệm, Cần lao. Lm Thiên Chúa VN cấu kết với CSVN, để rồi bị CSVN giải thể VNCH, đúng như Mỹ đã thấy mất Nam VN ngay từ  cuối năm 1961: Lỗi Lớn Là Do Chế Độ Diệm- Theo tài liệu Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ, ký hiệu NSAM 263- Hồ Sơ Mật 1963 – Trang 244- ở nhan đềMỸ ĐÃ THẤY MẤT VIỆT NAM TỪ CUỐI NĂM 1961: LỖI LỚN LÀ DO CHẾ DỘ ÔNG DIỆM.

Ngạn ngữ VN có câu “Hổ phụ sanh Hổ tử” Hay “Rau nào Sâu nấy”, Cha nào Con nấy. Đúng thật, Ông Diệm đã gây cái tội lớn là đàn áp Phật Giáo để độc tôn đạo Thiên Chúa của ông, không lo chống CSVN, nên chi bị Hoa Kỳ thay ngựa giữa dòng. Đến đời Đệ II VNCH, Tổng Thống  Thiên Chúa Nguyễn Văn Thiệu, các Tướng, Tá Cần Lao, viên chức chính phủ, chính quyền gốc Thiên Chúa, không lấy đó làm gương, cùng nhau đi lại vết xe đổ của ông Diệm, trong đó vừa đảo chánh vừa gây vô số hành động khủng bố, hâm dọa ra mặt, ẩn tàng hành động ám sát,… một cách quyết liệt đầy áp lực, bạo động, không nương tay đối với những ai lên nắm chính quyền VNCH, mà không phải là người tín hữu Thiên Chúa Giáo như vậy, là nhằm vào  cho mục đích cướp lại chính quyền, toàn là người của họ, để phục hưng chế độ Diệm, chế độ chuyên  xây dựng lại nước Chúa VNCH. Đã khiến cho Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu, Thủ Tướng Phan Huy Quát trong Chính Phủ VNCH đã nhìn ra “Mình” không phải là tín hữu Thiên Chúa Giáo, thì không thể cầm quyền, điều hành Chính Thể VNCH được. Nếu cương quyết ngồi trên hai ghế Quốc Trưởng, Thủ Tướng đó, ắt sẽ bị Thiên Chúa ám sát tiếp, vì cụ Phan Huy Quát đã bị nhóm Thiên Chúa Hố Nai ám sát hụt  vào ngày 20-5-1965, do vậy hai cụ liền từ chức, giao quyền lại cho Quân đội.

    Sau khi được nghe hai cụ Phan từ chức, giao quyền lại cho quân đội, liền có tin hành lang rằng; Tướng Nguyễn Chánh Thi được một số Tướng, Tá trong QLVNCH tại Bộ Tổng Tham Mưu đề nghị đứng ra thành lập chính quyền, nội các mới, lên luôn ngôi vị Quốc Trưởng. Nhưng Tướng Thi nhất quyết không nhận lời, bởi vì Tướng Thi vốn là kẻ thù chung ngàn đời của các giới Thiên Chúa Giáo VN, do quá trình (Đại Tá) đem quân Dù làm cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào ngày 11 và 12 tháng 11 năm 1960. Vì thế Tướng Thi đơn phương đề cử Tướng Kỳ, thử xem sao ! Tức thì Tướng Nguyễn Cao Kỳ nhận lời ngay một cách mạnh dạn không sợ Cần Lao nhưng, Tướng Kỳ khôn lanh ở chỗ là không dám mời các Tướng ngoài KiTô, phải mời một Tướng Cần Lao hợp tác mới yên thân, đó là Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Nếu không nói là trúng kế của toàn thể tín hữu Ki Tô Giáo. Thế là Nội Các Chiến tranh ra đời vào ngày 19 tháng 6-1965. Tướng Kỳ giữ chức Thủ Tướng bằng một cụm từ mang tính sát phạt “ Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương”. Tướng Thiệu giữ chức Quốc Trưởng bằng cụm từ “Chủ Tịch Ủy Ban Ban Lãnh Đạo Quốc Gia”. Do đó tập đoàn Thiên Chúa Giáo trong Quân đội và ngoài xóm đạo mới ngồi im, không biểu tình, đảo chánh nữa. Bởi vì ý muốn của họ đã đạt được một nửa, đó là có người KiTô của họ trong chính phủ Quân phiệt VNCH. Còn một nửa nữa là nắm trọn quyền lực trong tay theo kế hoạch xâm thực từng bước từ A…đến Z.  A là đưa Tướng, Tá, viên chức gốc Cần Lao, Thiên Chúa vào các cơ quan đầu não của chinh phủ, chính quyền trung ương đến địa phương. Quả thật, họ đã tràn ngập khắp trong các cơ chế chính phủ, chính quyền từ trung ương đến địa phương từ lúc còn chính phủ quân phiệt cho đến nhiệm kỳ Tổng Thống đợt đầu vào ngày 1-4-1967. Trong khi đó Tướng Kỳ bị cô đơn một mình, không có phe cánh.  Z là hoàn toàn Thiên Chúa Giáo hóa trong các cơ chế đầu não chính phủ, chính quyền từ trung ương đến địa phương. Cũng là lúc Tướng Kỳ bị Cần Lao hất cẳng ra khỏi chính phủ, chỉ còn một mình ông Thiệu tự độc diễn lên ngôi vị Tổng Thống nhiệm kỳ hai, ngày 3-10-1971, được bao bọc chung quanh bởi một đạo quân Thiên La Địa Võng Cần Lao, KiTô Giáo, mời Trần Văn Hương, ông giáo làng già làm phó Tổng Thống, để gọi là có người ngoài đạo Chúa trong chính phủ, nhưng chỉ là ngôi vị ngồi chơi xơi nước. Thủ Tướng vẫn là Tướng Cần Lao Trần Thiện Khiêm, con chim đầu đàng của đám Cần Lao tham nhũng trong chính quyền.

  

Bụi Cỏ “CÚ” Đệ I VNCH Vẫn Còn Rễ Con.

   Đúng thật, anh em Ngô Đình Diệm bị Hội Đồng Quân Nhân đảo chánh, lật đổ vào ngày 1 tháng Mười Một, năm 1963 hoàn toàn không còn ai. Nhưng còn lại nhiều Tướng, Tá Cần Lao trong QLVNCH giả vờ theo chánh phủ Cách Mạng Dương Văn Minh, sau đó họ cấu kết vùng lên đảo chánh nhiều lần đối với những ai trong các chính phủ, mà không phải là người Thiên Chúa của họ. Đúng như lời người xưa nói “ Nhổ cỏ là phải nhổ tận gốc, bằng không cỏ sẽ mộc lại do còn các rễ con”.Quả thật nhiều Tín hữu Ki Tô Giáo trong các xóm đạo và một số tướng Tá Cần Lao trong QLVNCH và tình báo Cộng sảnVN cấu kết nhau từng nhóm có điều binh ra giữa Sài Gòn, điển hình rõ nét là Đại Tá cs Phạm Ngọc Thảo, làm nhiều cuộc đảo chánh gây rối loạn, cách nhau một tuần, tháng, hai tháng… Cuộc đảo chánh đầu tiên không tiếng súng, gọi là cuộc chỉnh lý, do Tướng Nguyễn Khánh gốc Cần Lao, đem quân bao quanh tư thất các Tướng trong Hội Đồng QNCM và bắt đem giam ở Đà Lạt và ngay tại Sài Gòn. Sau đó nhiều nhóm khác thay nhau làm nhiều cuộc đảo chánh gây náo loạn do một số Tướng. Tá Cần Lao, cùng với tình báo CSVN như ĐT Phạm Ngọc Thảo trong QLVNCH chỉ đạo, xuất hiện làm đảo chánh, đúng như lời ông Võ Văn Kiệt, cựu Thủ Tướng CHXHCNVN nói : “Tôi thấy Thảo gặp khó khăn nên đi tìm anh để đưa về chiến khu, nhưng anh bảo vẫn còn khả năng đảo chánh để ngăn chặn đế quốc Mỹ đem quân vào miền Nam VN”. ĐT Phạm Ngọc Thảo cùng với Tướng Cần Lao Lâm văn Phát, Nguyễn Bảo Kiếm, với sự tiếp tay của một số đoàn thể Thiên Chúa giáo làm đảo chánh ngày 19-2-1965. Hai cuộc đảo chánh tiếp theo: 20 tháng 5- 1965. 27 tháng 5-1965, đều do tín hữu Thiên Chúa giáo hành động.

   Đến ngày 7 tháng Sáu 1965, một đoàn thể chính trị Thiên Chúa giáo ở Sài Gòn, Hố Nai Biên Hòa hợp nhau kéo vào dinh Gia Long một cách ngang ngược để tìm gặp cho bằng được Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu, rồi hành động biểu tình la hét chống chính phủ Phan Huy Quát, vì hai cụ PHAN là theo đạo thở Ông Bà, có thân thiện với Phật Giáo. Đám người biểu tình ăn, uống vất đồ bừa bãi tứ tung như chỗ không người. Tất cả các cuộc đảo chánh của các Tướng, Tá Cần Lao, tín hữu Thiên Chúa tại Sài Gòn đều thất bại, vì Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn không chấp nhận. Trước các hiện tượng biểu tình bừa bãi, không chính đáng của người Ki Tô Giáo VN nói chung, Tướng Tá Cần Lao nói riêng, đã làm cho các Tình báo CIA, và  nhân viên Tòa Đại Sứ Mỹ chán ghét trước những vụ thay đổi chính quyền, âm mưu đảo chánh liên tiếp năm 1964, 1965 cho nên ông Stanley Karmow gọi đó là một “tội lỗi căn bản”.

   Đến ngày 21-12- 1964, Taylor  yêu cầu Nguyễn Khánh và các Tướng trẻ đến gặp ông ở tòa Đại sứ. Chỉ có bốn tướng đến dự là Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi và Lê Nguyên Khang. Taylor nói :

  “ Các ông có hiểu tiếng Anh không? Sau khi nhóm Việt Nam cho biết là họ hiểu, Taylor nói tiếp: “ Trong bữa ăn ở nhà tướng Westmoreland, tôi đã nói rõ cho tất cả các ông biết rằng người Mỹ chúng tôi đã chán ngấy những vụ đảo chánh. Dường như tôi đã phí lời. Có lẽ tiếng Pháp của tôi không được rành, vì rõ ràng các ông đã không hiểu. Tôi đã nói rõ là tất cả những kế hoạch quân sự mà tôi biết các ông muốn thi hành điều này tùy thuộc vào sự ổn định của chính quyền. Bây giờ thì các ông đã làm nát bét hết. Chúng tôi không thể cưu mang các ông mãi nếu các ông cứ làm những chuyện như thế này. Ai là người nói thay cho cả nhóm ? Các ông có người phát ngôn không ?”. (Việt Nam 1945-1995- trang 326- GS Lê Xuân Khoa).

   Các cấp lãnh đạo chính phủ trung ương Hoa kỳ ở Washington DC không thể im lặng trước nhiều vụ đảo chánh bất hợp pháp sau HĐQNCM Dương Văn Minh, họ đem lời chỉ trích : “ Các tướng lãnh VNCH chỉ quan tâm đến việc tranh chấp quyền hành và bảo vệ quyền lợi cho phe nhóm hơn là lo chiến đấu chống cộng sản”. Thật sự chỉ có những Tướng Cần Lao Thiên Chúa mới tranh giành quyền hành, bảo vệ phe nhóm họ, chứ các Tướng lãnh theo Đạo Phật, Nho giáo, không ai có hành động tranh chấp, tranh giành chức quyền, ngay cả buôn lậu, cũng không. (Việt Nam 1945-1995 trang 325- GS Lê Xuân Khoa )

   Điều đáng nói đây; những cuộc đảo chánh, gây rối loạn xã hội VN trong năm 1964 do các Tướng, Tá Thiên Chúa trong QLVNCH và thường dân trong xóm đạo với nhau, vì nghĩ sai rằng anh em ông Diệm chết do các Tướng lãnh Phật Giáo đảo chánh, cho nên đảo chánh lại để trả thù. Nhưng tại sao họ cấu kết với tình báo CSVN (Pham Ngọc Thảo) làm đảo chánh? Chuyện cũ đã qua hơn nửa thế kỷ, nhưng người viết xin hỏi đồng bào Ki Tô Giáo VN hải ngoại, còn nói rằng chư Tăng PGVN trước 1975 theo CSVN nữa hay không?     

 HT Trí Quang Và Các Giới Chức Mỹ

Cùng Thấy CẦN LAO VÙNG DẬY.

 

Ông Richard Helms, phó Giám đốc kế hoạch CIA nói : “ Thiệu, một tín đồ Công giáo, từ lâu đối với Trí Quang đã là biểu tượng chính cho sự ngoan cố của chính phủ VNCH không chịu dứt khoát với chế độ Công giáo trị của thời Diệm”. Ông Topmiller nói lên ý tưởng HT Trí Quang mong muốn. Ông nói: “ Trong khi các quan chức Mỹ muốn có một chính phủ ổn định ở Miền Nam trên hết và trước hết, thì Trí Quang lại muốn thấy một chế độ “Cách Mạng”, một chế độ mà ông định nghĩa là thật sự không còn ảnh hưởng người Công giáo tàn dư của Diệm hay Cần Lao. Trí Quang muốn trở thành một nhân vật duy nhất có quyền chọn lựa lãnh đạo cho chính trường Miền Nam, chứ không phải quan hệ với Cộng sản, hay có khuynh hướng trung lập hay thiếu nhiệt tình chống Cộng như một số người gán ghép cho ông. Mặc dù tuyên bố rằng; ông sẽ thẩm định chính phủ mới trên cơ sở thành tích hoạt động, nhưng Trí Quang lo ngại rằng bản thân (chính phủ Thiệu) nhiều thành viên trong nhóm âm mưu đảo chánh vốn là người của Diệm. (Theo tài liệu Thích Trí Quang và chiến tranh Việt Nam. JAMES McALLISTER Cập nhật: 19/08/2008- Trần Ngọc Cư dịch từ tiếng Anh- Trang 4,5, 19/ 31).

   

Viện Hóa Đạo GHPGVNTN Tiếp Tục Chống

      CẦN LAO Trong Chính Phủ Quân Phiệt THIỆU KỲ.

Lý do nào mà Phật Giáo VN tiếp tục biểu tình chống chính phủ Quân Phiệt Thiệu  Kỳ ? Lý do thật quá rõ ràng, là tập đoàn Cần Lao cấu kết nhau làm nhiều cuộc đảo chánh đã được thống kê như trên cho ta thấy rõ mục đích của họ là dựng lại chính thể VNCH Thiên Chúa Giáo như thời Diệm, một chế độ độc tài đảng Cần Lao trị, đi ngược lại tự do, dân chủ, nhân quyền của Hoa Kỳ, trong đó Phật Giáo VN chắc chắn sẽ bị Thiên Chúa Giáo tiếp tục đàn áp để trả thù cho Diệm. Chưa nói đến Cần Lao không lo quốc phòng, chỉ lo ôm hết quyền hành, tham nhũng, xây dựng đạo Chúa, VNCH ắt sẽ bị lọt vào tay CS Bắc Việt, là đằng khác. Chừng đó các tôn giáo Miền Nam, liệu có được tự do hành đạo hay không? Các giáo phẩm tôn giáo, có tự do hay vào tù, bị CSVN giết chết ! Thật rõ ràng được thấy 2 vị Hòa Thượng PGVNTN đã bị  CSVN đày ra khỏi Sài Gòn, HT Quảng Độ bị ra ở Thái Bình Bắc Việt, HT Huyền Quang bị đày ra ở chùa Hội Phước Quảng Ngãi, HT Đức Nhuận bị tù, ra tù về chùa Giác Minh, chẳng bao lâu, viên tịch. Riêng HT Trí Quang bị CSVN giam lỏng tại chùa Ấn Quang, Già Lam Gò Vấp.(Trang 24/ 31 Thích Trí Quang và Chiến Tranh Việt Nam…)

    Tư tưởng lo xa cho dân tộc VN nói chung, nói riêng cho dân tộc Miền Nam của chư Tăng trong Viện Hóa Đạo- GHPGVNTN, mà HT Thích Trí Quang, là vị Tăng quan tâm hàng đầu hơn hết. Tư tưởng đó của HT Trí Quang, đã được ông Richard Helms, phó Giám đốc CIA Mỹ, sau khi đọc lá thư  HT Trí Quang gởi cho Đại Sứ Henry Cabot Lodge vào tháng Năm 1965, đã đem lời nhận định: “ Trí Quang ít khi liên hệ với giới chức Mỹ qua thư từ chính thức và rõ ràng lá thư này tiêu biểu cho một nổ lực diễn đạt những tâm tư sâu kín nhất của ông về tình hình Việt Nam. Điều đáng tiếc là những suy nghĩ được diễn tả trong thư tiết lộ rằng cuộc xung đột tôn giáo ở Việt Nam vẫn là quan tâm hàng đầu của Trí Quang. Theo cách nhìn của ông người Công giáo không phải là người thật tâm chống cộng trong khi người Phật giáo thì cho rằng chính sách của Mỹ có khuynh hướng ưu đãi đạo Công giáo. Người Mỹ bị dân chúng coi là không khác gì người Pháp trong việc “ dùng người Công giáo để tiêu diệt Phật tử”. Nếu Hoa Kỳ muốn khỏi bại trận, họ không còn cách nào hơn là phải đảo ngược chính sách của mình và chủ trương một chính sách cách mạng, một chính sách mà nội dung cơ bản, theo Trí Quang, là các phần tử Công giáo Cần Lao ác ôn và bè lũ Đại Việt phản động phải bị loại trừ”.(Thích Trí Quang và Chiến Tranh VN- Trang 18- dựa trên  hồ sơ lưu trữ Bộ ngoại  Mỹ- Nguyễn Ngọc Cư dịch từ tiếng Anh)

         

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VN THỐNG NHẤT –VIỆN  HÓA ĐẠO

   Vận Động Toàn Quân Dân Bầu Cử QUỐC HỘI LẬP HIẾN

 

   Trước nhiều hiện tượng biểu tình của bạo lực Cần Lao và Thiên Chúa Giáo nhằm vào mục đích tái lập chính thể Ngô Đình Diệm, một chính thể đã từng tiêu diệt tìm lực Phật Giáo. Điều này đã được HT Trí Quang đoán trước không sai, Ngài nói: “ Ông Ngô Đình Diệm đổ rồi, đúng như tôi dự đoán, vấn đề Phật Giáo không phải kết thúc mà là bắt đầu. Từ đây Phật Giáo ở trong tình trạng cây muốn lặng mà gió không ngừng” (Trích từ Tiểu Luận Tự Ghi- HT Trí Quang). Vì thế cho nên Phật Giáo VNTN, phải một lần nữa đứng lên vận động tòan Dân, Quân tham gia bầu cử Quốc Hội Lập Hiến, để thành lập một chính phủ VNCH do dân, vì dân. Như thế mới có thể loại trừ tất cả Cần Lao ra khỏi các cơ cấu chính quyền VNCH mới.

     Hai cuộc tranh đấu của Phật Giáo VN năm 1963 đối với Ngô Đình Diệm và năm 1966 đối với tập đoàn Cần Lao trong chính phủ Quân Phiệt Thiệu Kỳ, luôn được tương quan mật thiết với các chính khách Hoa Kỳ trung ương tại Washington DC và Tòa Đại Sứ Mỹ Sài Gòn. Điều này được ông George Caver tin rằng sự tương hợp các mục tiêu của Mỹ đối với phe Phật Giáo TN vẫn còn tồn tại. Ông cho rằng không có sự ủng hộ tích cực của giới Phật giáo thì chính sách của Mỹ không thể nào thành công được. Thật vậy, Caver mạnh dạn hàm ý rằng quyền lợi của Mỹ có thể được phục vụ tốt hơn nhờ một chiến thắng của phe Phật giáo vì “ một chính phủ trong đó quần chúng Phật tử có một tiếng nói ưu thế sẽ tạo được điểm hội tụ cho chủ nghĩa quốc gia đang vươn dậy, một chủ nghĩa nhiên hậu có thể cung ứng cho toàn bộ cơ chế quốc gia chủ nghĩa và phi cộng sản một nền móng vững chắc hơn cơ chế hiện nay đang có ”. (Thich Trí Quang và Chiến Tranh Việt Nam- Trang 22- Nguyễn Ngọc Cư dịch từ tiếng Anh)

          

Cuộc Vận Động Bầu Cử QUỐC HỘI

LẬP HIẾN Của GHPGVNTN.

 Nhìn Thấy Trước…Trước hiện tình miền Nam VN vô quân, vô chính phủ, thượng hạ chống trái nhau, xã hội rối loạn, chiến tranh chết chóc,…trong năm 1965. Làm cho Chư Tăng lãnh đạo GHPGVNTN-Viện Hóa Đạo lúc bấy giờ, phải đứng ra, (tìm cách cứu vãng VNCH miền Nam sao cho được đứng vững, là phải có Quốc Hội Lập Hiến do dân, để xóa đi chính phủ quân phiệt Cần Lao, tái lập chính thể VNCH lý tưởng đúng với bản chất tự do, dân chủ của Hoa Kỳ đã trao cho ông Ngô Đình Diệm, nhưng ông không theo, lại theo bản chất của GH Thiên Chúa La Mã là Chúa trên hết. Đến thời ông Thiệu, các Tướng, Tá Cần Lao cấu kết nhau đi lại vết xe cũ của ông Diệm, gọi là Diệm, không Diệm. Ý nghĩa Diệm không Diệm là PGVN tiếp tục bị Cần Lao Thiên Chúa chèn ép, đánh phá nhằm tiêu diệt, trong đó có các Tướng Tá trong QLVNCH và nhân viên hành chánh gốc Phật tử bị Cần Lao chèn ép, tuần tự bị loại trừ ra khỏi Quân Lực và chính quyền, thay vào đó toàn là tín hữu Ki Tô Giáo.

   Vị Đại Tăng đã nhìn thấy được Phật Giáo VN đã và đang bị dư Đảng Cần Lao trong chính phủ Quân Phiệt Thiệu - Kỳ, tìm cách đàn áp và tiêu diệt như dưới thời Diệm. Đó là HT Thích Trí Quang. Cho nên Ngài đã đưa ra ý kiến, Phật Giáo phải dấn thân lần nữa, là vận động toàn quân và dân, mở cuộc tranh đấu với chính phủ quân phiệt Thiệu - Kỳ, để đòi bầu cử Quốc Hội Lập Hiến, là cơ hội xóa bỏ dư Đảng Cần Lao, chính phủ VNCH do dân làm chủ một cách bình đẳng không phân biệt tôn giáo…, ra giữa một buổi họp của Chư Tăng trong Hội Đồng Lưỡng viện Viện Hóa Đạo. Tư tưởng phải tranh đấu của HT Thích Trí Quang, được chứng minh qua lời của Ngài sau đây:

“…Ông Ngô Đình Diệm đổ rồi, đúng như tôi dự đoán, vấn đề Phật Giáo không phải kết thúc mà là bắt đầu. Từ đây sắp đi, Phật Giáo ở trong tình trạng cây muốn lặng mà gió không ngừng,… Quan điểm tương phản đến mức đó nên phải có vụ 1966…” (Tiểu truyện tự ghi HT Trí Quang - trang 3)

NHÂN SỰ VẬN ĐỘNG BẦU CỬ QUỐC HỘI LẬP HIẾN.

Nhân sự một, giai cấp chỉ đạo, là Chư Tăng trong Hội Đồng Lưỡng Viện – GHPGVNTN. Nhân sự hai, là lực lượng vận động. Đó là toàn dân Tam Giáo ngoài xã hội, quân nhân các cấp trong các binh chủng QLVNCH và nhân viên hành chánh các cấp trong chính phủ, chính quyền VNCH từ Trung Ương đến địa phương. Nhân sự ba, là người chỉ huy lực lượng quần chúng (quân nhân, cán bộ hành chánh, và toàn dân) trong các cuộc tranh đấu bất bạo động ở hình thức biểu tình, tuyệt thực… Đó là hai Tướng Nguyễn Cao KỳNguyễn Chánh Thi.Tướng Thi chỉ huy mặt nổi là động binh ở quân và dân; Tướng Kỳ chỉ huy ngầm ở hậu phương (Trung Ương) trong đó vận động các Tướng vùng, sư đoàn đem tâm ủng hộ, đừng chống đối. Bởi vì Tướng Kỳ, được đa số Tướng Tá có cảm tình, là do tâm chánh trực không tham nhũng, không bè phái. Hơn nữa đang ở ngôi vị Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương của chính phủ quân phiệt; cũng như gốc Phật Giáo. Cả hai Tướng Thi và Kỳ ở ngôi vị chỉ huy đoàn binh biểu tình bất bạo động, thì nhất định công cuộc tranh đấu đòi bầu cử QHLH của Phật Giáo, ắt sẽ thành công. Nếu không nói rằng cuộc tranh đấu đòi bầu cử QHLH của Phật Giáo VNTN đang ở thế thượng phong, cơ hội tốt nhất đưa đến thắng được tập đoàn Cần Lao, một Quốc Hội Lập Hiến sẽ hiện hữu trong Đệ III VNCH, mà Tướng Thi là Tổng Thống, Tướng Kỳ Phó Tổng Thống hay ngược lại, Tướng nào cũng được.

Tư tưởng phân bố chức vị tranh đấu thực tại và mai sau khi được thành công, cũng như kế hoạch vận động và hành động kế hoạch của hai Tướng Kỳ, Thi, như đã nói trên được chư Tăng VHĐ trong hai viện đồng ý sau hai ba lần hội họp. Mặc dù theo tin hành lang lúc bấy giờ cho biết HT Tâm Châu chọn Tướng Kỳ cầm quân tranh đấu. Quý HT khác nói rằng; Tướng Kỳ đang có chức vụ CT UBHP Trung Ương, giữ cho việc vận động thì có kết quả hơn là cầm quân, vì Tướng Kỳ có tánh nóng, bất đồng đột xuất khó có thể chỉ huy đoàn binh. Tướng Thi đang là Tư Lệnh Quân Đoàn Một, là thuận lợi ở hoàn cảnh và môi trường, có quân trong tay. Vùng một Phật tử ngoan đạo hơn, dễ tiến quân. Qua mấy lần giằng co giữa Tướng Kỳ và Tướng Thi ai là Tướng cầm quân. Cuối cùng Tướng Thi được Chư Tăng chọn chỉ huy đoàn binh tranh đấu ở Đà Nẵng – Huế (Những tin tức trên là bán chính thức thời đó).

CẤU TRÚC MỘT CHÍNH THỂ VNCH  DÂN CỬ

Cấu trúc một chính thể mới VNCH  Dân Cử. Trước hết được thấy đó là Quốc Hội (Hạ, Thượng Viện) do người dân có tài đức ra ứng cử, tranh cử được toàn dân chọn và bầu cử. Một số cơ chế mới; đó là một chính phủ Trung Ương, được có đủ ba bộ Lập Pháp, Tư Pháp, Hành Pháp và một số cơ chế hành chánh khác (Tổng, Bộ Trưởng).Tất cả đều dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống, Phó Tổng Thống dân sự. Ngoài chính phủ Trung Ương, có 4 chính phủ tại 4 Quân Đoàn, vùng chiến thuật. Nhân sự chỉ đạo hành chánh vẫn là dân sự. Bốn chính phủ tại 4 vùng, được gọi là Đại Biểu Chính Phủ. Tất cả Tỉnh Trưởng đều là dân sự, trực thuộc Đại Biểu Chính Phủ địa phương. Một chính thể VNCH  Dân Cử, được có hai bộ phận Quân Sự và Chính Trị. Quân sự, vẫn giữ 4 Quân Đoàn và Biệt Khu Thủ Đô do Tướng lãnh chỉ huy, luôn trực thuộc Chính Phủ Trung Ương và Đại Biểu. Nhân sự chỉ huy Quân lực đều do sĩ quan các cấp (Tướng, Tá, Úy) đảm trách. Về chính trị, từ Tổng Thống, Phó Tổng Thống, xuống các Bộ, Nha, Tỉnh, Quận, Xã Trưởng, đều do dân sự chỉ huy. Riêng Bộ Quốc Phòng vẫn là một Tướng lãnh.Về lực lượng Bán Quân Sự, như Cảnh Sát, Tình báo, vẫn là dân sự, nhưng có thêm đơn vị Quân báo trực thuộc Bộ Quốc Phòng. Cấu trúc một chính thể mới VNCH  Dân Cử nói trên, lúc bấy giờ chỉ là một dự án, chưa thực thể. Do một số trí thức Phật tử trong và ngoài QLVNCH soạn thảo. Nếu Chính Phủ Dân Cử được thành công sau cuộc tranh đấu đòi bầu cử Quốc Hội Lập Hiến được kết quả hiện thực, thì dự án đó được thực hiện cho Chính Phủ Đệ III VNCH mới.

   Vấn đề soạn thảo những cơ chế cho một Chính Phủ, mang tính chính trị giữa thời điểm Cần Lao đang hoành hành thống trị dân tộc miền Nam lúc bấy giờ, không phải như là cuộc hàn huyên uống nước trà! Rất là nguy hiểm tánh mạng trước các bạo lực Cần Lao và nhân sĩ Ki Tô, từ chết đến bị thương, vào nhà tù! Do vậy, chỉ có một mình HT Thích Thiện Minh và một vài vị Phật tử ở lãnh vực quân sự. Điều này được thấy HT Thích Thiện Minh đến Bộ Tư Lệnh Không Quân Tân Sơn Nhất hội kiến với Tướng Kỳ lúc bấy giờ, cứ cách hai hôm hay một vào buổi tối và các nhân sĩ chính trị VNCH, ngồi lại bàn luận, soạn thảo. Do đó HT Thiện Minh bị Cần Lao của Tướng Thiệu ám sát bằng lựu đạn tháng 6-1966.Với HT THÍCH TRÍ QUANG lúc bấy giờ có thể được biết đến cấu trúc chính trị chính phủ VNCH Dân Cử nói trên. Tất cả Chư Tôn Đức Giáo Phẩm khác hoàn toàn không biết. Mãi đến sau khi cuộc tranh đấu đòi bầu cử QHLH ở miền Trung, bị Tướng Kỳ đàn áp, tan rã, Chư Tăng và chúng tôi mới được biết. Cũng nên nói thêm rằng; sau 30-4-1975, tất cả chư tôn Đức Giáo Phẩm GHPGVNTN, đều bị CSVN bắt vào tù và đày xa xứ như hai HT Huyền Quang bị giam lỏng trong chùa Hội Phước Quảng Ngãi, HT Quảng Độ bị về quê ở Thái Bình. Riêng HT Thích Thiện Minh bị CSVN bắt nhốt vào nhà tù ở đường Phan Đăng Lưu Gia Định rồi bị họ giết chết trong đó, giai do soạn thảo đề cương chính trị cho một VNCH mới dân cử và liên đới với nhiều Tướng, Tá VNCH trong quá khứ. HT Trí Quang bị CSVN giam lỏng ở chùa Ấn Quang và  Tu Viện Già lam.

CẦN LAO TUNG DƯ LUẬN ĐÁNH PHÁ.

Phong trào được bắt đầu từ tháng  2- 1966. Đến tháng 3-1966, nhiều dư luận tiếng bạc, tiếng chì từ trong quân đội nói ra, từ ngoài dân nói vào quân đội. Trong nói ra, ngoài nói vô. Hai chiều ra, vô. Nhưng chỉ một giọng điệu rằng: “Tướng Nguyễn Chánh Thi là người của Quý Hòa Thượng, Thượng Tọa miền Trung, chắc chắn sẽ lên ngôi vị Tổng Thống chính phủ VNCH Dân Cử. Còn Tướng Nguyễn Cao Kỳ của các Sư Bắc (Thượng Tọa Thích Tâm Châu) sẽ bị các sư Huế cho ra rìa. Đừng hòng chức vị Phó Tổng Thống, Tết Công Gô mới được! Phó Tổng Thống sẽ là một vị trí thức Phật Giáo có khoa bảng.”

   Tiếng đồn đãi xấu ác đó, không ai xa lạ. Đó là các ông Tướng Tá Cần Lao ở sau hậu trường chính phủ quân phiệt. Họ nói ra lời ác ấy, nhắm vào chia rẽ giữa Tướng Kỳ với Tướng Thi, Thượng Tọa Thích Tâm Châu với Thượng Tọa Thích Trí Quang, Chư Tăng miền Bắc với Chư Tăng miền Trung, miền Nam.Trong khi đó Thượng Tọa Thiện Minh, cứ cách vài chiều tối, Thượng Tọa được ông tài xế tên Trọng, người Huế lái chiếc NISSAN màu đen bốn cửa, đến Bộ Tư Lệnh Không Quân Tân Sơn Nhất. Thỉnh thoảng người viết cũng được Thượng Tọa bảo đi theo, để cho ông tài xế Trọng khỏi phải bị cô đơn trong thời gian xe đậu ở parking khoảng hai, ba giờ dưới trời đêm Sài Gòn oi bức, để chờ Thượng Tọa xong cuộc bàn luận chính trị với Tướng Kỳ, thầy trò ra về.

HOA DÂN CHỦ NỞ TRONG LÒNG DÂN TỘC

Mặc dù giới Cần Lao Thiên Chúa trong quân đội, hành chánh chính trị và ngoài xóm Đạo, họ đua nhau nói ra nhiều lời ác, nhẳm chia rẽ các cấp lãnh đạo PGVNTN trong Hội Đồng chỉ đạo phong trào đòi bầu cử Quốc Hội Lập Hiến của Phật Giáo như vậy. Nhưng hằng triệu con tim Tam Giáo trong Quân Lực VNCH và người dân ngoài xã hội, vẫn vui mừng nở hoa dân chủ trong lòng và tiếp tục hiện hữu ở đôi chân, từng bước hăng say tiến về Dinh Độc Lập ở tương lai, một ngày không xa. Bởi vì bao nhiêu năm rồi, bị chính phủ VNCH Thiên Chúa Giáo cai trị, người dân không được một chút tự do, dân chủ. Niềm khao khát dân chủ từ lâu, thì nay được Phật Giáo VN đứng lên tranh đấu để cho toàn dân được có dân chủ. Nói rõ hơn, phong trào tranh đấu Phật Giáo đòi bầu cử QHLH trên cả nước, sâu rộng vào toàn quân, cán chính Tam Giáo ở bốn Vùng Chiến Thuật và Quân Đoàn. Tất cả đang hưởng ứng hướng về trung tâm chỉ đạo tại Đà Nẵng Quân Đoàn I. Mặc dù đang bận rộn công vụ, nhưng có sự tập hợp tư tưởng và đơn vị và sửa soạn quân hành tại ba quân đoàn. Sau đó những đơn vị chung quanh Sài Gòn sẽ tiến quân về Dinh Độc Lập một cách trật tự, không nổ súng (bất bạo động). Lúc đó Tướng Thi và nhiều Tướng khác vào Dinh Độc Lập. Thì Tướng Kỳ, Tướng Thiệu ra tiếp đón phái đoàn, có cả ông Đại Sứ và nhiều nhân viên Sứ quán Mỹ đến đón chào. Tướng Kỳ và Tướng Thi chủ trì họp báo, tuyên bố Đệ III VNCH, là chính thể Dân Cử, có QHLH, do dân trực tiếp điều hành chính phủ, chính quyền. Đó là một trong những kế hoạch sẽ tiến tới, nếu phong trào được bình an, thì cuối tháng 5-1966, một đoàn binh chủng Hải, Lục, Không Quân, Cảnh Sát,.. hùng hậu tiến về Sài Gòn, chung quanh Dinh Độc Lập do Tướng Thi và các Tướng lãnh 4 QĐ hướng dẫn, được hai Tướng Thiệu, Kỳ ra đón tiếp, họp báo rồi tuyên bố… như đã dự định nói trên.

 

Tướng Quân Phật Tử Không Làm Chính Trị Được.        

Sau khi anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng Dương Văn Minh đảo chánh, lật đổ vào ngày 1/11/1963, Chư Tăng giáo phẩm các cấp lãnh đạo Phật Giáo VNTN, cũng như các Tướng, Tá Phật tử trong quân đội lúc bấy giờ, tất cả không ai nghĩ đến Dư Đảng Cần Lao sẽ vùng lên, cấu kết nhau tìm mọi cách trả thù Phật Giáo, vì nghĩ rằng ai cũng có tâm hỷ xả, hiền lành như mình. Nói rõ hơn, Chư Tăng, Tướng Tá trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng đều có tâm Đại Từ Bi, Đại Hỷ Xả, cho nên không nhớ, quên hẳn lời người xưa nói “Nhổ cỏ là phải nhổ cho sạch hết gốc lớn, gốc nhỏ.”, cho nên không nở ra tay tàn sát hết Dư Đảng Cần Lao. Bởi vì những Tướng, Tá Cần Lao, không ai vô đó, đều là huynh đệ quyến thuộc nội, ngoại xa, gần với những Tướng, Tá Phật Giáo, cũng như cùng khóa một, hai, ba,…Võ Bị, Thủ Đức với nhau. Chưa nói trước đó, họ là gốc đạo Phật, thờ ông bà, là đằng khác. Hơn nữa người Phật Tử không bao giờ cố tình giết người. Không ngờ họ (các Tướng. Tá Cần Lao ) cấu kết nhau trả thù các Tướng lãnh trong Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng bằng nhiều cách, trước tiên đưa Tướng Cần Lao Nguyễn Khánh  ra làm cuộc chỉnh lý, bắt nhốt tất cả  Tướng lãnh trong HĐQNCM, đem nhốt tại Sài Gòn, và Đà Lạt, là nguyên nhân có ra cuộc vận động bầu cử Quốc Hội Lập Hiến của GHPGVNTN, với mục đích thanh lọc toàn bộ Tướng, Tá Cần Lao ra khỏi chính quyền VNCH, nhưng không ngờ bị Tướng Kỳ và một số chư Tăng trong VHĐ – GHPGVNTN phá vỡ. Điều này được chúng minh qua lời nhận định của Văn Phòng Giám Đốc Trung Ưng Tình Báo CIA Mỹ sau đây: “ Tháng 3 năm 1966, Phật tử biểu tình tại Đà Nẵng và Huế, tổng đình công, chiếm đài phát thanh ở Huế và Đà Nẵng. Ngày 17-3 1966 tại Sài Gòn đại sứ Hoa Kỳ tai VNCH, Cabot Lodge gặp Thầy Thích Trí Quang, trong khi các tướng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ thì lại gặp Thầy Thích Tâm Châu. Sự việc hai Tướng Thiệu, Kỳ gặp Thượng Tọa Thích Tâm Châu, chính là nguyên nhân có ra 2 VHĐ –GHPGVNTN : VHĐ Ấn Quang, VHĐ VN Quốc Tự và Hiến Chương mới.  Sau đó Tổng Thống Thiệu trong nhiệm kỳ 2, 1971, cử một Đại Tá gốc Phật tử đến Ấn Quang gặp Thầy Trí Qung, nhã ý xin trả lại Hiến Chương của GHPGVNTN –VHĐ vốn có từ sau ngày đại hội 4-1- năm 1964 và xin loại bỏ Thầy Tâm Châu, tức là gián tiếp xóa bỏ VHĐ VN Quốc Tự.  

 

                                           NHỮNG BÀN TAY MÁU PHÁ VỠ PHONG TRÀO

BẦU CỬ QHLH CỦA GHPGVNTN- VHĐ 1966.

Những bàn tay máu chính trong việc phá vỡ phong trào, đó là những Tướng Tá Cần Lao, và các trí thức Thiên Chúa Giáo cực đoan tại ba lãnh vực hành chánh, chính trị, quân sự trong chính phủ Quân Phiệt Thiệu Kỳ, cũng như bên ngoài các xóm Đạo, sau khi cùng nhau tính toán mưu kế, ra tay đánh đổ. Điều đó được thấy rõ, nhân cơ hội chính phủ Hoa Kỳ tổ chức một Hội Nghị Thượng Đỉnh tại Honolulu - HAWAII vào khoảng giữa tháng 4 cho tất cả các cấp lãnh đạo chính phủ ở Đông Nam Á, thuộc đồng minh của Mỹ. Hai Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ cùng đi dự Đại Hội.

   Thì các Tướng Tá Cần Lao tại Sài Gòn họp nhau lập mưu, tính kế đánh phá phong trào bầu cử QHLH của PGVNTN, trong đó có tung ra giọng điệu cũ “Tướng Thi sẽ là Tổng Thống, Tướng Kỳ bị các Hòa Thượng, Thượng Tọa miền Trung cho ra rìa, Tết Công Gô mới được chức vị Tổng Thống. Thượng Tọa Tâm Châu cũng sẽ bị mất chức vị Viện Trưởng Viện Hóa Đạo, v.v… Chiêu ác độc ấy đã tràn ngập khắp Sài Gòn, vào tận các chùa, Viện Hóa Đạo, làm cho Thượng Tọa Tâm Châu im lặng, nếu không nói rằng tìm cách rẽ qua hướng Đạo Pháp khác (Hiến Chương mới của GHPGVNTN VN Quốc Tự ). Sau khi Tướng Kỳ  và Thiệu từ HAWAII về. Tướng Kỳ nghe những tiếng ác độc đó đầy tai. Khiến cho Tướng Kỳ tin là có thật, mình sẽ bị các Hòa Thượng, Thượng Tọa miền Trung cho ra rìa. Do đó Tướng Kỳ từ chối không tiếp Thượng Tọa Thiện Minh nữa. Việc Tướng Kỳ không tiếp T T Thích Thiện Minh, người viết có biết rõ. Quý vị thấy không, Phật Giáo không cho Tướng Kỳ ra rìa, mà Cần Lao cho Tướng Kỳ ra rìa. Được thấy ở đề tài “Tướng Kỳ bị Cần Lao cướp công”, được nói ở trang sau.

    

          Tướng Nguyễn Cao Kỳ Trở Mặt.

Tướng Phật Giáo Nguyễn Cao Kỳ trở mặt với Phật Giáo, nghe theo các Tướng Cần Lao hứa sẽ đưa lên ngôi vị Tổng Thống tương lai sau khi được có Quốc Hội Lập Hiến. Tướng Kỳ đã nhẫn tâm đem 2 đơn vị TQLC và ND ra Đà Nẵng và Huế đàn áp phong trào đòi bầu cử QHLH của Phật Giáo vào ngày 15/5/1966.Trước khi đem quân ra Đà Nẵng, Huế để đàn áp phong trào, Tướng Kỳ tự lập một “Đài Phát Thanh” bí mật trong căn cứ Mỹ tại Đà Nẵng. Được các chuyên gia Mỹ giúp cho kỹ thuật. Tướng Kỳ chọn người nói tiếng Việt, loan báo lên “Tiếng nói của phong trào” với những tin tức, bình luận đầy mùi cộng sản, để đánh lạc hướng dư luận, buộc tội phong trào theo cộng sản.” (Như Áng Mây Bây – Tâm Đức – Trang 303).

            THƯỢNG TỌA THÍCH THIỆN MINH BỊ ÁM SÁT.

Thượng Tọa Thích Thiện Minh bị kẻ lạ mặt ném lựu đạn dưới gằm xe vào ngày 1/06/1966. Lựu đạn nổ làm Tọa bị thương nặng dưới mông và chân ngay trước cổng Tổng Vụ Thanh Niên, số 22 Công Lý cũ. Cho nên cá các phóng viên báo Chính Luân đưa lời tếu : “T Tọa bể bàn tọa, Chu Bình sứt miệng bình”. câu tếu của phóng viên báo Chính luận, tếu cả hai. Trong đó có ông Chu Tử bị cảnh sát ông Thiệu đánh giập môi trong lúc biểu tình với thanh niên, sinh viên, học sinh ở bùng binh Sai Gòn đòi bầu cử QHLH.Cuộc bầu cử QHLH được diễn ra vào ngày 11/09/1966, những người Phật tử trên toàn cõi miền Nam nộp đơn ứng cử bị bác đơn, bị bắt nhập ngũ Binh Nhì Quang Trung, không cho nhập ngũ Sĩ Quan Thủ Đức và nhiều Phật tử bị bắt vào tù do có quá trình tham gia vận động bầu cử QHLH. Duy chỉ có những tri thức Thiên Chúa Giáo trong quân đội, hành chánh, và trong xóm đạo, mới được quyền ứng cử, và được trúng cử vào Quốc Hội Lập Hiến Thiên Chúa Giáo. Qua đây cho ta thấy hiện tượng người dân có khoa bảng nộp đơn ứng cử Quốc Hội Lập Hiến, bị các ông Cần Lao trong chính quyền Tổng Thống Thiệu bát đơn, bắt đi lính cấp binh nhì, thậm chí bắt vào nhà tù…Thật giống y hệt như dưới thời chính quyền Cộng Sản hiện nay 2016 tại Việt Nam không cho những người dân khoa bảng trong nước ra ứng cử Quốc Hội Lập Hiến. Mặc dù có ra lời mời các giới trí thức trong nước ra ứng cử Quốc Hội nhưng, khi người trí thức nộp đơn, thì lại tìm đủ mọi cách để bát đơn. Chưa nghe nói đến bắt bớ giam cầm người nộp đơn ! Cuối cùng họ với họ (đảng CS với đảng CS) tiếp tục cầm quyền với nhau.

 CẦN LAO THIÊN CHÚA TỰ BẦU CỬ QUỐC HỘI VỚI NHAU.

      Cuộc bầu cử Tổng Thống và Thượng Viện vào ngày 3/09/1967. mười một (11) liên danh tranh cử Tổng Thống và phó. Thì liên danh quân đội Thiệu - Kỳ trúng cử. Năm mươi liên danh Thượng Viện. Chỉ có sáu liên danh Cần Lao Thiên Chúa Giáo trong và ngoài xứ Đạo được trúng cử. Điều này được thấy: Liên danh Nông Công Binh (quân đội Thiên Chúa), Bông Lúa (Đại Việt Cao Đài Thiên Chúa), Công Ích Công Bằng Xã Hội (Thiên Chúa), Đại Đoàn Kết (Thiên Chúa), Mặt Trời (Thiên Chúa), Đoàn Kết Tiến Bộ (Thiên Chúa). Qua sự ứng cử, trúng cử trên toàn là Cần Lao Thiên Chúa Giáo, cho ta thấy nền Đệ II VNCH của ông Thiệu không khác gì Đệ I VNCH của ông Diệm. Tất cả cơ chế Hành pháp, Lập pháp, Tư pháp đều do Cần Lao Thiên Chúa Giáo lãnh đạo Đệ II VNCH KiTô Giáo. Và cũng không khác gì với tập đoàn CSVN hiện nay 2016.  Cuộc bầu cử Tổng Thống và phó nhiệm kỳ II nền Đệ II VNCH vào ngày 3/10/1971, được thấy có liên danh Nguyễn Cao Kỳ ra tranh cử với liên danh đương nhiệm Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Nhưng sau đó ông Kỳ tự động rút lui do cảm thấy bổn mạng sẽ bị chết bởi Cần Lao. Không còn liên danh nào khác ngoài ông Thiệu. Thế là chỉ có một ông Thiệu và ông Hương vừa ứng cử, vừa đắc cử một mình, gọi là độc diễn.

   Sau khi lên ngôi vị Tổng Thống nhiệm kỳ II, ông Thiệu được ông Huỳnh Văn Trọng tiếp tục làm cố vấn cho nhiều kế hoạch để thắng cộng sản VN. Chẳng hạn đem hết các quân binh chủng qua Hạ Lào có tên chiến dịch Lam Sơn 719 vào tháng 2/1971, để phá vỡ những căn cứ quân sự và ngăn chặn sự xâm nhập của Bắc Việt. Nhưng không thắng, bị bại trận 80% quân số và vũ khí, dụng cụ quân sự. Nhiều cuộc bại trận như vậy, là do giai cấp lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo VN ra tay hóa độ cán binh cộng sản VN về với Chúa sẽ được tất cả. Rõ ràng họ được có 30/04/1975! Còn ta VNCH không bị mất Chúa nhưng bị mất chính thể VNCH! Toàn dân được thống nhất đất nước. Nước không mất, chỉ bị mất Chúa VNCH! (Như Án Mây Bay- Tâm Đức- trang 289 -291).

TƯỚNG NGUYỄN CAO KỲ PHẢN BỘI PHẬT GIÁO VNTN.

Do vì bị nghe theo những lời ác độc của những Tướng, Tá Cần Lao trong quân đội và những giáo dân ngoài xóm đạo đã hứa lèo là đưa lên ngôi vị Tổng Thống Đệ II VNCH sau khi có cuộc bầu cử Quốc Hội Lập Hiến. Tướng Kỳ tin là có thật, bèn ra tay đàn áp phong trào. Trước tiên, cậy chức vụ Chủ Tịch Uỷ Ban Hành Pháp Trung Ương cách chức Tướng Thi Tư Lệnh QĐ I, cử Tướng Nguyễn Văn Chuân ra thay thế và nhiều cách ác độc đối đồng bào Phật tử Đà Nẵng, Huế sau đây:

“Sau Hội Nghị Thượng Đỉnh Honolulu, Tướng Kỳ cảm thấy vị thế của mình vững vàng hơn. Liên hệ giữa Tướng Kỳ và  Tướng Thi bắt đầu sa sút, nhất là khi Tướng Thi ủng hộ quan điểm của đại đa số quần chúng miền Trung đòi hỏi bầu cử QHLH. Dân miền Trung khi hay tin Tướng NGUYỄN CHÁNH THI bị cách chức, đứng lên phản đối, không chấp nhận Tướng Nguyễn Văn Chuân ra thay thế. Nhận thấy tình hình quá căng thẳng, Tướng Chuân đề nghị với Tướng Kỳ nên tìm giải pháp chính trị. Đại Sứ Cabot Lodge để nghị Tướng Kỳ nên để Tướng Thi trở lại tư lệnh Quân Đoàn I và ra Huế ổn định tình hình. Khi Tướng Thi xuống sân bay Đà Nẵng, ông không tin vào mắt của mình. Ông thấy hằng nghìn dân chúng ra phi đạo đón rước ông trở về “quê cũ”, một phần vì mến ông, phần khác là vì họ vui mừng thấy chính quyền Trung Ương quan tâm đến những nguyện vọng của họ. Nhưng với Tướng Kỳ và phe nhóm, thì xem đây là sự tranh giành ảnh hưởng cá nhân (Nguyễn Chánh Thi: Memoire, trang 347).

   Vài ngày sau Tướng Thi ra Huế. Sự đón tiếp lại còn nồng nhiệt hơn: Dân chúng, sinh viên, học sinh, quân nhân, công nhân, thương phế binh hàng hàng lớp lớp đón chào ông.  Đại Sứ Lodge tại Sài Gòn lo ngại khi thấy Quân nhân, Công chức, Cảnh sát Vùng I chiến thuật tham gia phong trào ngày càng đông. Tướng Kỳ với sự cố vấn của Đại Sứ Lodge liên lạc với Viện Hóa Đạo, thảo luận về việc bầu cử, hứa sẽ thực hiện vào năm 1967. Nhưng chẳng bao lâu, sau đó Tướng Kỳ lại nói ngày bầu cử tùy theo tình hình an ninh. Dân chúng lập tức phản đối. Ngày 22 tháng 3 năm 1965, đoàn biểu tình chiếm sân bay Tân Sơn Nhất, kêu gọi đình công. Đặc biệt lần này thành phần Công Giáo cấp tiến tham gia đòi chấm dứt chính phủ quân nhân. Tại Đà Nẵng và Huế, đại đa số quân nhân, công chức, cảnh sát ủng hộ phong trào. Tướng Phan Xuân Chiểu được Sài Gòn gửi ra hòa giải bị sinh viên giữ lại. Thị Trưởng thành phố Đà Nẵng, Bác Sĩ Nguyễn Xuân Mẫn, người Công Giáo hết lòng ủng hộ phong trào. Tướng Kỳ đột nhiên thay đổi chiến thuật, lên án phong trào, nói phong trào do Cộng Sản giựt dây và với ông, Đà Nẵng đã lọt vào tay Cộng Sản, dọa sẽ bắn Bác Sĩ Nguyễn Văn Mẫn khi “giải phóng” Đà Nẵng.

Tướng Nguyễn Cao Kỳ Thành Lập Đài Phát

Thanh Giả Trong Căn Cứ Mỹ Tại ĐÀ NẴNG.

Để chuẩn bị cho việc “giải phóng” Đà Nẵng, Tướng Kỳ cho lập đài phát thanh bí mật trong căn cứ quân sự Mỹ, với sự giúp đỡ kỹ thuật của một số chuyên viên kỹ thuật Hoa Kỳ. Đại phát thanh đó lấy tên “Tiếng Nói của Phong Trào” với những tin tức bình luận đầy mùi cộng sản, để đánh lạc dư luận và buộc tội phong trào là theo cộng sản.

   Với trên 20,000 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đóng tại Đà Nẵng, lời buộc tội của Tướng Kỳ xem có vẻ phi lý đối với Tướng Green, Tư Lệnh Lực Lượng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ khi ông thăm viếng thị xã Đà Nẵng ngày hôm ấy. Tướng Green nói tình hình trong thị xã rất yên tĩnh, không có dấu hiệu gì lọt vào tay cộng sản. Tướng Lewis Walt, Chỉ Huy Trưởng lực lượng Hoa Kỳ tại Đà Nẵng cho rằng vấn đề cần phải giải quyết bằng thương thuyết (Như Áng Mây Bay- Tâm Đức trang 301-303) .

 

TỔNG THỐNG THIỆU Triệu Tập 4 Tướng

          Tư Lệnh Vùng Và SƯ ĐOÀN Về DINH  ĐỘC LẬP.

 Lúc bấy giờ, tháng 5-1966 ngày xưa ấy, số người dân miền Trung từ Quảng Ngãi, Quảng Tín, Đà Nẵng, Huế, Quảng Trị được nghe tin tức trên đài phát thanh giả của Tướng Kỳ, cỡ chừng hai phần trăm. Các tỉnh Cao Nguyên và trong Nam không nghe, vì làn sóng chỉ được giới hạn từ Quảng Ngãi và Quảng Trị. Về phía quân đội và các cấp chỉ huy QLVNCH trên 4 vùng chiến thuật và Sài Gòn không nghe, kể cả tại Đà Nẵng, Huế cũng không được nghe đến, vì chỉ lo việc lính, việc quan, làm ăn. Riêng Tướng Thiệu tại Sài Gòn được biết đài phát thanh đó, là do những người Thiên Chúa Giáo ở xóm Đạo Thanh Bồ, Đức Lợi ở Đà Nẵng thu băng cassette, gửi vô cho Tướng Thiệu. Ông Thiệu nghe qua, vội vàng ra  lệnh cho 4 Tướng Tư lệnh VùngI,II,III, IV và các Tướng sư đoàn về trình diện Chủ Tịch Uỷ Ban Lãnh Đạo Quốc Gia vào cuối tháng 4-1966. Tại Dinh Độc Lập, ông Thiệu nói chuyện với các Tướng lãnh về phong trào đòi bầu cử QHLH của Phật Giáo ở miền Trung, là do có Cộng Sản trong đó giựt dây. Nói xong, ông Thiệu cho các Tướng nghe băng cassette toàn là lời CS kêu gọi toàn dân hãy đứng lên đánh đế quốc Mỹ, lật đổ chế độ Ngụy quân phiệt Thiệu Kỳ… Các Tướng ngồi im nghe, có vị lắc đầu…Riêng Tướng Kỳ bên cạnh ông Thiệu, cũng không nói gì. Qua một vài phút Tướng Kỳ đứng dậy, ra ngoài cỡ hai phút, lại vào chỗ cũ. Có lẽ tâm thức Tướng Kỳ bị rung động, hay nói khác hơn tự tố cáo mình đã ngụy tạo ra đài phát thanh CS đó để đánh phá phong đòi bầu cử QHLH do GHPGVNTN đề xướng, HT T Quang chỉ đạo. Trong khi đó, tất cả Tướng,Tá đều tiếp tục im lặng đáng sợ! Qua vài phút im lặng, Tướng Thiệu ngỏ lời với các Tướng, là phải đẩy mạnh an ninh hơn nữa ở Huế, Đà Nẵng để tìm cho ra đài phát thanh của Phật Giáo theo Cộng Sản mà tiêu diệt. Tại các tỉnh khác, cũng phải bám sát sự sinh hoạt của Phật Giáo để nhận diện Cộng Sản trà trộn trong đó.

Lời của Tướng Thiệu nói với các Tướng lãnh hôm xưa ấy, nếu không nói là được trúng ý Tướng Kỳ, đã mong muốn dẹp bỏ lực lượng Tướng Thi trong phong trào đòi bầu cử Quốc Hội Lập Hiến của Phật Giáo VN. Do đó vào ngày 15-05-1966, Tướng Kỳ cậy chức vụ Chủ tịch UBHPTU đưa TQLC và Dù ra Đà Nẵng đàn áp và tiêu diệt hết quân lính của Tướng Thi, để sau này sẽ lên ngôi Tổng Thống tương lai do Cần Lao hứa lèo.

   Giữa cuối tháng 3 và tháng 4-1966, là thời điểm Tướng Kỳ thành lập đài phát thanh bí mật tại Đà Nẵng, để vu khống Phật Giáo theo Cộng Sản, cũng là thời điểm được có 20 ngàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đóng tại Đà Nẵng, dưới quyền tư lệnh của Tướng Green. Tướng Green đi thăm viếng và tiếp xúc với các giới chức quân sự và hành chánh VNCH tại thị xã Đà Nẵng. Ông Green nói rằng không có dấu hiệu gì bị lọt vào tay Cộng Sản, thị xã rất yên tĩnh, dân chúng sinh hoạt bình thường. Bên cạnh Tướng Green, có Tướng Lewis Walt, chỉ huy trưởng lực lượng quân sự Mỹ tại Quân Đoàn Một, cũng đem lời cho rằng vấn đề cần phải giải quyết bằng thương thuyết (phỏng theo Như Áng Mây Bay- Tâm Đức trang 303).

       Những tin: Tướng Thiệu triệu tập các tướng Quân Đoàn và Sư Đoàn về Dinh Độc Lập cho nghe băng cassette. Tướng Green thăm viếng thị xã Đà Nẵng ... Tướng Lewis Walt cho rằng... Tướng Kỳ giả tạo đài phát thanh ... Tướng Kỳ bị các Tướng Cần Lao bắt ép nhận Phó Tổng Thống  nhiệm kì một. Tướng Kỳ bị Cần Lao cho ra khỏi chính phủ nhiệm kì hai, v.v... Tất cả tin bí mật trên được lọt ra ngoài hành lang Dinh Độc Lập vào năm 1971 trở đi, do các viên chức chính phủ và Tướng Tá ngoài Ki Tô kể lại. Nói rõ hơn, do cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ bực tức các Tướng Cần Lao và Tổng Thống Thiệu phản bội, cho ông đi tàu bay giấy... mà lộ ra nửa úp nửa mở với Tướng, Tá các cấp trên, dưới  trong các binh chủng, nhất là giới sĩ quan An Ninh QĐ, Quân Báo, Tình Báo, Cảnh Sát Đặt Biệt chỉ huy tỉnh, thị xã, quận, huyện ở miền Trung (Đà Nẵng - Huế ) lại càng biết rõ Tướng Kỳ thành lập đài phát thanh giả trong căn cứ Mỹ tại Đà Nẵng, được các quân nhân Mỹ giỏi về kỹ thuật giúp hình thành đài phát thanh. Ông Kỳ tuyển nhân viên Việt đọc tin tức toàn là âm điệu CS, để chụp mũ phong trào Phật Giáo tranh đấu đòi bầu cử QHLH năm 1966, có CS trong đó giựt dây, cho mục đích để thắng Tướng Thi, mà lên ngôi Tổng Thống. Qua đây, người viết xin hỏi ông Liên Thành, cựu Thiếu Tá tình báo, chỉ huy trưởng cảnh sát TP Huế, ông có biết Tướng Kỳ đã thành lập đài phát thanh trong căn cứ Mỹ Đà Nẵng phát đi những tin tức toàn là âm điệu CSVN, để vu khống phong trào tranh đấu Phật Giáo đòi bầu cử QHLH năm 1966, là theo Cộng Sản hay không? Hay là vẫn nói việc ấy là của trung ương ?

Tất cả Tướng lãnh, Tá lớn, Tá nhỏ, Úy lớn, Úy nhỏ, Dân biểu, viên chức chính phủ, chính quyền Đệ II VNCH, và hằng ngàn tri thức, người dân các giới ngoài xã hội VNCH lúc bấy giờ, ai cũng dư biết Tướng Kỳ, các ông Cần Lao trong chính phủ quân phiệt và sau đó ở hai nhiệm kỳ Tổng Thống Đệ II VNCH của ông Thiệu đã gây cho GHPGVNTN nói chung, từng cá nhân Chư Tăng: HT Thích Trí Quang, HT Đôn Hậu, HT Mật Nguyện, HT Thiện Minh, HT Huyền Quang, HT Trí Thủ, v.v… nói riêng nhiều khổ nạn...!

   Những nổi khổ, nghiêng ngửa ấy, không còn hiện hữu trong bản thân PGVNTN, từ sau khi được biết Tướng Kỳ phản bội, Cần Lao phản bội Tướng Kỳ (hãy xem đề mục “Tướng Nguyễn Cao Kỳ bị Cần Lao Cướp Công” ở trang sau) vào năm 1971, cho đến nay 2016. Không còn hiện hữu, có nghĩa là Tăng, Ni, Phật tử VN hải ngoại đã chôn vùi những oan nghiệt ấy vào quá khứ không khơi lại làm chi nữa. Cho dù các ông Cần Lao, ông Liên Thành cố sức khơi lại phong trào đòi bầu cử QHLH của Phật Giáo ngày xưa. Rồi cứ ra lời om xòm trước đám Cần Lao và trong sách với lời lẽ thô bạo chụp mũ Phật Giáo theo Cộng Sản, HT Trí Quang là Cộng Sản... để tiếp tục đánh phá Phật Giáo, gây oan nghiệt cho Phật Giáo và cộng đồng người Việt hải ngoại, với mục đích gì ?. Nói rằng vì chống CSVN, đâu phải chống theo cách chụp mũ chư Tăng PGVN theo CSVN ? Ông Liên Thành lại càng không phải là Cần Lao, vì ông hô lên là cháu của Cố HT Thích Tịnh Khiết, Đức Đệ I Tăng Thống GHPGVNTN. Hay là ông chạy tội dùm cho các Cần Lao Thiên Chúa chỉ lo đạo Chúa nên chi để mất Đệ II VNCH vào tay CSVN ?.   

QUÂN NHÂN, CÁN CHÍNH CÁC CẤP

VNCH  ĐỀU BIẾT TƯỚNG KỲ

  Hằng trăm ngàn sĩ quan các cấp và binh lính trong các đơn vị QLVNCH ngày xưa, đều biết Tướng Nguyễn Cao Kỳ ra tay đánh bại Tướng Nguyễn Chánh Thi đang chỉ huy lực lượng quân nhân trong phong trào đòi bầu cử  QHLH tại Đà Nẵng, bằng cách tạo ra đài phát thanh bí mật trong căn cứ Mỹ ở Đà Nẵng, sặc mùi cộng sản, để vu khống phong trào là do cộng sản nằm vùng chỉ đạo cho Phật Giáo. Chỉ có lấy cớ phong trào theo cộng sản, do cộng sản, mới đem quân ra để giải phóng. Tướng kỳ đánh bại Tướng Thi, nhằm mục tiêu là lên ngôi Tổng Thống, do các Tướng Tá Cần Lao hứa lèo sau khi họ tổ chức xong cuộc bầu cử  Quốc Hội Lập Hiến. Chỉ có lòng tham quyền cố vị, quá ham chức tước của Tướng Kỳ, và sự thống trị chính quyền của các ông Tướng Cần Lao ngày xưa, là nguyên nhân đã đưa đến sự  sụp đổ Đệ II VNCH. Vậy mà một số người Việt ngu xuẩn, lại nói rằng Đệ II VNCH bị tan hàng vào mùa xuân 1975, là do PGVN! Với các nhân viên Tòa Đại Sứ và CIA Mỹ ngày xưa , họ càng dư biết, phong trào đòi bầu cử QHLH của PGVNTN là hợp pháp, là mong muốn dân Nam VN được có một chính thể VNCH Dân Cử, chứ không phải do Cộng Sản chỉ đạo. Qua đó cho ta thấy, nếu phong trào do Cộng Sản nằm vùng giựt dây, thì tại sao Tướng Walt, Chỉ Huy Trưởng lực lượng Hoa Kỳ tại Đà Nẵng cho rằng vấn đề (phong trào) cần phải giải quyết bằng thương thuyết giữa Tướng Kỳ và Tướng Nguyễn Chánh Thi ? Cho nên chính phủ Mỹ ở Washington và ông Đại Sứ Mỹ Cabot Lodge Sài Gòn đã gọi phong trào đòi bầu cử QHLH do PGVNTN đề xướng, toàn quân lực VNCH và dân chúng kết đoàn tranh đấu ủng hộ Phật Giáo, là Binh Biến. Họ không dùng cụm từ “Biến Động Miền Trung.” Chỉ có ông Liên Thành mới dùng cụm từ BĐMT, để lừa bịp một số người Việt u mê tin theo để mua sách BĐMT của ông. Trong khi đó hằng trăm ngàn binh lính VNCH các cấp, dư biết phong trào đòi bầu cử QHLH ở Đà Nẵng - Huế ngày xưa, là hợp pháp, do Quân và Dân kết đoàn ủng hộ PGVNTN được thành công. Các giới chức Hoa Kỳ tại VN ngày xưa, cũng dư biết PGVNTN không muốn, không thấy Cần Lao nắm quyền chính phủ VNCH, dù là quân phiệt. Vì họ chỉ có lo phát triển Đạo Chúa của họ bỏ lơ chuyện quốc phòng.

TƯỚNG NGUYỄN CAO KỲ

BỊ CẦN LAO CƯỚP CÔNG.

 Với  tướng Nguyễn Cao Kỳ, hầu hết các cựu Tướng Tá QLVNCH  hải ngoại đều biết Tướng Kỳ, là người có tâm không sâu sắc, hời hợt, ưa danh vọng, nóng tính, bộp chộp, thích nổ, làm liều không suy nghĩ, tỏ vẻ anh hùng, thích người khác xu nịnh nhưng lại ưa tin người, cho nên Tướng Kỳ quá tin tưởng chắc nịch vào lời các ông tướng tá Cần Lao bàn thảo ở hành lang, là Tướng Kỳ sẽ lên ngôi vị Tổng Thống do công lao dẹp được thầy trò Tướng Thi ở Đà Nẵng, trong kỳ bầu cử Tổng Thống sắp tới, do Quốc Hội Lập Hiến tổ chức. Không ngờ, tại những buổi họp của một số tướng lãnh trong chính phủ quân phiệt, về việc đưa hai ông Thiệu Kỳ đứng chung Liên Danh một ứng cử Tổng Thống. Thì các tướng Cần Lao đã phát biểu một cách thẳng thắng, phủ đầu rằng; Tướng Kỳ nên đứng vào địa vị phó Tổng Thống, tướng Thiệu Tổng Thống, bởi vì hiện tình chính trị miền Nam đang bị bất ổn, do vậy Tướng Kỳ không đủ khả năng đối phó, Tướng Thiệu mới đủ khả năng.Thật sự tướng Kỳ là Phật tử, cho nên không thể ở địa vị Tổng Thống, đúng theo chủ trương của Tòa Thánh Vatican và GH Thiên Chúa Giáo VN, Tổng Thống của VNCH (nước Chúa) phải là người theo Đạo Thiên Chúa, dù là Đạo Đứng hay đạo Nằm Ngửa, chứ không để người ngoài Đạo ở ngôi vị Tổng Thống. đó là nguyên nhân làm sụp đỗ chính thể Đệ II VNCH. Thật giống  y hệt như lời ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư Đảng CSVN, đã phát biểu : “ Tổng Bí Thư, phải là người BẮC vì có lý luận” ngay giữa đại hội Đảng khóa 12- 2016.

   Trước những ngôn ngữ của các tướng Cần Lao, có ẩn ý sẽ sát phạt, hạ bệ bằng vũ lực, nếu Tướng Kỳ khăng khăng đòi ở địa vị Tổng Thống. Trước không khí ngột ngạt đó, Tướng Kỳ khởi lòng dung hòa, không muốn xảy ra tranh chấp, biến động giữa các tướng với nhau, càng làm cho miền Nam vốn đang bất ổn càng thêm bất ổn, chứ đâu phải Tướng Kỳ thiếu khả năng chính trị, điều hành chính trị, quân sự!

   Nói rõ hơn, tại miền Nam lúc bấy giờ, có rất nhiều Tướng Tá và nhiều viên chức hành chánh, chính khách chính trị lỗi lạc, và các giới trí thức gốc Phật Giáo, đủ khả năng điều hành chính trị, như Giáo Sư Nguyễn Văn Bông, LS Phạm Nam Sách, các Tướng như Nguyễn Khoa Nam, Nguyễn Chánh Thi, Tôn Thất Đính,… nhưng rất sợ bạo lực Tướng Tá Cần Lao, các trí thức Thiên Chúa Giáo ra tay sát hại, như GS Nguyễn Văn Bông đã bị họ sát hại rồi đổ thừa cho CSVN.

Để cho mọi người Việt các giới hải ngoại được biết đến tinh thần yêu nước, thương đồng bào nghèo khổ, tình quê hương, tình huynh  đệ chi  binh,… của Tướng Nguyễn Cao Kỳ qua bài tổng hợp của Phạm Bình Thường, đăng trong Tạp Chí Niềm Tin – ATLANTA, Hoa Kỳ số 185, ra ngày 15/8/2011 sau đây:

   “Tướng Kỳ nổi bật ở giai đoạn năm 1964-1965 vì tính cách độc lập của ông và vai trò của không quân trong sự tranh chấp của các tướng lãnh đưa tới những cuộc đảo chánh liên tiếp. Chính thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ là người đã quyết định chọn ngày 19 tháng 6 là ngày kỷ niệm Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

   Năm 1967, tướng Nguyễn Cao Kỳ cùng với Tướng Nguyễn Văn Thiệu ứng cử và ông đắc cử Phó Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa nhiệm kỳ 1967-1971. Trong hồi ký cũng như qua phỏng vấn một số cựu sĩ quan cao cấp VNCH. Ban đầu tướng Kỳ giành được nhiều tín nhiệm trong giới quân nhân hơn tướng Nguyễn Văn Thiệu. Và tướng Kỳ là người có nhiều khả năng nhất được đề cử trở thành vị đại diện duy nhất của quân đội tham gia bầu cử với vai trò ứng viên Tổng Thống. Sự ủng hộ từ hàng ngũ các tỉnh trưởng dành cho ông cũng vượt trội so với sự hậu thuẫn mà tướng Nguyễn Văn Thiệu có được. Tuy nhiên, đã có sự thay đổi vào giờ chót khi tướng Nguyễn Văn Thiệu được hậu thuẫn của những thế lực chính trị khác như từ phía lãnh đạo Công giáo miền Nam, vì tướng Nguyễn Văn Thiệu là tín hữu Công giáo. Mặc khác là sự ủng hộ của chính quyền Hoa Kỳ đã làm tướng Nguyễn Cao Kỳ chấp nhận tham gia liên danh tranh cử Thiệu-Kỳ với vai ứng viên Phó Tổng Thống. Lúc đó, tướng Kỳ tuyên bố; “khi việc bầu cử chưa được rõ ràng thì tôi trở về làm lại tư lệnh không quân như cũ! “Nhưng nhiều nguồn tin từ các vị tướng lãnh cho biết, và mới đây bản tin của AP cũng tiết lộ, lúc đó vì tướng Kỳ muốn nêu cao tinh thần đoàn kết của quân đội nên đã nhân nhượng Tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng Thống trong một nhiệm kỳ. Cũng vì điều này mà báo chí Mỹ gọi tướng Kỳ là “tay chơi cự phách”, là News Maker- người tạo ra tin tức.

   Tướng Nguyễn Cao Kỳ là người đưa ra sáng kiến và quyết định lập những pho tượng lính Việt Nam Cộng Hòa ở Sài Gòn và khắp Miền Nam.Từ năm 1968 trở đi là giai đoạn ông bị gạt ra ảnh hưởng các vị trí quan trọng trong chính quyền, dần chuyển sang vị thế đối lập với nhóm Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Ông có những lời lẽ gay gắt chỉ trích T T Thiệu.Trong cuộc bầu cử năm 1971 chỉ có một liên danh duy nhất là ông Nguyễn Văn Thiệu và ông Trần Văn Hương. Tướng Dương Văn Minh là người mới trở lại Việt Nam sau vài năm lưu vong, mới đầu có ý định ra tranh cử nhưng sau đó tuyên bố rút lui.

Tháng 2 năm 1975, khi cộng sản tiến chiếm Ban Mê Thuột, Tổng Thống Thiệu đưa ra kế hoạch bỏ Cao Nguyên, mở đường máu tỉnh lộ 7, dời quân đoàn 2 chiến thuật từ Pleiku về Nha Trang. Miền Nam Việt Nam hoàn toàn bị thất thế. Trong bối cảnh đó, tướng Nguyễn Cao Kỳ yêu cầu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trao quyền chỉ huy quân đội cho ông. Tướng kỳ tuyên bố tử thủ. Tại cuộc họp ở Bộ Tổng Tham Mưu, tướng Kỳ đã muốn bắt giam trung tướng Đặng Văn Quang lúc đó là cố vấn tối cao quân sự của Tổng Thống thiệu (Tướng Quang cũng vừa mới qua đời vào ngày 15 tháng 7 năm 2011 tại Sacramento, hưởng thọ 82 tuổi), nhưng tướng Quang trốn thoát được. Tướng Kỳ cho rằng sự yếu kém về lãnh đạo quân sự sẽ dẫn đến sự sụp đỗ của miền Nam. Trong khi đó thì nhiều tỉnh đã rơi vào tay cộng sản. Chính phủ Mỹ bỏ rơi miền Nam hoàn toàn. Tướng Kỳ có lòng nhưng không có quân, đành phải bỏ cuộc. Giờ chót Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã rời khỏi Sài Gòn bằng may bay trực thăng ra tàu USS Blue Ridge của hạm đội 7 Hoa Kỳ ngoài khơi Vũng Tàu.Trong chuyến đi này có cả Tướng Ngô Quang Trưởng.

  Việc ông về Việt Nam để hòa hợp, hòa giải dân tộc, có một số người chống đối. Nhưng những tâm tư, tình cảm  của ông đối với đất nước, dân tộc như nguyện vọng mà ông đã công khai đề nghị với chính quyền CSVN: “Phải có lưỡng đảng, phải có tự do tôn giáo, Phải giữ lại nghĩa trang quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Phải thay đổi lá cờ đỏ sao vàng. Phải tận diệt tham nhũng”, là nhũng điều mà chúng ta cần suy gẫm. Lịch sử sẽ phán xét. Còn nhũng công lớn của Tướng Kỳ: như xây dựng thời đệ nhị Cộng Hòa, chọn ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa 19 tháng 6, tận diệt tham nhũng, đầu cơ trích trữ, giúp vốn cho người nghèo, cho nhũng người lái xe lam, xe xích lô máy, trực tiếp chiến đấu ngoài mặt trận, chận sự tấn công của Bắc Việt, ổn định trật tự miền Nam, là những điều khó phủ nhận.

   Theo tin nhận, thì lễ cầu siêu và an vị linh cốt của Tướng Nguyễn Cao Kỳ, có rất đông người từ khắp nơi về tham dự. Ai cũng muốn tiễn biệt ông lần cuối, Phạm Bình Thường (Tổng hợp).

   Qua bài tổng hợp trên nói về Tướng Nguyễn Cao Kỳ, do Phạm Bình Thường ghi lại, được nhiều người Việt cao niên, trung niên trong giới trí thức VN nói rằng: chính thể đệ II VNCH ngày xưa , để cho Tướng Kỳ làm Tổng Thống  điều hành chính trị, quân sự, thì miền Nam VN, khó có thể bị lọt vào tay CNVN. Bởi vì Tướng Kỳ giỏi về văn hóa, có tài lãnh đạo quân đội , biết đường hướng chính trị đối phương, có tinh thần bao dung toàn bộ các cấp sĩ quan, nhân viên hành chánh không phân biệt đối xử. Sở dĩ chánh thể Đệ II VNCH bị Cộng Sản VN giải thể, là do ông Thiệu, các Tướng Tá Cần Lao Thiên Chúa Giáo đã có thái độ hành xử không thân thiện, không bình đẳng , và kỳ thị đối với các Tướng Tá, nhân viên hành chánh gốc Phật Giáo. Điều đó được chứng minh rõ nét ở hai trường hợp: luật sư Phạm Nam Sách bị ông Thiệu bắt giam vào Nha Cảnh Sát và Đại Tá Trần văn Kha bị an ninh quân đội giam lỏng tại Bộ Tổng Tham Mưu. Hai vị đó bị ông Thiệu bắt giam, là do viết bài chống ông Thiệu đồng lõa với các Tướng Cần Lao tham nhũng trước khi Đệ II VNCH bị tan rã vào sáng ngày 30 tháng TƯ, 1975.

   

               NHỮNG NGƯỜI VIỆT KÉM VĂN MINH VĂN KHỐ

Đề tài trên, ĐĂNG TRIỆU tôi muốn chỉ rõ thẳng vào một số ông Cần Lao Thiên Chúa Giáo VN cực đoan, thủ cựu đang đứng trong bóng tối giựt dây, xúi giục các ông Cần Lao khác như L G (T G), L T, Đ V Nh,v.v...đánh phá chư Tăng PGVN trong và ngoài nước.

Ba ông đầu sỏ nói trên được người Việt hải ngoại biết sự nghiệp của họ là viên chức, sĩ quan cảnh sát, giáo sư kiêm nhà văn dưới thời VNCH.Tạm gọi họ là trí thức do có hiểu biết chút ít về văn học sử như ông Nh. Nhưng đa số trí thức văn hóa thật của các giới người Việt hải ngoại, trong đó có nhiều trí thức Công Giáo. Tất cả đều nhìn thấy rõ mặt của ba ông L G, L T và Đ V Nh, là những loại người không có nền văn minh VĂN KHỐ trong tâm thức, gọi là ĐUI MÙ Ý THỨC. Có nghĩa là ba ông ấy không biết đến, không đọc đến những lời chân thành, thật tâm của các giới CIA, Tòa Đại Sứ Mỹ tại miền Nam VN ngày xưa, đã xác nhận, và khẳng định lời nói và hành động của chư Tăng nói chung, HT Thích Trí Quang nói riêng trong hai phong trào tranh đấu chống chế độ Đệ Nhất VNCH của Tổng Thống Ngô Đình Diệm năm 1963 và chế độ quân phiệt Thiệu – Kỳ năm 1966 là chơn chánh thật lòng, vì dân tộc và đạo pháp, không theo cộng sản, không bị cộng sản xúi giục, không có cộng sản xâm nhập vào khối Phật Giáo .

Để chứng minh lời các nhân viên Tòa Đại Sứ và CIA Mỹ tại Sài Gòn đã khẳng định HT Thích Trí Quang không phải Cộng Sản, không nghe theo Cộng Sản VN qua đề tài sau đây: Mươi Lần Nghi Mươi Lần Nói Không

 

MƯỜI LẦN NGHI MƯỜI LẦN CIA  NÓI KHÔNG.

Đề tài trên hàm ý chỉ cho chư Tăng Viện Hóa Đạo- GHPGCNTN nói chung, HT Thích Trí Quang nói riêng, được các ông Đại Sứ, nhân viên Tòa Đại Sứ, tình báo CIA Mỹ và các giới truyền thông ngoại quốc xin tiếp kiến suốt thời gian trong hai thời kỳ Phật Giáo tranh đấu ngày xưa. Thời kỳ một 1963, tranh đấu đòi Tổng Thống Ngô Đình Diệm hãy để cho Phật Giáo VN được tư do truyền giáo và hành đạo như Thiên Chúa Giáo. Thời kỳ hai 1966, tranh đấu đòi bầu cử Quốc Hội Lập Hiến dưới thời chính phủ quân phiệt Thiệu - Kỳ, để cho nhân dân miền Nam được có một chính thể VNCH lý tưởng do dân cử, thì toàn dân và đạo pháp mới được sống trong an lành, đoàn kết xây dựng đất nước được giàu mạnh không Cộng sản, do vì không còn Cần Lao Thiên Chúa nắm quyền quốc gia. Điều đó được các giới chức Mỹ đã biết rõ, ghi chép và lưu trữ.

   Các ông Đại Sứ Cabot Lodge, Taylor, viên chức Tòa Đại Sứ, tình báo CIA Mỹ và các giới truyền thông ngoại quốc tại Sài Gòn, Miền Nam nói chung ngày xưa, xin tiếp kiến Chư Tăng, HT Thích Trí Quang giữa hai cuộc tranh đấu ấy của Phật Giáo để làm gì? Dĩ nhiên họ có nhiều mục đích. Chỉ giúp đỡ cho Phật Giáo được thành công để ổn định trật tự, an bình cho toàn dân giữa lúc chiến tranh, chứ không đem lòng phá vỡ hay xúi giục chính quyền đương thời đàn áp Phật Giáo, đúng với vai trò của các giới chức Mỹ và cố vấn, đều thi hành đúng tự do, dân chủ, nhân quyền. Trong khi đó những nhóm quân nhân Cần Lao và các ông Thiên Chúa trong các xóm đạo, cấu kết nhau làm đảo chánh nhiều lần ở Sài Gòn ngày xưa như vậy, mà các viên chức Tòa Đại Sứ Mỹ, CIA cũng yên lặng từng bước theo dõi. Nói rõ hơn, tính nhân bản của người Mỹ ngoài xã hội, trong các tổ chức…trong chính phủ Mỹ từ ngàn xưa cho đến nay, họ luôn luôn chọn sự thật, sai nói sai, đúng nói đúng, không gian dối, ý thức về tự do, dân chủ, nhân quyền đối với tất cả con người trong mọi chủng tộc trên xứ Mỹ và ở các quốc gia khác, họ đều tôn trọng, đối đãi lịch sự, tử tế không xảo quyệt… Nhất là đối với các cấp lãnh đạo trong các tôn giáo tại Hoa Kỳ và các quốc gia khác họ càng kính cẩn, tôn trọng, không dám vu khống chuyện xấu, không dám hành xử thô bạo, thấy sai nói là sai, thấy đúng họ nói là đúng, không dám phịa chuyện không, nói có, v.v…

   Hành động và ngôn ngữ thật của người Mỹ được thấy rõ ở toàn thể các giới chức Mỹ tại Tòa Đại Sứ Mỹ, tình báo CIA và các phóng viên truyền thông quốc tế, trong đó có Mỹ tại Sài Gòn ngày xưa, họ đã nói thật, viết ra thật của hai cuộc đấu tranh của Phật Giáo mà HT Thích Trí Quang, là vị Tăng chỉ đạo… Qua nhiều lần tiếp kiến với Ngài, đem lời luận bàn, trao đổi ý kiến ở các việc… có tính cách điều tra ở mặt tâm lý theo dõi việc làm và giả thuyết đi kèm để tìm ra sự thật hay giả, mà người Mỹ trong các giới chính quyền ưa áp dụng. Nếu không nói rằng: các giới chức Mỹ vô tình đã áp dụng được Nguyên lý hoài nghi của Phật Giáo. Tức là theo nguyên lý học Phật để được giác ngộ chân lý, là phải đem tâm  hoài nghi, đừng tin vội giáo lý Phật. Điều đó được thấy Đức Phật đem lời căn dặn người học Phật, để được giác ngộ đạo lý, mà hành theo điều mình đã ngộ, đã thấy. Chưa ngộ, mà hành ắt sẽ sai, nếu vội tin là cuồng tín. Do đó người học phật, cần phải hoài nghi, cho đến khi nào nhận thấy không còn thắc mắt gì nữa…Nghi lớn giác ngộ lớn, nghi nhỏ giác ngộ nhỏ, chẳng nghi, chẳng giác ngộ. Không nghi, không phải là học phật.

   Do có Nghi, nên chi có hỏi, có bàn luận với HT Trí Quang nhiều lần, để tìm hiểu, cho nên các giới chức Mỹ đã thấy rõ tâm ý của HT Thích Trí Quang qua hai phong trào tranh đấu năm 1963 và 1966, là mong muốn một số vấn đề rất quan trọng cho dân tộc và Phật Giáo Việt Nam. 1- Đó là mong muốn Tăng, tín đồ Phật Giáo được tự do hành đạo, truyền giáo như Thiên Chúa Giáo. 2- Mong muốn dư đảng Cần Lao Thiên Chúa Giáo trong chính quyền VNCH đừng tiếp tục đàn áp Phật Giáo, trả thù Phật Giáo. 3- Mong muốn VN là một quốc gia phi Cộng Sản. 4- Mong muốn VN đừng có chiến tranh nữa, phải hòa bình. 5- Mong muốn miền Nam được có một chính thể VNCH lý tưởng, được tự do, dân chủ, nhân quyền do dân cử, có quốc hội lập hiến, không còn Cần Lao quân phiệt cai trị nữa, do toàn dân làm chủ đất nước, mà Quốc Hội Dân Cử, là nền tảng, thiết lập.

   Để cho toàn thể người Việt các giới hải ngoại, trong đó có hằng trăm ngàn Phật tử, lâu nay, chỉ nghe Cần Lao Thiên Chúa đem lời đánh phá HT Trí Quang, chưa được thấy tâm ý của HT Thích Trí Quang vì Đạo Pháp và dân tộc trong hai cuộc tranh đấu của Phật Giáo 1963 - 1966 trong quá khứ. Nay được thấy qua những lời xác định chắc nịch của nhiều nhân viên Tòa Đại Sứ, nhân viên tình báo CIA Mỹ, truyền thông quốc tế, tất cả đã ghi lại và lưu trữ sau đây:

   VÀO ĐỀ . 1- Qua thời gian lâu dài, Thích Trí Quang vẫn là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam. Học giả bên cánh hữu thì cho rằng Thích Trí Quang chắc chắn là tay sai cộng sản hoạt động theo chỉ thị của Hà Nội. Học giả bên cánh tả thì lý luận rằng Trí Quang là một lãnh đạo tôn giáo ôn hòa, dấn thân cho dân chủ và quyết tâm đòi chấm dứt chiến cuộc nhanh chóng. Bài viết này cho rằng cả hai lối lý giải ấy đều không có tính thuyết phục. Như nhiều người Hoa Kỳ đã kết luận đúng đắn ngay trong thời gian cuộc chiến diễn ra, không ai có bằng chứng vững chắc để nói được rằng Trí Quang là một công cụ của cộng sản hay chí ít là có thiện cảm với những mục tiêu của Hà Nội hay Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTDTGPMN). Nếu căn cứ vào những bằng chứng được lưu trữ qua các cuộc đàm thoại của Trí Quang với giới chức Mỹ thì rõ ràng là, Trí Quang thực sự có thái độ chống Cộng mạnh mẽ và hoàn toàn chấp nhận việc Mỹ dùng sức mạnh quân sự đối với Bắc Việt và Trung Quốc.

2-Như chính Moyar cũng nhìn nhận, các quan chức chính phủ Mỹ, những người có đủ mọi lý do tự lợi (self-interested) để kết luận Trí Quang là Cộng Sản, lại trước sau như một đã bác bỏ cách đánh giá này. Như các nhà phân tích của CIA đã kết luận tháng Chín 1964: “Không một ai trong số nhiều người Việt thù ghét Trí Quang, những kẻ chỉ chờ cơ hội để bôi nhọ ông hay thậm chí những kẻ hoài nghi về động lực chính trị của ông, có thể đưa ra bằng chứng vững chắc về bất cứ liên kết nào hiện có giữa ông và Cộng Sản (6)”. Giới tình báo Mỹ và Sứ Quán Mỹ ở Sài Gòn không bao giờ do dự trong cách đánh giá của họ về những động lực chính trị của Trí Quang, ngay cả vào thời cao điểm của cuộc khủng hoảng Phật Giáo năm 1966, mặc dù các viên chức quan trọng như Henry Cabot Lodge và Maxwell Taylor về sau này lại chấp nhận luận điểm của Moyar một cách trễ tràng và thiếu bằng chứng. Vào thời đó và cả ngay bây giờ, người ta vẫn có nhiều lý lẽ rất thuyết phục để phản bác luận cứ cho rằng Trí Quang cố tình làm tay sai cho Cộng Sản hay thậm chí trên bình diện trí thức đã có thiện cảm với chương trình chính trị của MTDTGPMN. Sự thể này về sau Trí Quang bị chế độ Cộng Sản hành hạ và phải sống trong tình trạng quản thúc tại hai ngôi chùa(Ấn Quang-Già Lam) ở Việt Nam thời hậu chiến (sau 30-4-1975), chỉ là một trong nhiều lý do để hoài nghi luận điểm của Higgins/Moyar (7).

3-  Chiến tranh Việt Nam như Marguerite Higgins, Richard Critchfield và Robet Shaplen cũng từng đưa ra luận điểm này khi họ viết về cuộc chiến (5). Tuy nhiên, như chính Moyar cũng nhìn nhận, các quan chức chính phủ Mỹ những người có đủ mọi lý do tự lợi (self-interested) để kết luận Trí Quang là Cộng Sản, lại trước sau như một đã bác bỏ cách đánh giá này. Như các nhà phân tích của CIA đã kết luận tháng Chín 1964: “Không một ai trong số nhiều người Việt thù ghét Trí Quang , những kẻ chỉ chờ cơ hội để bôi nhọ ông.”(ám chỉ cho Cần Lao Thiên Chúa Giáo và số Phật tử kém hiểu biết).

4-  Sau mỗi cuộc khủng hoảng do Trí Quang châm ngòi trước đây, các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ luôn tìm cách tái lập quan hệ tốt với Phật Giáo vì lý do hiển nhiên đó là phe Phật Giáo không thể bị tiêu điệt khỏi bài toán đi tìm phương cách xây dựng một xã hội không – Cộng Sản khả dĩ đứng vững ở miền Nam.

5- Khi kí giả Marguerite Higgins đăng một bài trên báo the Washington Star cảnh báo rằng chính quyền Johnson cần phải thức tỉnh đối với Trí Quang và điều mà nhà báo gọi là những âm mưu của ông ta với cộng sản, Bộ Trưởng Ngoại giao Dean Rusk chỉ thị người đứng đầu Đoàn Công tác Việt Nam (The Vietnam Working Group/VWG) trả lời riêng với Higgins. Thomas Corcoran, Giám Đốc VWG, nhận định nghiêm chỉnh rằng không có chuyện các nhân viên tình báo biết chắc Trí Quang có móc nối với cộng sản và cũng không có chuyện dữ liệu này phần nào đang bị những người làm chính sách ở Washington ém nhẹm. Đích xác dựa vào ý kiến của các nhân viên nói tiếng Việt của Tòa Đại Sứ, Corcoran lí luận rằng không ai có thể đưa ra bất cứ một nhận xét tối hậu hay dứt khoát nào về mục tiêu và động lực chính trị của Trí Quang.

6-Từ tường thuật của Topmiller người ta không thể không ngờ được rằng Trí Quang thường rất thân Mỹ và Chống Cộng gay gắt, hoàn toàn không quan tâm đến những nguyên tắc phổ quát về dân chủ và tự do ngôn luận, và cực kì hiếu chiến trong quan điểm về phương sách điều hành cuộc chiến. Mặc dù hẳn nhiên là có một phong trào Phật Giáo đối kháng quan trọng ở miền Nam, nhưng người ta lại hoàn toàn sai lạc khi cho rằng “hòa bình” là một trong những mục tiêu hàng đầu của Trí Quang. Trí Quang hiếm khi có luận điệu bênh vực cho một miền Nam trung lập hay cổ vũ cho việc theo đuổi bất cứ một cuộc đàm phán nào với MTDTGPMN trước khi Hoa Kỳ và VNCH nắm được thế thắng trên chiến trường.

7- Sau khi đánh giá kĩ lưỡng các bằng chứng do nhiều người chỉ trích Trí Quang đưa ra, CIA kết luận rằng không có bất cứ bằng chứng vững chắc nào để xác nhận giá trị của những luận cứ cho rằng ông ta chịu ảnh hưởng của Cộng Sản. Nhìn vào bản chất cá tính của Trí Quang, nhân viên CIA kết luận: “Khó mà tưởng tượng được Trí Quang chịu làm tay sai cho bất cứ ai, dù đó là Hà Nội, Bắc Kinh, hay Mạc Tư Khoa.” (32)  Vì bất cứ một nỗ lực nào nhằm triệt hạ Trí Quang khỏi sân khấu chính trị Việt Nam sẽ gặp thất bại thảm hại, CIA kết luận rằng ông ta là một “thực tế” không thể bỏ qua được vì “bất cứ một chế độ chống Cộng nào ở Miền Nam muốn có cơ may tồn tại đều phải được Trí Quang ủng hộ hay chí ít, chấp nhận.” (33) (không ở trong túi áo của ai cả. Tiểu luận tự ghi HT T Quang).

8- Khi kí giả Marguerite Higgins đăng một bài trên báo the Washington star cảnh báo rằng chính quyền Johnson cần phải thức tỉnh đối với Trí Quang và điều mà nhà báo gọi là những âm mưu của ông ta với cộng sản hoàn toàn sai lạc. Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk chỉ thị người đứng đầu Đoàn Công tác Việt Nam (the Vietnam Working Group/ VWG) trả lời riêng với Higgins.

9-  Thomas Corcoran, Giám đốc VWG, nhận định nghiêm chỉnh rằng không có chuyện các nhân viên tình báo biết chắc Trí Quang có móc nối với cộng sản và cũng không có chuyện dữ liệu này phần nào đang bị những người làm chính sách ở Washington ém nhẹm. Đích xác dựa vào ý kiến của các nhân viên nói tiếng Việt của tòa đại sứ, Corcoran lí luận rằng không ai có thể đưa ra bất cứ một nhận xét tối hậu hay dứt khoát nào về mục tiêu và động lực chính trị của Trí Quang.

10-  Bộ Trưởng Ngoại Giao Dean Rusk đích thân yêu cầu Lodge đừng chuẩn y những luận điệu quy kết những nhà lãnh đạo Phật Giáo là cộng sản, vì những luận điệu này vẫn không đưa ra được bằng chứng về sự móc nối và bởi vì một đường lối như vậy sẽ gặp phải sự phẫn nộ của nhiều lãnh đạo Phật Giáo, những người có thể được chứng minh là không Cộng Sản (88). Sau khi nghe Cy Sulzberger của báo New York Times nhấn mạnh vai trò quan trọng của Việt Cộng rằng ông “thấy rất ít bằng chứng vững chắc khẳng định VC đã thực sự điều khiển vụ binh biến Huế - Đà Nẵng. Chắc chắn là, có nhiều báo cáo ở các cấp thấp nói về những nỗ lực xâm nhập hàng ngũ tranh đấu của cộng sản và mọi người đều tin VC đã cố gắng làm việc đó, nhưng tôi không thể đưa ra cho ông ấy bằng chứng vững chắc nếu bằng chứng ấy không hề hiện hữu.” (88) Komer lấy làm tiếc là Lodge đã đưa ra cho Sulzberger và nhiều kí giả khác một lối giải thích về cuộc khủng hoảng Phật Giáo hoàn toàn sai lạc và không được nhiều quan chức khác tán thành.

   HT Thích Trí Quang có nhiều tư tưởng thật lành mạnh, rất siêu xuất, hết mình cho dân tộc và Đạo Pháp, làm cho đôi khi quên vị trí thực tại. Điều nầy được ông Topmiller nói: “Người ta không ngờ được rằng Trí Quang thường rất thân Mỹ và chống Cộng gay gắt, hoàn toàn không quan tâm đến những nguyên tắc phổ quát về dân chủ và tự do ngôn luận…”

11- Tư tưởng siêu xuất khác: Mối quan hệ của Trí Quang về chủ nghĩa cộng sản vượt cả ngoài biên giới Việt Nam. Sau khi Trung Quốc có bom nguyên tử, Trí Quang nghĩ rằng tín đồ Phật Giáo chống lại sự bành trướng của cộng sản tại Đông Nam Á.” (44) Theo ông, khả năng về vũ khí hạt nhân của Trung Quốc đòi hỏi phải tăng cường gấp bội khả năng chiến tranh quy ước của Mỹ cũng như gia tăng sức mạnh bảo vệ của chính các nước châu Á nhằm chống lại sự bành trướng và xâm nhập của Trung Quốc.” Đối với Trí Quang, mối quan tâm về Trung Quốc nghiêm trọng đến nỗi ông muốn xuất ngoại để nói với Phật tử các nước khác về “sự cần thiết phải duy trì sự hiện diện của Mỹ ở châu Á.” (45) Không có gì đáng ngạc nhiên nếu như khoảng tháng Mười Một năm 1964, giới chức Hoa Kỳ vẫn rất hài lòng với tư duy và ý kiến chính trị của phong trào Phật Giáo: “Khá thuận lợi và sự cần thiết của sự hiện diện của Mỹ ở Việt Nam và ở những nước châu Á khác được họ nhìn nhận.” (Lời xác nhận của ông Fredrik Logevall)

12-Về tư tưởng siêu xuất của HT Thích trí Quang, cũng được ông J.D. Rosenthal nói đến. Ông J.D. Rosenthal, viên chức Tòa Đại Sứ Mỹ gần gũi nhất với Trí Quang trong suốt giai đoạn này, vô cùng ngạc nhiên về việc ông đã có thể dẹp qua một bên bất cứ nỗi dằn vặt nào trong đức tin liên quan tới chiến dịch Rolling Thunder. Thật vậy, theo Rosenthal, “Chẳng những không có một e ngại luận lí nào về những trận dội bom của Mỹ. Ông lại tỏ vẻ lo lắng rằng cơ hội do những vụ oanh tạc này mang lại sẽ bị lãng phí vì chúng không đạt đến mức độ ác liệt cần thiết.” (67)

13-Việc Trí Quang công khai tán thành chiến dịch lẽ ra có thể chống đỡ phần nào cho lập trường của Mỹ vào thời điểm nó bị chỉ trích gay gắt bởi một quần chúng quá lo ngại về những hệ quả của một chiến dịch dội bom rộng lớn trên miền Bắc. Bộ Ngoại Giao Mỹ cho rằng nếu Tòa Đại Sứ có thể yêu cầu Trí Quang công bố lập trường của ông cho đông đảo quần chúng, đó sẽ là tư tưởng vì dân tộc của HT Thích Trí Quang, là mong muốn miền Nam được có một chỉnh thể VNCH lý tưởng, được tư do, dân chủ, nhân quyền bình đẳng phi cộng sản, phi tôn giáo, do dân chọn mà có.

14-Tư tưởng trên, được ông Đại Sứ Mỹ Maxwell Taylor lập lại: “Loại chế độ chính trị nào mà Trí Quang muốn thấy cầm quyền…” Tuy nhiên, ông cũng bày tỏ với giới chức Hoa Kỳ rằng ủng hộ một chính phủ thậm chí độc tài hơn miễn là chính phủ đó “thật sự Cách Mạng.” (53) Nếu một chế độ như thế chịu đặt Đảng Cần Lao ra ngoài vòng pháp luật, Trí Quang sẵn sàng chấp nhận việc chế độ ấy có đủ toàn quyền cấm chỉ đình công, giới hạn tự do ngôn luận và tiết chế các đảng phái chính trị, những đảng mà theo Trí Quang, phải có “mục tiêu chống cộng và lí tưởng chống trung lập rõ ràng dứt khoát.” (Theo tài liệu Thích Trí Quang và Chiến Tranh Việt Nam. JAMES McALLISTER cập nhựt 10/8/2008 14:42  JAMES McALLISTER, Giáo Sư Williams College, dựa trên hồ sơ lưu trữ của Bộ Ngoại Giao Mỹ- Trần Ngọc Cư dịch từ tiếng Anh).

 

   *  Bản Ghi Nhớ Tình Báo : HT Thich Trí Quang của Văn Phòng Giám Đốc Trung Ương Tình Báo (CIA) Hoa Kỳ (Directorate of Intelliigence) qua đề tài Thích Trí Quang và Mục Tiêu Chính Trị Phật Giáo tại Nam Việt Nam (THICH TRI QUANG AND BUDDHIST POLITICAL OBJECTIVES IN SOUTH VIET NAM)  Hồ Sơ Mật- Viết ngày 20 tháng 4 năm 1966- Hồ sơ số No: 0806/66- Bản thứ 213. Giải Mật ngày 15 tháng 1 năm 2004. Tên hồ sơ: CIA-RDP80B01676R0001000500011-6.pdf.

LỜI NGƯỜI DỊCH: Hồ sơ này đã giải mật theo luật Hoa Kỳ- tuy vẫn còn xóa trắng 2 dòng ở trang 1, và xóa trắng hai trang 3 và 4 – sẽ cho thấy cách nhìn từ chính phủ Mỹ về tình hình Việt Nam trong thập niên 1960s. Hồ sơ này cho thấy đánh giá từ phía tình báo Hoa Kỳ về Thầy Thich Trí Quang và hoạt động của Phật Giáo VN trong năm 1966, tức là ba năm sau khi Hòa Thượng Thích Quảng Đức vị Pháp thiêu thân. Một vài đánh giá trong bản văn này bây giờ đã thấy là không chính xác, khi Mỹ dựa vào suy đoán để gán ghép một mục tiêu chính trị nào đó cho một hay nhiều vị sư. Tuy nhiên, bản văn này cho thấy cái nhìn từ phía tình báo Hoa Kỳ đối với Phật Giáo trong tình hình lúc đó đang gay gắt, và sẽ chiếu rọi thêm một phần vào lịch sử phong trào Phật Giáo.

   Điểm ghi nhận từ hồ sơ đánh giá này:

(1) Phật Giáo đứng về quyền lợi dân tộc, không hề bị chi phối bởi Cộng sản hay người Mỹ;

(2) Thời kỳ Phật Giáo hồi phục gắn liền với phong trào kháng Pháp.

(3) Người Pháp củng cố quyền lực cai trị phấn lớn nhờ vào các giáo sĩ;

(4) Bản văn CIA này còn quá sơ sài, không nhìn đúng tình hình chế độ của Tổng Thống Diệm đã gay gắt đàn áp tôn giáo, như đối với Đại Cao Đài hay đối với Phật Giáo Hòa Hảo, đó là chưa nói tới trường hợp Phật Giáo.

(5) Bàn thân Thầy Thích Trí Quang không liên hệ gì tới CIA hay Cộng sản, chỉ là một người chủ nghĩa dân tộc;

(6) Theo CIA đánh giá, Phật Giáo là cảm xúc sâu thẳm nhất của đa số dân Việt Nam (xem đoạn văn 27), chính phủ Phật Giáo nếu có sẽ có thể là kình địch mạnh nhất mà Việt Cộng có thể đối diện (xem đoạn văn 30)….

Những Bối cảnh này cần ghi nhận:

     -Tháng 3 năm 1966, Phật tử biểu tình tại Đà Nẵng và Huế, tổng đình công chiếm đài phát thanh ở Huế và Đà Nẵng.

     -Ngày 17-3-1966, tại Sài Gòn đại sứ Hoa Kỳ tại VNCH, Cabot lodge gặp Thầy Thích Trí Quang, trong khi các tướng Nguyễn Căn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ gặp Thầy Thích Tâm Châu.

     -Ngày 19-3-1966, Viện Hóa Đạo GHPGVNTN tuyên bố không chống đối chính phủ mà chỉ đòi hỏi bầu cử và thành lập chính phủ dân sự. Biểu tình tiếp diễn.

     -Ngày 5-4-1966, tướng Nguyễn Cao Kỳ đem theo hằng ngàn binh sĩ ra Đà Nẵng bằng cầu không vận Mỹ, nhưng bị binh lính địa phương ngăn chặn, không cho ra khỏi sân bay.

     -Ngày 8-4-1966, chính phủ gửi tiếp hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến ra Đà Nẵng nhưng Bộ Ngoại giao Mỹ phản đối và yêu cầu chính phủ giải quyết tranh chấp bằng thương lượng.

     -Ngày 14-4-1966, trung tướng Nguyễn Văn Thiệu nhượng bộ, công bố sắc luật số 14/66, tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến để soạn thảo và biểu quyết hiến pháp VNCH. Phật Giáo tạm ngưng đấu tranh.

     -Ngày 17-4-1966, Thầy Thích Trí Quang từ Sài Gòn ra Huế dàn xếp và kêu gọi ngưng biểu tình.

     -Và ngày 20-4-1966, hồ sơ tình báo này được soạn thảo…

      Một vài tư tưởng sau đây đáng ghi nhớ, được lấy ra từ Tóm Lược tình báo.

-Những mục tiêu được nêu lên từ những vị lãnh đạo Phật Giáo nhấn mạnh tới việc gìn giữ sự độc lập của Nam Việt Nam và sự tự do không bị Cộng Sản chế ngự.

Các vị Sư chính trị, như Thích Trí Quang, không nhất thiết lên tiếng cho, hay đại diện cho, ước muốn chân thực của tất cả Phật Tử Nam Việt Nam, nhưng họ có một tổ chức chính trị hiệu quả, dựa vào số đông quần chúng, hơn bất kỳ ai khác không phải người Cộng Sản.

Mặc dù họ (Phật Giáo)  có vẻ mong muốn một Nam VN độc lập trong kiểm soát của Phật Giáo, họ có lẽ nhận ra rằng mục tiêu này không có thể thành đạt nếu không có Mỹ ủng hộ để chống lại người Cộng Sản.

       Sư Thích Trí Quang.

Nếu người Phật Giáo thành công trong việc lật đổ chính phủ hiện nay ở Nam VN và dựng lên một chính phủ như họ muốn, kết quả sẽ là một chiến thắng cho Sư Thích Trí Quang, người sẽ trở thành, ít nhất tạm thời là, khuôn mặt chính trị quyền lực nhất tại Nam VN. Sư Thích Trí Quang là một người Việt Nam độc đáo, và rất phức tạp. Ông lộ vẻ mờ nhạt, tự đồng nhất “ ý muốn quần chúng” với của riêng ông, và kỹ lưỡng chơi trò chính trị. Ông là người theo chủ nghĩa dân tộc tới mức không ưa ngoại quốc; ông là bậc thầy của nghệ thuật kích động và áp lực, và là chính khách hiệu quả nhất hiện hoạt động ở Nam VN. Không ai thực sự biết ông muốn gì cụ thể, và ông có lẽ không thể nói ra các mục tiêu tích cực của ông với bất kỳ mức độ chính xác nào…(Tới đây, có 2 trang bị xóa trắng, không được giải mật)…cần tới sự hổ trợ của Mỹ trong việc chiến đấu chống lại Việt Cộng và đối với sự bất khả của việc thương thuyết với người Cộng Sản. Thường khi, ông như dường đã xem người Thiên Chúa giáo VN như là một hiểm họa lớn đối với chủ nghĩa dân tộc và đối với Phật Giáo, hơn là người Cộng Sản.

      Bổ túc ở 3 đoạn văn 27, 30.

   Đoạn văn 27. Phật Giáo như là một khái niệm tôn giáo chính trị, đã chứng tỏ rằng chính họ có khả năng đánh động những cảm xúc sâu thẳm trong những khối đa số của dân tộc Việt. Một chính phủ Phật giáo khuynh hướng dân tộc nhạy cảm có thể sẽ là điều mà tuyên tryền Cộng Sản sẽ thấy khó tấn công. Người Cộng sản cũng sẽ gặp gian nan khi tìm bất kỳ đồng minh nào trong những người đối lập tự nhiên của chính phủ Phật giáo so với  người Thiên Chúa giáo, những người như dường kiên quyết chống Cộng.

   Đoạn văn 30. Trong khi có thể tranh cãi rằng người Cộng sản có thể nằm lặng lẽ để khích lệ khả năng của những cuộc thương thuyết thành công với một chế độ Phật giáo, người Cộng sản sẽ không nhất thiết lý luận và hành động kiểu này. Hậu quả chung của những hoạt động gây rối tiếp diễn của họ, và có thể ngay cả phong trào tranh đấu hiện nay, có thể làm khởi lên trong những người Phật tử một ý thức ưu tiên về nhu cầu chống lại hiểm họa Cộng sản. Nếu người Phật tử toàn lực gắn bó vào cuộc chiến chống Cộng, họ có thể sẽ là một kình địch chính trị mạnh mẽ hơn bất kỳ kình địch nào mà Việt Cộng từng đối diện.(Hồ Sơ Mật 1963- Từ Các Nguồn Tài Liệu Của Chính Phủ Mỹ-NHÓM THIỆN PHÁP – trang 271-275).

      Nhận định riêng của tác giả : ( cho ra sau) Chế độ Đệ II VNCH tại miền Nam lúc bây giờ là chính quyền của Thủ Tướng Phan Huy Quát, khả dĩ được toàn dân ngoài xã hội và Phật Giáo (HT Trí Quang) tôn trọng chấp nhận. Nhưng vì Thủ Tướng Phan Huy Quát, là nhân sĩ Nho Giáo, có cảm tình với Phật Giáo, cho nên bị dư đảng Cần Lao trong và ngoài quân đội ra tay chống phá, tìm mọi cách tiêu diệt. Vì thế Thủ Tướng Phan Huy Quát mới giao quyền điều hành quốc gia lại cho quân đội. Tướng Nguyễn Chánh Thi được các Tướng Phật tử chỉ định đứng ra, tạm thời lãnh đạo VNCH. Nhưng Tướng Thi sợ Cần Lao ám hại, nên từ chối không nhận.Tức thì Cần Lao đưa ra hai Tướng  Nguyễn văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, để cho dân, quân các cấp nhìn vào đó thấy cấp lãnh đạo chính phủ không phân biệt tôn giáo, có Phật giáo, Thiên Chúa giáo. Nhưng thật sự bên trong, là do dư đảng Cần Lao Thiên Chúa Giáo thao túng mọi việc hành chánh và quân đội. Chức vụ của hai Tướng Thiệu, Kỳ lúc bấy giờ trong chính phủ quân phiệt, chỉ là bù nhìn trên cơ sở ký sắc lệnh…

   Phong trào đòi bầu cử QHLH được phát động thật hùng mạnh khắp Miền Nam VN, mà lực lượng nòng cốt tại Đà Nẵng và Huế, do toàn quân đội VNCH các cấp 80% và dân chúng 95%  đứng lên.Vì thế cho nên, được các giới chức Mỹ Tòa Đại Sứ Sài Gòn, và tại Đà Nẵng gọi là cuộc Binh Biến hay là cuộc khủng hoảng chính trị, không ai gọi là Biến Động, chỉ có tên Cần lao Liên Thành gọi Biến động mà thôi.

   Phong trào đòi bầu cử QHLH, do tập thể Tăng già trong Hội Đồng Lưỡng Viện GHPGVNTN cùng chủ xướng, HT Thích Quang chỉ đạo phát động. Phong trào đòi bầu cử QHLH này, chính là nền tảng thành lập một chỉnh thể VNCH lý tưởng phi Cộng Sản, phi tôn giáo, có sức mạnh chuyển hóa miền Bắc hòa nhập vào miền Nam là thành trì ngăn chặn làn sống đỏ Trung Hoa. Phong trào đòi bầu cử QHLH đang trên đà tiến đến cung thành VNCH đầy hoa lệ, thì bị Tướng Nguyễn Cao Kỳ phản bội, đem quân dẹp tan. Điều này được chứng minh ở phần ông Nguyễn Cao Kỳ đã nhờ sĩ quan kỹ thuật của Mỹ tại Đà Nẵng, thiết lập dùm một đài phát thanh trong căn cứ Mỹ. Rồi phát thanh toàn là giọng điệu CS không thôi, nhằm vu khống Phật Giáo theo CSVN (được nói rõ trang sau).

   Trước hình ảnh phong trào đòi bầu cử QHLH do Phật Giáo khởi xướng, bị Tướng Kỳ nghe theo Cần Lao xúi giục, đem quân dẹp tan. Làm cho toàn dân và quân đội VNCH đều đem lòng buồn phiền oán trách Tập đoàn Cần Lao Thiên Chúa, bởi vì bị tan vỡ lòng mong muốn miền Nam được có  một chính thể dân chủ. Tâm sầu muộn ấy của toàn quân dân miền Nam được ông Mark Moyar thấy rõ, đem lời nhận xét : “…có một điều hình như ít ai đem ra tranh luận là việc triệt tiêu Trí Quang và Phong trào Phật Giáo năm 1966, đã giảm thiểu hơn nữa những viễn cảnh vốn đã mong manh về một chế độ không cộng sản được lòng dân xuất hiện ở miền Nam VN”.

  Thiết nghĩ rằng; các  ông Cần Lao và Tín hữu KiTô giáo hải ngoại, nên thấy tư tưởng trên của ông Mark Moyar. Do vì không thấy, nên chi ông Liên Thành gọi “Biến Động Miền Trung” rồi các ông Cần Lao hùa theo. Nếu không nói rằng; ông Thành bị đui mù ý thức. Có nghĩa là tâm ông trong quá, hiện tại, tương lai đều bị biến động, nên chi ông không thấy toàn quân, dân Vùng I Chiến Thuật, đồng loạt đứng lên sau lưng chư Tăng GHPGVNTN trong việc vận động bầu cử QHLH, là chính đáng, ôn hòa, trật tự, bất bạo động rõ như ban ngày như vậy, mà ông Liên Thành không thấy, cho là Biến Động ? Qua ở nước Mỹ, một đất nước có nền “văn hóa thầm lặng, văn minh văn khố, thấy rộng nhìn xa, lưu trữ dữ kiện lịch sử”. Sao ông Liên Thành không học hỏi theo 4 nền văn minh của Mỹ nói trên, để được có lại thân tướng chững chạc, đứng đắn,  ăn nói có văn hóa Việt Nam và nếp sống của các đời vua Nhà Nguyễn, như những ông có họ Vĩnh, Bảo,Tôn thất,…để xứng đáng dòng họ nhà vua ? Mà ông Liên Thành sao không có? Cứ  ngẩn mặt lên, trắng sát đôi mắt sau cập kính cận, nhìn đăm đăm về phía trước, đưa tay lên, xuống cùng lời nói xàm, nói bậy, nói huyên thuyên…một âm duy nhất Tri Quang là Cộng Sản, Đôn Hậu là Cộng Sản, không ngớt, không cho ai phát biểu trong lúc ra mắt sách BĐMT. Qua đó cho ta thấy ông LT dùng cụm từ “BĐMT” đặt tên cho cuốn sách, là một mánh khóe để lường gạt dân Việt hải ngoại tò mò mua sách. Mua nhiều, được tiền nhiều, cho việc sinh sống, nếu không nói là cách làm ăn bất lương.Thay vì đem lời rao sách: “ Sách này hay lắm quý vị ơi, mua đi, mua đi..” Thì ông Thành lại nói “ Phong trào đòi bầu cử QHLH mà PGVN phát động năm 1966, là do CSVN chỉ đạo, Thích Trí Quang là CS, Đôn Hậu là CS”, để đánh vào tâm lý người Việt hải ngoại, từ lâu cứ nghe các ông Cần Lao Thiên Chúa rêu rao rằng Đệ II VNCH bị tan hàng, là do PGVN theo CS, quý HT Trí Quang, Đôn Hậu…là CS. Đúng là tâm như thế nào, hành động và lời nói ở thân tướng như thế đó không sai chạy. Như vậy, sách, mà ông LT ra mắt trước hằng chục cựu quân, cán chinh VNCH tại một số nơi ở CALI, không phải sách văn hóa. Đó là sách Biến Động, bởi vì trong đó, toàn là nói láo, không nói có, có nói không, phịa chuyện xấu, vu khống, chụp mũ CS, bởi cái tâm lăng xăng,...Biến Động Miền Trung của ông Liên Thành là chỗ đó. Trong lúc cộng đồng người Việt hải ngoại, đã và đang đoàn kết một khối trong công cuộc chống CSVN bị CS Trung quốc chỉ đạo từng bước để đồng hóa, trong đó có xâm lược hải phận Hoàng Sa, đất liền biên giới Việt bắc…Thì ông Liên Thành ra mắt sách nói bá láp, bá xàm, đánh phá Phật giáo, vu khống chư Tăng theo CS…làm cho khối người Việt Thiên Chúa, Phật Giáo bị biến động tâm tư, mất đoàn kết, do ông LT gây ra, tạo ra không khí biến động đó, làm sao có thể giải trừ được CSVN, để đuổi CS Trung Quốc ra khỏi Hoàng Sa ?

CÁC GIỚI CHỨC CỘNG SẢN VIỆT NAM

BIẾT HT TRÍ QUANG THÂN MỸ.

Sau 30.04.75, chúng tôi đã bị đi cải tạo nhiều năm tại các trại cải tạo Nam, Bắc. Được về tháng 9 năm 1987. Khi về Sài Gòn được vài hôm, thì mấy huynh đệ cũ ngày xưa đến thăm. Chủ đề hàn huyên tâm sự toàn là những chuyện Chư Tôn Giáo Phẩm đang còn trong tù, vị được thả ra, vị còn, vị viên tịch, Giáo hội mới, Giáo hội cũ… Tất cả cũng chỉ vì thân Mỹ, thân các Tướng, Tá Viên chức chính quyền VNCH ngày xưa, bị cộng sản biết được, bắt vào tù, thủ tiêu, ép buộc lập thành lập GHPGVN theo sự điều khiển của họ. Nghe vậy, một huynh mới hỏi rằng: “ CSVN ở trong rừng, ngoài Bắc, làm sao họ biết quý Hòa Thượng, Thượng Tọa lãnh đạo GHPGVNTN của mình thân Mỹ, thân chính quyền VNCH ?”.

Một huynh cựu tù cải tạo nói rằng; làm sao họ biết … Toàn thể các huynh cười ngất. Thì một sư em mới nói: “sống với hưu nai trong rừng hèn chi ngớ ngẩn, không biết gì như con nai vàng ngơ ngác”. Một huynh khác hỏi ông bạn ở tù mới về, có biết ông Long người Huế hay không? Ông bạn trả lời: “ Ông ấy thường có mặt bên cạnh HT Thích Thiện Minh tại Tổng Vụ Thanh Niên, đường Công Lý”. Rồi hỏi tiếp có biết ông Đỗ Trung Hiếu hay không?  Ông bạn trả lời: “ ông Hiếu là dân cư  Hòn Khói- Ninh Hòa. Ngày Xưa ông Hiếu có một lúc ở dưới nhà Nhang chùa Hải Đức, đi học trường Võ Tánh Nha Trang cỡ năm 1958-1959. Vài  năm sau, ông Hiếu vào Sài Gòn làm giáo sư dạy toán, lý, hóa tại trường tư thục Nguyễn Công Trứ”.

   Một huynh cựu trào Sài Gòn, lên giọng với âm thanh dõng dạc “chính hai ông Long, Hiếu” là người biết rõ quý Thượng Tọa, HT của mình, vị nào có đệ tử là Tướng, Tá, vị nào có đệ tử là Viên chức chính quyền VNCH, vị nào thường gặp các Tướng QLVNCH, vị nào được các giới chức Mỹ đến gặp. HT Thiện Minh đến gặp Tướng Nguyễn Khánh tại Dinh Thủ Tướng ở đường Thống Nhất, ngày nào, giờ nào, nói gì… mà ông Long chả biết. Rồi sau đó HT Thiện Minh đến Bộ Tư Lệnh Không Quân ở Tân Sơn Nhất vào giờ nào, nói gì với Tướng Nguyễn Cao Kỳ vào giữa năm 1966, mà ông Long chả biết. HT Thích Trí Quang được các giới chức Tòa Đại Sứ Mỹ tiếp chuyện nhiều lần ở ẤN QUANG mà ông Hiếu chả biết! Nhiều ông như ông Long, Ông Hiếu. Nội hai ông đó, mà chư vị HòaThượng, Thượng Tọa mình, cũng đủ ê càng. Cho nên khi quý Ngài của mình bị công an bắt vào nhà tù Chí Hòa, Phan Đăng Lưu sau 30-04-1975. Trong lúc hỏi cung họ đặt để hồ sơ của quý Ngài trước mặt họ, rồi họ đọc lên những việc làm quý Ngài có liên đới với Mỹ, với các tướng tá QLVNCH. Làm cho quý Ngài phải nói là có thật. Hai ông Long, ông Hiếu bây giờ (tháng 9-1987) họ đang là nhân viên Ban Tôn Giáo Trung Ương trong Mặt Trận Tổ Quốc. Mấy ông đó là đặc công tình báo CSVN, họ biết quý T Tọa, HT mình thân chính quyền VNCH, thân Mỹ, thì các cán bộ cao cấp ở Hà Nội cũng biết luôn”.

   Huynh cựu trào Sài Gòn vừa ngưng trong mấy giây, thì một huynh khác nói rằng : “HT Thiện Minh bị chết trong nhà tù, quý HT, T Tọa đang bị trong tù, đang bị lưu đày xa xứ như HT Quảng Độ bị đày ra Thái Bình, HT Huyền Quang bị giam lỏng ở chùa Hội Phước, Quảng Ngãi, còn HT Trí Quang bị họ quản thúc ở Ấn Quang. Họ sợ Ấn Quang là tai mắt quốc tế, họ đưa về Già Lam. Tất cả đều do các cấp lãnh đạo chóp bu chính phủ Hà Nội ra lệnh cho Bộ Công An B Sài Gòn thi hành”.

   Đến năm 1991, chúng tôi lên đường sang Mỹ định cư theo diện HO. Mãi đến năm 2001, chúng tôi bắt gặp một tập tài liệu có nhan đề “THỐNG NHẤT PHẬT GIÁO VIỆT NAM”. Tác giả Đỗ Trung Hiếu – năm 1994. Trong đó có nhiều phần, phần mà chúng tôi phải đọc tới đọc lui và làm cho chúng tôi tư duy, đó là lời của mấy ông cán bộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam nói HT Thích Trí Quang là CIA chiến lược.

   Để cho quý Phật tử hải ngoại được biết, chúng tôi trích một đoạn đối đáp giữa ông Đỗ Trung Hiếu (có bí danh là Mười Anh) và ông Xuân Thủy sau đây:

   Cụ Xuân Thủy trầm ngâm hỏi đi hỏi lại nhiều việc và những nhân vật Phật Giáo. Bổng cụ nhìn tôi hỏi:

-Anh nghĩ thế nào về Thượng Tọa Thích Trí Quang?

-Thưa bác, đây là một nhà Sư uyên thâm Phật Học, hoạt động chính trị thông minh.

-Quan điểm chính trị của Thượng Tọa Thích Trí Quang ra sao?

-Thưa bác cháu biết Thượng Tọa Thích Trí Quang từ năm 1959. Trong phong trào Phật Giáo đấu tranh chống chính quyền Ngô Đình Diệm năm 1963, Thượng Tọa là linh hồn của phong trào và của Phật Giáo miền Trung và sau đó là nhà chiến lược của GHPGVNTN. Thượng Tọa đứng trên lập trường dân tộc. Nhưng ý anh Tư Ánh (Trần Bạch Đằng) khác cháu.

-Trần Bạch Đằng nói sao? Lời ông Xuân Thủy.

-Anh Tư Ánh nói Thượng Tọa Thích Trí Quang là loại CIA Chiến Lược. Cháu hỏi bằng cớ? Anh Tư Ánh nêu những sự kiện: Năm 1964 trận lụt ở miền trung, quân giải phóng chuẩn bị nhổ các đồn bót QLVNCH. Thượng Tọa Thích Trí Quang nêu khẩu hiệu “GHPGVNTN CỨU LỤT.” Cờ năm sắc trên các ca nô, tàu, máy bay trực thăng cứu sạch lính VNCH. Cũng năm 1964, nhân dân phẫn nộ trước chính quyền quân phiệt Thiệu Kỳ, MTGPMN nêu khẩu hiệu chống quân phiệt để đẩy mạnh phong trào đô thị, Thượng Tọa Thích Trí Quang lập “Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc” (HĐNDCQ) Miền Trung đòi bầu cử QHLH chính phủ dân sự, gom hết quần chúng về phía mình và đạp xẹp khẩu hiệu của ta. Năm 1965, Mỹ đổ quân trắng trợn xâm lược miền nam VN, MTGPMN đẩy mạnh phong trào chiến tranh cách mạng chống Mỹ. Thượng Tọa Trí Quang nêu khẩu hiệu “Cầu Nguyện Hòa Bình” làm hạn chế cuộc đấu tranh chống Mỹ của ta. Cháu cho rằng những điều đó chưa đủ thuyết phục vì mỗi người có thể hiểu một cách khác theo vị trí của mình.

   Anh Tư Ánh mỉa mai: “đi tìm bằng cớ ư?” còn khuya. Cỡ tình báo chiến lược chỉ có trung tâm CIA ở Washington DC và Lầu Năm Góc mới xác nhận được. Cháu vẫn chưa tin Anh Tư Ánh nói anh út (Nguyễn Văn Linh) giận Thích Trí Quang lắm, vì MTGPMN chưa hề thua ai thế mà bị Thích Trí Quang cho đo ván ba lần. Ba lần đó Thích Trí Quang cứu Mỹ, QLVNCH một cách nhẹ nhàng. Bao nhiêu triệu dollars mới trả nổi những đòn chiến lược đó.

   Quả thật năm 2008, chúng tôi được đọc tài liệu “Thích Trí Quang và Chiến Tranh Việt Nam”, được thấy rõ thêm chư vị Thượng Tọa, Hòa Thượng VHĐ, GHPGVNTN nói chung, HT Trí Quang nói riêng, đã thật sự có liên đới với các giới chức Tòa Đại Sứ và CIA Mỹ trước 1975, cho nên bị CSVN sát hại giam cầm tù đày xa xứ, không cho quý Ngài dự bất cứ chức vị nào trong  Giáo Hội Phật Giáo VN (mới sau 30-4-75) .HT Trí Quang bị họ giam lỏng và quản thúc tại chùa Ấn Quang rồi Già Lam đúng như lời của các giới chức CIA và Tòa Đại Sứ Mỹ đã nói ở trang 3 (tổng số 31 trang tài liệu) mà chúng tôi đã trích ra thống kê  14 đoạn.  HT Trí Quang  đang bị nhà cầm quyền CSVN quản thúc tại chùa Ấn Quang, rồi chùa Già Lam Gò Vấp sau 30-4-75, luôn có Công An ngồi trước cửa.

Sở dĩ CSVN không giam Ngài Trí Quang vào nhà tù lâu năm như quý Hòa Thượng, Thượng Tọa  khác hay đày ra Huế, lại đặt để ở chùa Già Lam Sài Gòn, là vì nhắm vào Ngài như một con tin để rình mò tóm bắt thêm nhiều chính khách chính trị đa dạng khác từ mọi phía trong nước, ngoài nước đến để móc nối tư tưởng chính trị của Ngài. Cũng như để lừa dối toàn dân Việt trong và ngoài nước tưởng lầm HT Trí Quang đã làm xong vai trò cố vấn chính trị cho CSVN, giành được độc lập, thống nhất đất nước rồi nên ngồi im. Nếu vậy CSVN quá khôn và quá ác ở việc quản thúc HT Trí Quang như một cách làm cho cộng đồng Phật Giáo bị giảm đi tiềm lực lục hòa, đánh phá nhau, phân hóa chia rẽ nhau là một sách lược. Đã có người trong giới Phật tử nói HT Trí Quang làm xong vai trò. Nói như vậy là nói bậy, do không chịu đọc tài liệu “Thích Trí Quang và Chiến Tranh Việt Nam.” Đọc trong đó ta mới thấy người CSVN quá sợ HT Trí Quang, bởi vì HT Trí Quang là linh hồn của dân tộc nói chung, Phật Giáo nói riêng và được ảnh hưởng ra tận các nước Phật Giáo hải ngoại, cũng như được sâu rộng vào các giới chính trị quốc tế. Điều đó được các giới chức Tòa Đại Sứ Mỹ và CIA nói trong tài liệu:

“Trước sự vô cùng sững sốt của Tòa Đại Sứ Mỹ và giới lãnh đạo quân sự miền Nam,Tướng Khánh không muốn liều lĩnh đương đầu một mất một còn với Trí Quang. Theo quan điểm của Trung Tướng Trần Thiện Khiêm, những đòi hỏi của Trí Quang được dân chúng tin theo quá nhiều, khiến Khánh không thể làm ngơ, Khánh cảm thấy không còn lựa chọn nào hơn, là phải chấp nhận, vì thanh thế của Trí Quang lớn đến nỗi, ông không những có thể sách động dân chúng chống chính phủ, mà còn tác động lên hiệu năng của toàn quân.”

 

LÝ DO  NÀO THIÊN CHÚA GIÁO TIẾP TỤC ĐÀN ÁP PGVN  ?

   Chúng tôi dư biết các giới Thiên Chúa Giáo VN, đã và đang đem tâm hận thù Phật Giáo VN muôn kiếp, không đội trời chung với Chư Tăng, Ni các cấp, Phật tử VN các giới trong và ngoài nước. Là vì hai lý do sau đây: Một, Chư Tăng, Ni, Phật tử các giới trong QLVNCH và ngoài dân, đã làm cuộc Cách Mạng lật đổ chế độ Đệ I VNCH Thiên Chúa Giáo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và cái chết của anh em ông Diệm vào ngày 1 tháng 11 năm 1963. Hai, Chư Tăng trong Hội Đồng Lưỡng Viện – VHĐ - GHPGVN TN tại quốc nội trước và sau 1975, cho tới nay 2016…, luôn chỉ cho toàn thể dân tộc VN qua nhiều thế hệ, được biết rõ Đệ II VNCH Cần Lao quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu, đã đàn áp và tiêu diệt phong trào đòi bầu cử Quốc Hội Lập Hiến của Phật Giáo Việt Nam năm 1966, không để cho PGVN kiến tạo một chỉnh thể VNCH được tự do, dân chủ, nhân quyền theo mô thức của chính phủ Hoa Kỳ do dân ứng cử, bầu cử mà các viên chức Tòa Đại Sứ Mỹ đang chờ đợi phong trào được thành tựu. Dư Đảng Cần Lao và ông Thiệu đã phá vỡ phong trào đòi bầu cử QHLH của Phật Giáo. Sau đó Cần Lao tổ chức bầu cử quốc hội giả tạo, theo kiểu “ao thả vịt.” Cuối cùng quân phiệt, vẫn hoàn quân phiệt, Diệm vẫn là Diệm, Cần Lao vẫn cần Lao, là cái nhân đưa đến cái quả, Đệ II VNCH Thiên Chúa Giáo bị Hoa Kỳ chán ghét, bỏ rơi và bị tan hàng trước lực lượng cộng sản VN luôn đói khổ, ăn bờ, ngủ bụi mà lại thắng VNCH ! Để chứng minh cho toàn dân VN hải ngoại được thấy Cần Lao trong chính phủ quân phiệt Thiệu Kỳ, không dám tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến qua lờnhận định của ông Hughes, được các giới tổ chức CIA Mỹ ghi lại sau đây:

   Theo lí luận của Hughes, được tìm thấy trong những “mối bất bình đối với tập đoàn lãnh đạo Thiệu – Kỳ, một chế độ mà phe Phật Giáo cho là chuyển động quá chậm chạp và miễn cưỡng trong việc hợp pháp hóa tình trạng của nó, như tổ chức tuyển cử quốc gia, và giao quyền điều khiển chính phủ lại cho giới chức dân cử. Nói chung, chế độ này đã đi ngược chứ không đẩy mạnh cuộc cách mạng 1963.” (91)

   Đến khi Tổng Thống Thiệu ký sắc lệnh tổ chức bầu cử QHLH vào ngày 12/4/1966 đến ngày 11/9/1966, Cần Lao tổ chức bầu cử QHLH, nhưng tất cả trí thức Phật Giáo đều bị bắt vào tù, gọi nhập ngũ Võ Bị Thủ Đức. Vì thế Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ bày tỏ thất vọng không có ứng cử viên Phật Giáo…

   Chính phủ VNCH đè bẹp phong trào tháng Sáu, năm 1966. Khi Bộ Ngoại Giao bày tỏ niềm thất vọng vì không có ứng viên nào từ phong trào tranh đấu Phật Giáo ra tranh cử Quốc Hội Lập Hiến mới, mà việc triệu tập của nó vốn là một nhượng bộ quan trọng do lực lượng đối lập giành được. Lodge trả lời rằng phe Phật Giáo tranh đấu không phải là một “tổ chức đối lập trung thực” và rằng ông chống lại mọi nổ lực có mục đích khuyến khích họ tham dự sinh hoạt chính trị (93). Hầu như Trí Quang và phe Phật Giáo tranh đấu đứng ngoài sinh hoạt chính trị Miền Nam cho đến ngày VNCH không còn tồn tại.

Thật sự, phe Phật Giáo không đứng ngoài sinh hoạt chính trị, mà do vì không có cán bộ chính trị như Thiên Chúa giáo. Hơn nữa, bản chất của Phật Giáo là xuất thế gian, cho nên ông Đại Sứ Cabot Lodge nói Phật Giáo đứng ngoài vòng sinh hoạt chính trị là quá đúng. Qua hai đoạn văn trên, toàn thể dân tộc Việt Nam hải ngoại đã thấy đệ II VNCH Cần Lao bị tan hàng vào 30-4-75, là do miền Nam Việt Nam không được có một chính thể Dân Cử, chỉ là chính thể VNCH Thiên Chúa ! Đúng thật, Thiên Chúa Giáo có một khối chính trị gia lỗi lạc như ông Ngô Đình Nhu , thì lại trong chức vụ cầm quyền, chỉ chuyên lo cho Đạo Chúa của ông, không lo xây dựng một nước Việt Nam tự do, dân chủ, hoàn toàn chỉ lo cho đạo Chúa của họ. Người Việt hải ngoại đã biết điều đó chưa? Hay còn nghi ngờ do Phật Giáo, do Hoa Kỳ phản bội người Việt Nam mà không thấy toàn dân miền Nam (quân, cán chính và ngoài xã hội) đang ước mơ được có một chính thể Dân Cử, là động cơ thắng cộng sản? Lại để cho người Mỹ trong các cơ sở CIA và Tòa Đại sứ Mỹ thấy niềm mơ ước của toàn dân, nhưng bị tan tành bởi Cần Lao đàn áp, tiêu diệt phong trào năm 1966.

       Lời ông MoYar hối tiếc dùm :

   “Chính quyền Johnson và Trí Quang lẽ ra có thể đã xây dựng được một mối quan hệ phong phú, một quan hệ khả dĩ vận dụng được sức mạnh của phong trào Phật Giáo để chống lại Bắc Việt và MTDTGPMN, thì điều này vẫn không rõ ràng, và chắc chắn có nhiều lí do để hoài nghi rằng một quan hệ đối tác như thế hoặc là có thể xảy ra hoặc là đáng mong muốn. Tuy nhiên, có một điều hình như ít ai đem ra tranh luận là việc tiêu diệt Trí Quang và phong trào Phật Giáo năm 1966,  đã giảm thiểu hơn nữa những viễn cảnh vốn đã mong manh về một chế độ không cộng sản được lòng dân xuất hiện ở miền Nam.”( toàn dân miền Nam mong muốn …bị Cần lao Thiên Chúa phá nát ).

   Do còn hận thù Chư Tăng (HT Trí Quang), Ni, phật tử VN nói chung trong và ngoài VNCH, ngàn đời chưa dứt, bởi còn nhớ đến cái chết của anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào ngày 1-11-1963, cho nên Cần lao tìm mọi cách đánh phá PGVN ở hải ngoại. Điều này được thấy ông Liên Thành cố sức chụp mũ HT Trí Quang là Cộng Sản, chỉ có Cần Lao, Thiên Chúa như Liên Thành và những ai chưa nghe, biết đến Tướng Kỳ lập ra đài phát thanh sặc mùi Cộng Sản để gán ghép phong trào Phật Giáo theo Cộng Sản, mới đem lòng tin. Chứ hằng trăm ngàn Phật tử hải ngoại, xem lời ông vu khống Phật Giáo chúng tôi theo Cộng Sản, đều bỏ ngoài tâm, vứt lời ông Liên Thành vào hầm xí! Bởi vì ai cũng thấy ông Liên Thành là người buôn hàng đánh phá Phật Giáo. Điều đó được chứng minh qua lời rao hàng của ông sau khi ông Nguyễn Hữu Đĩnh, cựu Đại Úy cảnh sát khóa 3 Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia VNCH, đã đem lời hỏi ông rằng; giữa những điệp viên CSVN như Huỳnh Văn Trọng, Nguyễn Cao Thăng, Vũ Ngọc Nhạ, Phạm Ngọc Thảo, Nguyễn Hữu Hạnh trong Đệ I, Đệ II VNCH và các sư thì ai là người làm cho chính thể Đệ II VNCH bị sụp đổ? Thì ông Liên Thành không dám trả lời , cứ tập trung lời lẽ vu khống hai HT Thích Đôn Hậu, HT Thích Trí Quang chúng tôi là Cộng Sản.Vì đang rao bán món hàng vu khống các Hòa Thượng trong Phật Giáo là CSVN, làm sao mà nói ngược lại được ! Sau đó ông Định Nguyên (Nguyễn Hữu Đĩnh) đem lời yêu cầu ban tổ chức nhắc lại câu hỏi, thì ông Liên Thành cũng lờ đi, rồi lời lẽ “bổn cũ soạn lại, ra rả Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu là CSVN…” ( phỏng theo “Huế Ơi Oan Nghiệt. Bảo Quốc Kiếm, trang 429-430).

 

 

 
CHƯ TĂNG PGVN LÀ CỘNG SẢN?

Cụm từ “CHƯ TĂNG PGVN LÀ CỘNG SẢN” chính là câu thần chú, cái bùa hộ mạng của các ông Cần Lao Thiên Chúa Giáo VN cực đoan, luôn hiện hữu trong tâm họ và thường hiện ra thành lời ở miệng một cách thường nhật, để chạy hai tội lớn. Một, tội theo thực dân Pháp, chống lại dân tộc, chống lại lực lượng Cách Mạng Mùa Thu của toàn dân kháng chiến chống Pháp giành độc lập vào năm 1945-1954. Hai, tội không lo quốc phòng, chỉ lo xây dựng nước Chúa VNCH, ôm hết chức quyền với nhau, rồi ra tay chống lại cuộc Cách Mạng của Phật Giáo VN mong muốn nhân dân miền Nam, phải được có một chính thể VNCH do dân cử, giữa thời điểm mà Chư Tăng PGVN và toàn dân đã nhận ra chính thể CSVN sẽ không có tự do, dân chủ, nhân quyền. Tâm tư Chư Tăng PGVN và toàn dân Nam VN mong muốn đó, đã được ông Mark Moyar, tình báo Mỹ thấy được, rồi nói lên: “…có một điều hình như ít ai đem ra tranh luận là việc triệt tiêu Trí Quang và phong trào Phật Giáo năm 1966 đã giảm thiểu hơn nửa những viễn ảnh vốn đã mong manh về một chế độ không cộng sản được lòng dân xuất hiện ở miền Nam.” (trang 23 – tài liệu 31 trang).

Tư tưởng Chư Tăng PGVN nói chung, HT Trí Quang nói riêng, đã thấy được chế độ CSVN không có tự do, dân chủ, nhân quyền. Nên chi phải có cuộc Cách Mạng toàn dân trong việc thành lập chế độ VNCH thật sự dân chủ, do dân cử, được thấy qua cuộc BINH BIẾN 1966, không thể gọi Biến Động Miền Trung. Vậy mà các ông Cần Lao Thiên Chúa Giáo VN không thấy, hay được thấy, nhưng vì sợ bị mất nhiều lợi lộc, quyền chức, cho nên quyết tâm đánh phá phong trào của Phật Giáo để chế độ VNCH Thiên Chúa được tồn tại. Để chạy tội, các ông Cần Lao Thiên Chúa cứ to mồm, lớn tiếng chụp mũ PGVN theo cộng sản…

NGUYÊN NHÂN NÀO QLVNCH BỊ THUA CỘNG SẢN VN ?

    Chính thể Đệ I VNCH Thiên Chúa Giáo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tại sao bị lật đổ, do ai? Do dân Việt trong Tam Giáo (Nho, Lão, Phật). Lý do? Anh em ông Diệm và tập đoàn Cần Lao Thiên Chúa Giáo VN không vì quyền lợi cho dân, chỉ vì quyền lợi vật chất cho họ, vì sự phát triển đạo Thiên Chúa của họ. Cho nên họ bị quân nhân Tam Giáo trong QLCNCH làm đảo chánh lật đổ vào ngày 1/11/1963, là một quy luật không thể tránh khỏi (bất khả tỵ).

- Chính thể Đệ II VNCH Thiên Chúa Giáo của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tại sao bị tan hàng vào 30/04/1975, do ai? Do dân Việt trong Tam Giáo VN. Lý do? Tập đoàn Cần Lao Thiên Chúa Giáo miền Nam không vì quyền lợi cho dân, chỉ vì quyền lợi vật chất, chức quyền cá nhân, gia đình, và phát triển đạo Chúa của họ, cho nên bị bánh xe Tam Giáo Đồng Nguyên nghiền nát. Ông Nhâm và Liên Thành có thấy điều đó hay không? Hay cứ đổ hô do Phật Giáo theo Cộng Sản. Qua 3 bạo lực thực dân Thiên Chúa La Mã VN trên nước Việt trong quá khứ bị thua trận, bị lật đổ, bị tan hàng, là do dân. Các ông Thiên Chúa Giáo VN cực đoan và ông Đặng Văn Nhâm, Liên Thành nên thấy lại khối dân tộc VN trong Tam Giáo (Nho, Lão, Phật). Sau khi các ông thấy lại, các ông phải nói như thế này: Chính thể Đệ I VNCH của Tổng Thống Diệm bị lật đổ, là do dân Tam Giáo đúng hơn. Chứ đừng nói rằng do Chư Tăng Phật tử VN. Cũng như Đệ II VNCH của Tổng Thống Thiệu bị tan hàng vào 30/04/1975, là do dân Tam Giáo đúng hơn. Chứ đừng nói do cộng sản VN. Lại càng không phải do Mỹ, không phải Chư Tăng, Ni, Phật tử miền Nam. Quân đội của Đệ I-Đệ II VNCH là ai? Quân đội của chính phủ Hà Nội và MTGPMN, là ai? Cả hai người lính của miền Bắc, miền Nam là đồng bào VN trong Tam Giáo (Nho, Lão, Phật) chiến tranh nhau để xây dựng một nước Việt Nam theo mô hình của mình, ai kém chiến thuật, chiến lược ắt sẽ bị lọt đài. Không có người Thiên Chúa trong cuộc chiến Nam Bắc vừa rồi ! Chứng thực,  chính phủ VNDCCH miền Bắc không cho thanh niên Thiên Chúa giáo miền Bắc vào Bộ đội, Công an, chi cho làm các việc dân sự tại địa phương. Quân lực VNCH dưới hai đời Tổng Thống Diệm, Thiệu, toàn là người Tam Giáo có đến 80%, còn lại là dân Thiên Chúa Giáo theo giặc Pháp xưa và ngồi ở hậu phương cả hai đời VNCH.

               Quân Số QLVNCH Trong Các Đơn Vị Tác Chiến.                      

Trong một đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn của các binh chủng Nhảy Dù, TQLC, BĐQ, Bộ Binh, Thiết Giáp, Địa Phương quân, Lôi Hổ (nhảy toán ra Bắc) không có người Thiên Chúa. Hoàn toàn là dân của Nho, Lão, Phật. Địa Phương quân, Lôi Hổ (nhảy toán ra Bắc) không có người Thiên Chúa. Hoàn toàn là dân của Nho, Lão, Phật. Người thanh niên Thiên Chúa đúng tuổi đi lính, họ đi đâu, không nhập ngũ? Đa số vào Tiểu Chủng Viện (cả trăm TCV trên toàn miền Nam). Có vào lính, cũng là lính kiểng hay được ở hậu cứ. Vào sĩ quan, thì ở cấp chỉ huy từ Trung và sư đoàn Bộ binh, không có trong ba binhh mũ đỏ, xanh, nâu… Đến cấp cao thì ở Bộ Tổng Tham Mưu, Cục nọ, Cục kia,… Điều này được thấy rõ khi vào trại cải tạo. Các ông Đại Tá gốc Tam Giáo đều là chỉ huy các đơn vị tác chiến BĐQ, TQLC, Thiết Giáp, Bộ Binh,… Còn các ông Đại Tá Thiên Chúa Giáo thì ở Bộ Tổng Tham Mưu và các Cục, Nha, Trung Tâm Huấn Luyện, v.v… Vào trại cải tạo là biết hết đơn vị cuối cùng của các ông Đại Tá theo Tam giáo, Thiên Chúa Giáo. Quân Lực Bắc Việt và MTGPMN, hoàn toàn là người dân Nho, Lão, Phật, không có dân Thiên Chúa Giáo VN. Dân Thiên Chúa Giáo ở Bắc trước 1975, cho làm các việc hậu cứ tại chỗ thuộc về dân sự như các đơn vị thủy lợi.

        TƯỢNG ĐÀI CÁC VĨ NHÂN.

 Thời gian gần đây, cỡ tháng 8-2011, nhiều tín hữu Thiên Chúa Giáo VN ở hải ngoại nói chung, Hoa kỳ Oakland, Stockton nói riêng, họ ngửa mặt lên trời kêu trời, cúi mặt xuống đất kêu đất, cùng với lời gào thét rằng; Thích Nhất Hạnh theo CSVN, đã vận động Hoa Kỳ rút quân, làm cho VNCH bị thua CSVN, sao lại được đứng chung với các vĩ nhân, khi nhìn thấy hình tượng HT Thiền Sư Thích Nhất Hạnh bằng đồng, một trong 25 vị Vĩ nhân của thế giới, được cơ quan nhân quyền LHQ tạc thành, dựng ở giữa thành phố Oakland Stockton Bắc Cali, để biểu thị cho những người có tâm thánh thiện, sống đời đạo hạnh, thường có lời kêu gọi thế giới hòa bình, giữ gìn tốt cho quả đất, bênh vực nhân quyền cho người dân tại các nước bị các chính quyền độc tài đàn áp.

Ý kiến bạn đọc
03/12/201704:42
Khách
Ông anh Nguyên nêu ra điểm nào không trung trực ? Đừng viết bừa ,đây là sự thật không có gì để ghép vào là chia rẽ Tôn giáo, viết thật không có gi phải sợ khẩu nghiệp ,viết không hết lời là đại bất nhân nói không hết lời là đại bất nghĩa ông anh Nguyên có hiểu không ? Ông có xem mấy ông trí thức công giáo chữi phật giáo là nguyên nhân mất miền nam không? Họ có TT là công giáo với trên 1 triệu binh lính đánh không lại cs mất miền Nam rồi đổ thừa cho phật giáo còn mấy ông linh mục tình báo chân Tín. Ngọc lan. Trần du. Phan khắc Từ, Thanh lãng. Trần hữu Thanh. Đinh bình Định là một đám Việt cộng nằm vùng sau bậy lộ diện họ không nhắc đến chỉ đổ tội cho Phật giáo là sao?
08/03/201706:05
Khách
Bài viết không trung thực với lịch sử, chia rẽ Tôn giáo. Cẩn thận kẻo mang khẩu nghiệp.
24/08/201621:57
Khách
Mình hiểu chưa trãi qua đời lính, nhưng cũng đã có những ông chú họ đi sỹ quan Đà Lạt kể chuyện.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567