- Chương 01: Tổng Tự
- Chương 02: Phiên dịch kinh điển về Di-đà và tín ngưỡng Tịnh độ thời kỳ đầu
- Chương 03: Kết liên xã niệm Phật và tư tưởng Huệ Viễn ở Lô Sơn
- Chương 04: Phiên dịch kinh A-di-đà, kinh Vô Lượng Thọ và nghi ngờ kinh ngụy tạo
- Chương 05: Truyền bá Tịnh độ giáo ở phương Nam
- Chương 06: Truyền bá Tịnh độ giáo ở phương Bắc
- Chương 07: Thuyết bản nguyện tha lực của Đàm Loan
- Chương 08: Luận điểm về Tịnh độ của Tịnh Ảnh Huệ Viễn và thuyết cửu phẩm giai vị
- Chương 09: Luận điểm về Tịnh độ của Thiên Thai Trí Khải và Thường hành tam-muội
- Chương 10: Tịnh độ luận và Sinh nhân thuyết của Cát Tạng
LỊCH SỬ GIÁO LÍ TỊNH ĐỘ TRUNG QUỐC
Hiệu đính: Định Huệ- Việt dịch: Giới Niệm
CHƯƠNG VIII. LUẬN ĐIỂM VỀ TỊNH ĐỘ CỦA TỊNH ẢNH HUỆ VIỄN VÀ THUYẾT CỬU PHẨM GIAI VỊ
Tiết 1: Sự tích của ngài Huệ Viễn
Ngài Huệ Viễn kém hơn ngài Đàm Loan khoảng ba mươi tuổi, ngài sinh vào niên hiệu Thần Quy thứ 4(523TL), thời Bắc Ngụy, ở Đôn Hoàng (huyện Đôn Hoàng, châu An Tây, tỉnh Cam Túc). Năm 16 tuổi, ngài từ chỗ luật sư Trạm, đến Đô Nghiệp (huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam). Năm 20 tuổi, ngài đến chỗ ngài Pháp Thượng thụ giới Cụ túc. Thừa Quang nguyên niên (577TL), Bắc Chu Vũ Đế đánh thắng Tề, phá hủy Phật pháp, ngài Huệ Viễn chống lại Vũ Đế. Sau đó, ngài ẩn tu ở Tây Sơn, quận Hấp (huyện Hấp, tỉnh Hà Nam), đến nhà Tùy thống nhất thiên hạ, vua mời ngài vào Trường An, xây dựng chùa Tịnh Ảnh và mời ngài trụ trì chùa này. Từ đó, ngài bắt tay vào việc giảng dạy. Vào tháng 6 niên hiệu Khai Hoàng thứ 12 (592TL) ngài thị tịch, hưởng thọ 70 tuổi. Đương thời gọi ngài là pháp sư Tịnh Ảnh. Ngài trứ tác được mấy mươi bộ, trong đó có bộ Vô Lượng Thọ kinh nghĩa sớ 2 quyển, Quán Vô Lượng Thọ kinh ký 1 quyển, Đại niết-bàn kinh nghĩa ký 20 quyển, Duy-ma kinh nghĩa ký 8 quyển, Thập địa kinh luận nghĩa ký 10 quyển (hiện không còn đủ), Đại thừa khởi tín luận sớ 2 quyển, Đại thừa nghĩa chương 20 quyển v.v…nay đều được lưu truyền ở đời.
Vì ngài Huệ Viễn truyền thừa pháp thống của ngài Pháp Thượng, thuộc giáo hệ của phái Địa Luận ở phương Nam, lập giáo phán của bốn tông, tuyên dương giáo nghĩa duyên khởi Như Lai tạng, nổi tiếng thời bấy giờ. Như đoạn văn trước đã nói, ngài Pháp Thượng sùng tín Di-lặc, dựng Di-lặc đường ở Tây Sơn, Nghiệp Đô và siêng năng lễ bái, ngài Huệ Viễn do nhận sự cảm hóa của ngài nên cũng sùng tín Di-lặc . Như Linh Cán truyện trong Tục cao tăng truyện quyển 12, tương truyền ngài Huệ Viễn sinh lên cõi trời Đâu-suất, như vậy thì ngài Huệ Viễn chẳng phải người nguyện sinh Tây phương. Nhưng thấy ngài có giải thích văn nghĩa kinh Vô Lượng Thọ và Quán kinh sớ, vả lại trong Đại thừa nghĩa chương, có một chương Tịnh độ nghĩa luận thuật tỉ mỉ về chủng loại sai biệt của tịnh độ. Điều này cho chúng ta biết là ngài quan tâm đến Tịnh Độ rất mật thiết. Kinh Vô Lượng Thọ, đương thời đã có nhiều nhà giảng thuyết nhưng chưa có ai thử làm chú sớ. Do đón chúng ta có thể biết sớ của ngài Huệ Viễn là tác phẩm giải thích kinh Vô Lượng Thọ xuất hiện sớm nhất ở Trung Quốc, sự giải thích nghĩa lý của ngài được các học giả đương thời coi trọng. Các ngài Cát Tạng, Ca Tài, Thiện Đạo đều có nghiên cứu và phê phán học thuyết của ngài, đặc biệt là Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh sớ của ngài Trí Khải trứ tác đều có sao chép Quán kinh sớ của ngài. Chúng ta có thể thấy được giá trị của các sách vở do ngài trứ tác thời bấy giờ.
Tiết 2: Phân loại Tịnh Độ
Tịnh độ là thuyết được thịnh hành trong các kinh Đại thừa. Nhưng các kinh trình bày có khác nhau về quốc độ trang nghiêm và bậc thánh cư trú ở đó. Ngài Huệ Viễn nghiên cứu tường tận các nghĩa này, phân biệt tịnh độ có ba loại để luận phán cao thấp, tốt xấu. Đây là khởi nguyên của lý luận phân loại tịnh độ ở Trung Quốc. Tịnh độ được phân làm ba loại sai biệt:
1. Sự tịnh độ
2. Tướng tịnh độ
3. Chân tịnh độ.
Chỗ cư trú của phàm phu là Sự tịnh độ; chỗ cư trú của hàng nhị thừa và hóa tha độ của bồ-tát là Tướng tịnh độ; cõi cư trú của bậc Sơ địa trở lên cho đến chư Phật là Chân tịnh độ.
A. Sự tịnh độ là cõi do tịnh nghiệp hữu lậu của phàm phu cảm mà được; các thứ báu nghiêm sức, sự tướng tốt đẹp, gọi là Sự tịnh độ. Cõi này là do lúc phàm phu tu nhân, tâm có hạn cuộc cho nên khi thụ báo, cõi có phần hạn. Lại nữa, tâm họ chấp chặt lấy tướng, nên quốc độ trang nghiêm các tướng đều cố định. Nhưng có hai loại sai biệt:
1. Tịnh độ do phàm phu tu tịnh nghiệp song còn chấp có mà cảm được, như chỗ cư trú của chư thiên v.v…đây là cầu sự cảm ứng của thiện nghiệp mà chấp có, nên khi thụ dụng, còn sinh phiền não, kết nghiệp trong ba cõi, không phát sinh đạo xuất thế.
2. Tịnh độ do phàm phu tu tịnh nghiệp xuất thế mà cảm được như cõi An Lạc, thế giới Chúng Hương, đều từ thiện nghiệp xuất thế mà được, cho nên khi thụ dụng có thể phát sinh đạo xuất thế.
Cõi trời được đề cập đến ở đây, nếu chủ yếu là chỉ cho cõi trời Đâu-suất-đà thì hai loại cõi này có thể nói là sự so sánh giữa Đâu-suất với Cực Lạc.
B. Tướng tịnh độ là cảnh giới của hàng nhị thừa và bồ-tát tu tập duyên quán đối trị vô lậu mà được; diệu tướng trang nghiêm, ly cấu thanh tịnh cho nên gọi Tướng tịnh độ. Cõi tuy thanh tịnh nhưng do vọng thức khởi như cảnh thấy trong mộng, giả dối không thật, chỉ theo tướng ly cấu thanh tịnh ấy mà gọi là tướng tịnh. Cõi này là do lúc nhị thừa và bồ-tát tu nhân, tâm không hạn cuộc cho nên khi thụ báo, cõi không có phần hạn. Lại nữa, khi tu, tâm không cố chấp, cảnh giới sở đắc cũng tùy tâm chuyển mà không có tướng cố định. Cõi này cũng có hai loại sai biệt:
1. Cõi do thiện căn của nhị thừa tự lợi mà được, hư tịch vô hình, như cõi Vô Sắc. Luận Đại trí độ ghi: “Có cõi thanh tịnh vi diệu vượt qua ba cõi, hàng A-la-hán sinh vào đó để nghe kinh Pháp hoa”, tức là việc này. Cõi này tức là do thiện căn tự lợi mà được, cho nên khi thụ dụng chỉ sinh tự lợi, chán bỏ thiện căn, không thể tự nhiên phát sinh nguyện từ bi, hạnh lợi tha. Giả sử có người sinh khởi hạnh lợi tha là nhờ năng lực của Phật và bồ-tát giáo hóa, chẳng phải là năng lực của cảnh giới mà chính họ đã thụ hưởng.
2. Cõi do thiện căn hóa tha của các bồ-tát mà được, không bỏ chúng sinh, tùy vật thụ dụng, như trượng thất của ngài Duy-ma-cật, vì từ thiện căn hóa tha mà phát sinh nên khi thụ dụng tự nhiên có thể phát khởi hạnh thiện lợi tha.
Lại nữa, hai cõi này đều có hai loại là cõi tương tục trụ trì và cõi tạm hiện. Cõi tương tục trụ trì là cõi không phải biến hiện nhất thời, mà luôn luôn hiện hữu; cõi tạm hiện là cõi tùy theo căn cơ tạm thời biến hiện.
C. Chân tịnh độ là cõi mà bồ-tát Sơ địa trở lên cho đến chư Phật cư trú. Vì cõi này do thiện căn của chư Phật và bồ-tát đã thật chứng mà được; thật tính duyên khởi, vi diệu thanh tịnh, lìa sự cấu nhiễm, thường hằng bất biến cho nên gọi là Chân tịnh. Lúc tu nhân, tâm các Ngài không duyên niệm, nên cõi không duyên niệm; cõi không có tướng trạng tức là cõi vi diệu vô tướng. Lại nữa, tâm các Ngài không có cố chấp, không có phân biệt cho nên cõi không có nơi chốn cố định, không có sai khác kia đây, tự tha. Căn cứ theo vọng mà nói thì có thể chia làm hai loại: Ly vọng chân và Thuần tịnh chân. Cõi Ly vọng là cõi của bồ-tát từ Sơ địa cho đến Thập địa cư trú, cõi này còn hợp với vọng, chưa hoàn toàn lìa vọng, tùy theo giai vị cao thấp, tốt xấu không đồng, như sương móc tan dần thì hư không hiện ra, địa địa ly vọng, cõi vọng từng phần diệt dần, cõi chân dần dần tăng lên. Cái thấy của hàng bồ-tát Nhị địa thù thắng hơn hàng bồ-tát Sơ địa, cho đến cái thấy của hàng bồ-tát Thập địa thù thắng hơn hàng bồ-tát Cửu địa, sự tốt xấu sai biệt tự nhiên sinh, cho nên gọi là cõi ly vọng. Cõi thuần tịnh chỉ có Đức Phật cư trú, thuần chân không tạp như hư không trong sạch, cõi nước thanh tịnh.
Chân tịnh độ của Phật lại có thể chia hai loại: Chân độ và Ứng độ; hoặc ba loại: Pháp tính, Thật báo, Viên ứng. Trước nói về hai độ Chân và Ứng: chỗ tự thân của Phật cư trú là Chân độ, tùy theo các căn cơ thị hiện thì gọi là Ứng độ. Chân độ tức cõi pháp môn bình đẳng, hình tướng chẳng cố định ở một chỗ nào mà không chỗ nào không có, diệu tịch ly tướng, giống như hư không, vốn là tính duyên khởi tác dụng, ứng hóa nhờ đó mà hiện, vạn vật y theo đó mà sinh, diệu tịch ly tướng này đầy đủ các nghĩa kể trên, gọi là Chân độ. Ứng độ thì tùy theo tâm mà thị hiện, có nơi chốn, có phần hạn nhất định, có sự khu biệt giữa thiện ác, nhiễm tịnh, có sự sai khác của các tướng trang nghiêm. Bởi trong Chân tịnh độ của chư Phật có phân biệt hai độ Chân và Ứng là tùy theo nhân hạnh của nó mà có hai thứ: trí và bi. Trí nương nơi không mà thành, dùng trí để nhiếp hạnh thì hạnh đều ly tướng nên cõi sở đắc là Chân độ diệu tịch ly tướng. Bi tùy nơi hữu mà sinh, dùng bi nhiếp hạnh, hạnh đều là vì chúng sinh cho nên cõi sở đắc là Ứng độ tùy cơ mà thị hiện có khác.
Kế đến nói về ba độ:
1. Pháp tính độ: Bản tính của độ, các nghĩa đồng một thể, hư dung vô ngại, chúng sinh do vọng tưởng mà tự cách ngại, Nếu khi thành Phật, vọng tưởng ngưng dứt, thật tính của cõi kia tự nhiên hiển hiện, thành tựu dụng tự tại, vì hiển hiện thật tính của nó nên gọi là Pháp tính độ.
2. Thật báo độ: Bồ-tát ở nhân vị rộng tu tịnh nghiệp vô tận pháp giới, do lực huân phát của tịnh nghiệp này nên khi hiển bày Pháp tính độ, ở chỗ pháp giới vô biên tịnh kia, khởi vô lượng sự tướng trang nghiêm thì gọi là Thật báo độ. Pháp tính độ như tự thể của vàng, Thật báo độ như những kỹ xảo khắc chạm trên vàng.
3. Viên ứng độ: Hai chân độ trước giống như tịnh châu, có thể tùy theo chúng sinh mà hiện đủ các loại khác nhau, dụng không khiếm khuyết nên gọi là Viên ứng độ.
Trong ba độ này, hai độ Pháp tính và Thật báo phát xuất từ Chân độ của hai độ Chân và Ứng ở trước; Viên ứng độ tức Ứng độ kia thì ba độ này và hai độ Chân, Ứng chẳng qua là khai hợp khác nhau. Nay đặc biệt thiết lập sự phân loại này để nói về sở y của ba thân mà thôi. Pháp tính độ là sở y của Pháp tính thân, Thật báo độ là sở y của Báo thân, Viên ứng độ là sở y của Ứng hóa thân.
Luận về nhân của ba độ: Pháp tính vô thỉ là nhân của Pháp tính độ, hạnh lục độ v.v… là nhân của Thật báo độ. Trong đó có phân biệt chính nhân và duyên nhân. Pháp tính độ lấy pháp tính vô thỉ làm chính nhân, hạnh lục độ v.v… là duyên nhân. Thật báo độ lấy lục độ v.v… làm chính nhân, Pháp tính vô thỉ làm duyên nhân. Pháp tính độ là sự hiển hiện của pháp thể vốn sẵn có, tuy có sự khác nhau về nhân ẩn và quả hiển, nhưng thể của nó hoàn toàn chẳng có tăng giảm, cho nên lấy Pháp tính vô thỉ làm chính nhân. Thật báo độ vốn chẳng có pháp thể, nhưng ở trên pháp tính có nghĩa duyên khởi có thể sinh (gặp duyên liền sinh), lấy hạnh của lục độ v.v… huân phát các thứ sự tướng trang nghiêm mà thôi, tức là lấy hạnh lục độ làm chính nhân. Nhân của Viên ứng độ có và không bất định, nếu nhiếp dụng từ thể thì không còn có nhân riêng, như bóng theo hình mà có, Ứng độ chẳng qua là ảnh của Chân độ, lìa Chân độ ra thì không có nhân riêng của Ứng độ. Nếu phân biệt thể và dụng thì Ứng độ cũng có nhân đồng loại và dị loại. Nhân đồng loại cũng dùng hạnh của Ứng độ để làm nhân của Ứng độ. Chư Phật Như Lai đắc Chân độ đã lâu, hiện tu các hạnh để trang nghiêm cõi Phật, như Phật A-di-đà hiện đang tu bốn mươi tám nguyện và các sở hành để trang nghiêm thế giới Tây phương Cực Lạc. Nhân dị loại là lấy việc thực hành hạnh của Chân độ làm nhân của Ứng độ. Lại nữa, Ứng độ này có hai loại là Pháp ứng độ và Báo ứng độ:
1. Pháp ứng độ do pháp môn tam-muội của tịnh độ nên hiện các loại tịnh độ.
2. Báo ứng độ vì nhân duyên của sức bản nguyện đại bi mà hiện các loại tịnh độ. Như trong Đại thừa nghĩa chương quyển 19 có nói đầy đủ.
Tóm lại, luận điểm về tịnh độ của ngài Huệ Viễn, do nghiệp nhân bất đồng, nên quốc độ sở cảm cũng có tốt xấu sai biệt, nghĩa là do tịnh nghiệp hữu lậu của phàm phu sở cảm nên thành Sự tịnh độ, do nhị thừa và tịnh nghiệp vô lậu của hàng nhị thừa và bồ-tát duyên quán đối trị sở cảm nên thành Tướng tịnh độ; do thiện căn thật chứng của bồ-tát và Phật sở đắc nên thành Chân tịnh độ. Nhưng Chân tịnh độ của Phật sở đắc lại có chia ra thành hai độ Chân, Ứng và ba độ Pháp tính, Thật báo, Viên ứng. Đây chủ yếu là dựa vào ý nghĩa “Tâm tịnh, độ tịnh” được nói trong kinh Duy-ma và còn dựa vào thuyết của Thập địa kinh luận và Nhiếp đại thừa luận v.v… Luận điểm về tịnh độ này có thể nói là hết sức uyển chuyển. Ngài Huệ Viễn đã lập tịnh độ này có nhiều loại khác biệt, vì mỗi loại đều do nghiệp sở cảm thì chư Phật và chúng sinh đều có chung một tịnh độ. Ngài La-thập cho rằng chúng sinh không có tịnh độ, chỉ Phật mới có; ngài Đạo Sinh cho rằng chư Phật không có tịnh độ, chỉ chúng sinh mới có, tất cả đều chấp một bên, chưa nói hết lý. Lại nữa, ngài Huệ Viễn nói Chân tịnh độ của Phật có hai độ Chân, Ứng và ba độ Pháp tính v.v… để nói nghĩa tương quan giữa Phật thân và Phật độ, mới nói được nghĩa lý ấy. Ở Ấn Độ đến Phật địa kinh luận của Thân Quang, mới đề xướng thuyết bốn thân, bốn độ. Thuyết này không liên quan với luận điểm này, mà ở Trung Quốc thì đề xướng luận điểm về sự tương quan giữa thân và độ, có thể nói đây là do công của ngài Huệ Viễn, kiến thức sâu rộng của ngài đáng được khen ngợi, nhưng trong đó, ngay cả các cõi trời Dục, Sắc cũng gọi tịnh độ, hoặc là do họ nguyện sinh lên Đâu-suất. Nhưng gọi các cõi trời là tịnh độ thì chưa thấy ghi trong các kinh luận. Lại nữa, lập tịnh độ hóa tha của các bồ-tát là Tướng tịnh độ, lấy đây phối hợp với trượng thất của ngài Duy-ma cũng không tránh khỏi sự xuyên tạc.
Tiết 3. Phán định về tịnh độ Di-đà
Ngài Huệ Viễn cho rằng tịnh độ Di-đà là cõi do nghiệp hữu lậu của phàm phu sở cảm mà thành, cho nên cõi ấy thuộc Sự tịnh độ. Lại nữa, căn cứ vào Phật mà nói thì là cõi do ứng nhân mà thành nên gọi là Ứng độ. Điều này được trình bày trong phần Tịnh độ nghĩa của Đại thừa nghĩa chương. Trong Quán kinh sớ của ngài cũng nói tịnh độ có thô và diệu khác nhau, cõi thô là cõi có cả hạng phàm phu phần đoạn sinh tử vãng sinh, cõi diệu là chỉ cho cõi của hàng thánh nhân biến dịch sinh tử cư trú. Lại nữa, cõi Phật A-di-đà được nói trong Quán kinh chính là cõi thô của tịnh độ, Đức Phật A-di-đà còn có cõi diệu, nhưng theo kinh này nói, nên mới phán định tịnh độ Di-đà là cõi thô của Sự tịnh độ.
Lại nữa, Quán kinh sớ lấy Phật A-di-đà ở Tây phương làm Ứng thân Phật, nghĩa là chân thân thì thọ mạng thường trụ, không có diệt độ. Thọ mạng của ứng thân không có nhất định, hoặc ngắn, hoặc dài. Nay thọ lượng của Di-đà rất dài, hàng phàm phu, nhị thừa không thể lường được, cho nên gọi Phật Vô Lượng Thọ. Kinh Quán Thế Âm thụ ký có ghi: “Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, bồ-tát Quán Thế Âm và bồ-tát Đại Thế Chí kế tiếp nhau bổ xứ thành Phật”. Như vậy thì chúng ta có thể biết thọ mạng của Ngài có hạn. Thọ lượng đã có hạn thì thân Ngài chắc chắn là Ứng thân. Vì thế, Huệ Viễn nói Phật Di-đà là Ứng thân, quốc độ của Ngài là Ứng độ, nhưng Ứng thân vốn phát khởi từ Chân thân, như vậy ngoài Ứng thân, Ứng độ này ra thì nhất định Phật A-di-đà có một Chân thân, Chân độ khác. Phần Tịnh Độ nghĩa trong Đại thừa nghĩa chương có ghi: “Phật A-di-đà đã đắc Chân độ từ lâu”; lại nữa, Quán kinh sớ nói: “Còn có cõi diệu”, kinh này không nói nhưng trong kinh Hoa nghiêm thì có nói rõ nghĩa này. Đây chính là chỉ cho Chân độ của Ngài, nhưng vì chúng sinh cho nên lấy tịnh độ Tây phương trang nghiêm làm Ứng độ. Thuyết của ngài Huệ Viễn có thể nói là thông nghĩa của cả hai môn Bản và Tích.
Tiết 4: Nhân sinh về tịnh độ và giai vị của chín phẩm vãng sinh
Liên quan nhân sinh về Tịnh Độ, trong Quán kinh sớ của ngài Huệ Viễn, đầu tiên ngài liệt kê thuyết của các kinh Bát-nhã, Niết-bàn, Duy-ma và Vãng sinh luận. Trong kinh Bát-nhã lấy tu tập không huệ để diệt trừ tội chướng, muốn sinh Tịnh Độ liền được vãng sinh; kinh Niết-bàn lấy nhân duyên tu giới, tu thí, tu huệ và hộ pháp để làm nhân cầu vãng sinh tịnh độ; kinh Duy-ma cho rằng nếu người đầy đủ tám pháp lợi ích chúng sinh v.v… thì được vãng sinh tịnh độ; Vãng sinh luận có nói tu ngũ niệm môn: lễ bái v.v… có thể vãng sinh tịnh độ, còn nói đến bốn pháp: tu quán vãng sinh, tu nghiệp vãng sinh, tu tâm vãng sinh và qui hướng vãng sinh. Bởi vì theo ngài Huệ Viễn thì nghiệp tịnh độ đã nói trong Quán kinh, tổng quát được chia thành hai loại: định thiện, tán thiện. Y theo định quán thì gọi là định thiện; tán tâm hành thiện thì gọi là tán thiện. Trong đó, tu quán vãng sinh thuộc về định thiện; ba loại tu nghiệp, tu tâm và quy hướng thuộc về tán thiện. Người tu quán vãng sinh là tu mười sáu pháp quán: Nhật tưởng quán v.v…để cầu vãng sinh tịnh độ. Đây chính là pháp trọng yếu của bộ Quán kinh.
Nhưng trong mười sáu pháp quán thì mười ba pháp quán trước thuộc về pháp quán định thiện, ba pháp quán sau nói về tướng trạng của người vãng sinh có chín phẩm, liệt kê các hạnh tán thiện, cho nên nếu dựa vào các hạnh của chín phẩm mà nói, thì gọi là tán thiện. Nhưng ngài Huệ Viễn gọi ba phẩm này là “Tha sinh quán”, tức là pháp quán quán tướng chín phẩm vãng sinh của người khác; như vậy có thể thấy tất cả mười sáu pháp quán đều thuộc về định thiện. Kế đó, tu tịnh nghiệp vãng sinh, nếu phân theo thứ tự để nói về người vãng sinh thì nhờ tu ba phúc nghiệp: thế phúc, giới phúc, hạnh phúc mà được vãng sinh, tức là hạnh của sáu phẩm thượng, trung trong chín phẩm. Người tu tâm vãng sinh là tu ba tâm: chí thành tâm, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm mà được vãng sinh. Đây là chỗ mà người cầu vãng sinh ba phẩm thượng phải phát tâm tu. Quy hướng vãng sinh là tự mình siêng thực hành, từ chỗ thiện tri thức được nghe danh tự Phật, Pháp, Tăng, tán thán công đức của Phật A-di-đà, Quán Âm, Thế Chí và sự vui vi diệu của cõi Phật ấy, rồi nhất tâm quy hướng, hoặc tụng niệm, hoặc lễ bái, hoặc tán thán, hoặc xưng danh hiệu Ngài mà được vãng sinh, đây là sinh nhân của ba phẩm bậc hạ và hạ phẩm của bậc trung. Tóm lại, căn cứ pháp tướng thông thường thì quả của tịnh độ đều do tự nghiệp của chúng sinh mà cảm được, không nói về việc nguyện lực cứu tế v.v…
Lại nữa, ngài Huệ Viễn đem căn cơ của người vãng sinh chín phẩm để phân loại, ba hạng người sinh thượng phẩm là căn cơ Đại thừa, ba hạng người sinh trung phẩm là căn cơ Tiểu thừa, ba hạng người sinh hạ phẩm là căn cơ mới học Đại thừa, mỗi mỗi đều có phân biệt giai vị của các hạng người này. Ba hạng người sinh thượng phẩm: hạng người thượng phẩm thượng sinh là bồ-tát Thuận nhẫn ở Tứ địa, Ngũ địa và Lục địa; hạng người thượng phẩm trung sinh là bồ-tát Tín nhẫn ở Sơ địa, Nhị địa và Tam địa; hạng người thượng phẩm hạ sinh là bồ-tát Phục nhẫn ở bậc tam hiền trước thập địa. Đây là hội thông thượng phẩm thượng sinh trong Quán kinh, người ấy sinh về cõi nước kia tức thời đắc Vô sinh pháp nhẫn, và theo thuyết Ngũ nhẫn của kinh Nhân vương bát-nhã mà giải thích. Kinh Nhân vương bát-nhã nói giai vị của bồ-tát: giai vị tam hiền gồm Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng là Phục nhẫn; bồ-tát Sơ địa, Nhị địa và Tam địa là Tín nhẫn; bồ-tát Tứ địa, Ngũ địa và Lục địa là Thuận nhẫn; bồ-tát Thất địa, Bát địa và Cửu địa là Vô sinh pháp nhẫn; Thập địa và Như Lai địa là Tịch diệt nhẫn. Căn cứ thuyết này thì Vô sinh pháp nhẫn chính là giai vị của bồ-tát từ Thất địa trở lên đắc được. Sinh về cõi Cực Lạc liền đắc Vô sinh pháp nhẫn thì người ấy chắc chắn là bồ-tát Thuận nhẫn ở Tứ địa, Ngũ địa và Lục địa. Nhưng trong đây chưa chắc là tức thời đắc Vô sinh pháp nhẫn, có thể phải trải qua thời gian dài mới đắc, kinh này chính là chỉ cho người thượng căn nên nói là tức thời. Thượng phẩm trung sinh là bồ-tát Tín nhẫn ở Sơ địa, Nhị địa và Tam địa, kinh nói người thượng phẩm trung sinh sinh về nước Cực Lạc, trải qua một tiểu kiếp thì đắc Vô sinh pháp nhẫn, họ đắc nhẫn ở sau thượng phẩm thượng sinh. Nhưng trong đây cũng có người trải qua hai, ba tiểu kiếp mới đắc Vô sinh pháp nhẫn, cho nên theo người thù thắng mà nói là một tiểu kiếp. Thượng phẩm hạ sinh là bồ-tát Phục nhẫn ở bậc tam hiền trước thập địa, kinh nói người thượng phẩm hạ sinh trải qua ba tiểu kiếp mới đắc Bách pháp minh môn, trụ Hoan hỉ địa.
Ba hạng người sinh trung phẩm: Trung phẩm thượng sinh là bậc thánh ba quả trước của Thanh văn; trung phẩm trung sinh là hàng nội phàm, ngoại phàm kiến đạo trở về trước; trung phẩm hạ sinh là hạng thế tục phàm phu. Bậc thánh ba quả trước thuộc trung phẩm thượng sinh, kinh nói hạng người này sinh nước kia tức thời đắc A-la-hán; trung phẩm trung sinh là hàng nội phàm, ngoại phàm kiến đạo trở về trước, kinh nói hạng người này sinh nước kia bảy ngày đắc Tu-đà-hoàn, trải qua nửa kiếp thì đắc A-la-hán; thế tục phàm phu của trung phẩm hạ sinh, kinh nói hạng người này sinh nước kia trải qua một kiếp đắc A-la-hán, thời gian kiếp số đắc quả của họ lâu hơn trung phẩm trung sinh. Các phẩm này cũng đều trải qua nhiều kiếp số, trong kinh nói đó là theo sự tối thắng của họ.
Ba hạng người sinh hạ phẩm, quá khứ hạng người này từng thực hành Đại thừa, nhưng vẫn là phàm phu, không chứng đắc giai vị tu đạo. Bởi vì sự nặng nhẹ của tội đã tạo mà lập thượng, trung, hạ. Nói như thế thì ngài Huệ Viễn chuyên lấy quả vị sau khi vãng sinh làm tiêu chuẩn, định ra giai vị của người được vãng sinh chín phẩm. Theo thuyết Ngũ nhẫn trong kinh Nhân vương bát-nhã có ghi, lấy Vô sinh pháp nhẫn làm giai vị sở đắc, của bồ-tát địa thứ bảy trở lên, giai vị được phán định rất cao, tuy người ba phẩm hạ ở quá khứ cũng đã từng tu hành Đại thừa. Luận điểm này của ngài Huệ Viễn về sau bị Ngài Ca Tài, Thiện Đạo đả phá, vả lại giáo nghĩa của chính ngài cũng tự mâu thuẫn với nhau. Vì sao? Vì ngài Huệ Viễn nói bồ-tát Sơ địa trở lên nhập Chân tịnh độ, thấy Chân thân của Phật, vậy thì bồ-tát Tứ địa, Ngũ địa, Lục địa của thượng phẩm thượng sinh, bồ-tát Sơ địa, Nhị địa, Tam địa của thượng phẩm trung sinh, tịnh độ của họ sinh đương nhiên là Chân tịnh độ. Nhưng ngài Huệ Viễn đã phán định tịnh độ được nêu trong Quán kinh là cõi thô của Sự tịnh độ, rõ ràng là mâu thuẫn. Chín phẩm vãng sinh mà ngài Huệ Viễn gọi là ‘Tha sinh quán’ chẳng qua chỉ là đối tượng sở quán của người định thiện, nhưng ngoài tu quán vãng sinh nêu thêm tu nghiệp cho đến quy hướng vãng sinh, thật ra ngài Huệ Viễn cho rằng cũng có người tu tán thiện chín phẩm mà được vãng sinh tịnh độ. Nếu như vậy thì ngài Ca Tài v.v… nói tịnh độ Di-đà thông cả Báo độ và Hóa độ hình như thỏa đáng hơn.