Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tiết 1: Bồ tát Vô Trước

05/01/201202:25(Xem: 5035)
Tiết 1: Bồ tát Vô Trước

LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ

Pháp sư Thánh Nghiêm- Thích Tâm Trídịch

---o0o---

CHƯƠNG X
PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA HỆ VÔ TRƯỚC

TIẾT I. BỒ TÁT VÔ TRƯỚC

Ở chương trước có đề cập đến kinh điển của thời trung kỳ Đại thừa là do yêu cầu thời đại, vào có người cho là nó được thành lập vào thời gian từ năm hai trăm đến năm bốn trăm sau Công nguyên, hơn nữa, kinh Đại Niết Bàn, kinh Đại Pháp Cổ đều lưu hành ở nam Ấn Độ; kinh Lăng Già thì lấy bờ biển phái nam Ấn Độ làm địa điểm thuyết pháp. Nhân đấy, có thể nói các kinh điển này với kinh Bát Nhã đều được thành lập tại nam Ấn Độ. Nhưng tư tưởng trong những kinh này cùng với kinh Đại thừa cũng thuộc nam Ấn Độ ở thời kỳ trước đó có chỗ trái nghịch nhau; đấy là sự thực.

Khảo sát sâu hơn thì thấy kinh Thắng Man lấy A Du Đà (Ayodhyà) ở vùng trung Ấn Độ làm trung tâm, trong khi ngài Vô Trước và Thế Thân lại xuất thân ở bắc Ấn Độ. Đặc biệt là ngài Vô Trước, ngài không lấy A Du Đà làm trung tâm để phát triển Đại thừa Duy Thức. A Du Đà là vùng đất mà vương triều Cấp Đa nhắm đến để dời đô về đây vào cuối thế kỷ thứ IV tây lịch. Do đó, có người lấy nơi đây làm địa bàn phát triển kinh điển Đại thừa ở thời trung kỳ, có khả năng kinh điển Đại thừa thời trung kỳ là sản vật văn hóa của vương triều Cấp Đa (từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ VI tây lịch).

Bất luận thế nào, đương thời ngài Long Thọ tổ chức hoàn bị Đại thừa Phật giáo, đặc sắc là việc ngài phá Tiểu thừa để phát huy tính ưu việt của Đại thừa; đến ngài Vô Trước, về phương diện giáo lý, ngài khai triển đến trước cả thời của Long Thọ, đồng thời ngài cũng gom lấy những giáo lý rời rạc của Tiểu thừa Hữu Bộ làm cơ sở, cho nên lúc xác lập Đại thừa Phật giáo thì ngài gồm luôn Tiểu thừa để thống hiệp vào Đại thừa .

Thời ngài tam tạng Nghĩa Tịnh lưu học tại Ấn Độ, ông có viết trong bộ “Nam Hải Ký Qui Nội Pháp Truyện”(1)rằng “gọi là Đại thừa thì không ngoài hai thứ loại, một là Trung - Quán, hai là Du Già.

Trung Quán thì tục hữu chơn không. Thể hư như huyễn, Du Già thì ngoại vô nội hữu, mọi việc đều là Duy Thức”. Trung Quán thịnh hành ở đông nam Ấn Độ, còn Du Già thì thịnh hành ở trung bắc Ấn Độ, kết quả này là do hoàn cảnh và thời đại trợ lực mà thành.

Vì sao cho rằng Đại thừa duy thức là “Du Già”? Đó là do hoàn cảnh và thời đại giữa Du Già và Duy thức có liên quan với nhau. Phàm hễ ai khéo tu chỉ quán thì người đó khế nhập Du Già, gọi là Du già Sư; làm nơi y trú cho Du Già sư, thì gọi là Du Già Sư Địa, tức là ngài An Thế Cao dịch các bộ “Tu Hành Kinh”, “Đại Đạo Địa Kinh”, “Đại Đạo Địa Kinh”, ngài Giác Hiền dịch bộ “Tu Hành Phương Tiện”, những cách dịch khác nhau này đều liên hệ đến Du già Sư Địa của Phạn ngữ.

Như vậy, Du già sư là chỉ cho thiền sư, và đa phần cảnh giưói của thiền sư là nội chứng. Do đó, từ thiền mà xuất giáo đó là sự thực, sự xuất giáo của thiền vồn là từ kinh nghiệm nội chứng mà lập thuyết. Học giả Tiểu thừa của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ đặc biệt đi sâu vào thiền. Buổi đầu thiền được truyền đến Trung Quốc có rất ít người học, và cũng được truyền vào Trung Quốc từ hệ học giả của vùng bắc Ấn Độ là chính. Giáo nghĩa của thiền phần nhiều phát xuất từ các học giả Du Già. Vị đại sư phát khởi việc chỉnh lý, tổ chức giáo thuyết Du Già là ngài Di Lặc, theo sự khảo chứng của các giả cận đại thì vị thế ngài Di Lặc là nhân vật lịch sử đứng hàng thứ hai trong số các học giả của Tát Bà Đa Bộ (Nhất Thiết Hữu).

- Di Lặc và Vô Trước.

Ngài Di Lặc (Maitreya Từ Thị). Chương tám, tiết một và ba, sách này có lược dẫn về Di Lặc. Ngài là vị Bồ Tát “nhất sinh bổ xứ” (lần sinh sau rốt) hiện đang ở tại nội viện của cung trời Đâu Suất, và trong tương lai sẽ thành Phật ở cõi nhân gian này.

Theo bản dịch “Bà Tẩu Bàn Đậu Pháp Sư Truyện” của Chơn Đế(2), thì ba anh em ngài Vô Trước (Asanga) sinh tại nước Phú Lâu Sa Phú La (Purusa - Pura - nay là Bạch Hạ Ngõa) ở bắc Ấn Độ, trong một gia đình theo Bà La Môn giáo. Anh trưởng là ngài Vô Trước, kế đó là ngài Thế Thân (Vasubandhu), và thứ ba là ngài Tỉ Lân Trì Bạt Bà, cả ba anh em đều xuất gia với Hữu Bộ. Sau đó ngài Vô Trước đi đến Mục Tỳ Đề Ha (Videha) và chịu sự giáo hóa của La hán Tần Đầu La, và chứng đắc “không quán” của Tiểu thừa. Nhưng Vô Trước chưa thỏa ý bèn vận thần thông lên cung trời Đâu Suất hướng về Bồ Tát Di Lặc mà thọ giáo Đại thừa không quán, và Đại thừa kinh nghĩa, tiếp theo ông mời thỉnh Bồ Tát Di Lặc xuống cõi nhân gian thuyết pháp. Nhân đây, hiện còn truyền Di Lặc là người tạo các bộ luận thư trọng yếu sau:

1. Du Già Sư Địa Luận - một trăm quyển, được Huyền Trang dịch ra Hán văn, Tây Tạng chỉ dịch một bộ phận và cho rằng luận là do Vô Trước tạo.

2. Đại thừa Trang Nghiêm Luận Tụng - một quyển, được Ba La Phủ Mật Đa La dịch ra Hán văn. Bản Phạn văn và bản dịch Tây Tạng văn hiện vẫn còn.

3. Biện Trung Biên Luận Tụng - một quyển. Trung Quốc có hai dịch bản, một của Chơn Đế, một của Huyền Trang. Bản Phạn văn và bản Tạng văn hiện còn.

4. Hiện Quán Trang Nghiêm Luận Tụng, bản Phạn văn hiện còn. Trung Quốc chưa dịch bộ này.

5. Năng Đoạn Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật ĐA Kinh Luận Tụng - một quyển, Hán dịch có hai bản. Một của Bồ Đề Lưu Chi, một của Nghĩa Tịnh.

Như vậy, theo Vũ Tỉnh Bá Thọ người Nhật Bản thừa nhận, thì Di Lặc là nhân vật lịch sử(3), và pháp sư Ấn Thuận của Trung Quốc tán thành thuyết này. Nhưng cho rằng Di Lặc là một học giả lớn của Tát Bà Đa Bộ(4). Còn Mộc Thôn Thái Hiền chủ trương, nếu thừa nhận Di Lặc là một vị luận sư xét về mặc lịch sử, thì cần có thêm sự nghiên cứu; tuy tạm thời ông đồng ý các tác phẩm trên là do Di Lặc tạo, nhưng đại khái cũng không loại trừ thuyết cho rằng là của Vô Trước tạo, như thế an toàn hơn(5).

Nếu dựa theo kinh nghiệm tôn giáo, và kinh nghiệm tín ngưỡng tôn giáo thì chúng ta có lý do để xác tín vị Bồ tát Di Lặc này tức là ngài Từ Thị ở Đâu Suất Thiên. Nhân vì những thấy biết trong định của Du già sư tuyệt nhiên không phải là cách nói ba hoa mang tính diễn tả của chúng ta. Khi ở trong định, Du già sư dùng thần thông để lên cõi trời thỉnh pháp, hoặc thỉnh ngài Di Lặc xuống nhân gian thuyết pháp, điều đó có thể xảy ra. Còn đứng ở góc độ lịch sử tư tưởng, thì Di Lặc biểu hiện thân phận mình thông qua cảnh trong định của Du già sư. Và ngài Vô Trước chẳng qua là vị Du già sư kiệt xuất đại biểu cho những vị Du già sư mà thôi. Trong “Bà Tẩu Bàn Đậu Pháp Sư Truyện” chép: “Vô Trước sau khi xuất gia với Tát Bà Đa Bộ, ông tu định và chứng đắc ly dục”. Như vậy, không có gì phải nghi, Vô Trước quả thực là vị Du già sư của Hữu bộ. Lại nói về đại chúng, “tuy tất cả cùng ở trong một giảng đường nghe pháp, duy chỉ có pháp sư Vô trước được thân căn Bồ Tát Di Lặc, những vị khác chỉ nghe từ xa, đêm đến được nghe Di Lặc thuyết pháp, ban ngày thì pháp sư Vô Trước giảng giải lại cho các vị khác nghe những điều ông nghe được từ Di Lặc”.

Nếu khảo chứng tư liệu về các nhân vật lịch sử, thì trong những vị tiền bối của Vô Trước chắc chắn là có một vị luận sư Di Lặc, với các lý do:

1. Vào thời đại Diêu Tần có một vị học giả Ấn Độ đến Trung Hoa, và được xưng tụng là La Thập tam tạng, ông vì Miệt Đế Lợi mà đến, đó là người thức nhất.

2. Trong “Đạo An Truyện” có các vị như: Di Đố Lô Đao Lợi, Di Lặc, Chúng Hộ, Bà Tu Mật, cả bốn vị này được xưng tụng là bốn đại sĩ.

3. Mục lục của “Tát Bà Đa Bộ Ký” có chép: Tổ ba mưôi lăm là Đề Bà, tổ thức bốn mươi hai là Ma Đế Lệ, tổ bốn mươi bốn là Bà Tu Bàn Đầu (Thế Thân).

4. Bàng hệ của “Truyền Đăng Lục” chép: tổ thứ mười là Ma Đế Lệ Pha La, tổ mười hai là Thế Thân. Trong đó bốn vị trước là Miệt Đế Lợi, Di Lặc, Ma Đế Lợi, Ma Đế Lệ Phu La, đều do cùng một chữ là Maitreya nhưng lại dịch khác nhau, điều đó cho thấy sau Đề Bà, trước Thế Thân chắc chắn có mộ vị tên là Di Lặc. Vị có tên Di Lặc này đương nhiên là một nhân vật trọng yếu trong số các luận thư của Di Lặc. Đương thời Di Lặc là một trong những Du già luận sư mà tư tưởng đại biểu cho toàn bộ luận thư của Di Lặc là tập hợp tất cả “thiền cảnh sở đắc” (chung đắc trong thiền định) của các Du già sư, chúng ta có thể thừa nhận là các luận thư nêu trên được truyền bởi Bồ Tát Di Lặc từ cung trời Đâu Suất. Còn người hoằng dương học thuyết của Di Lặc, đó là công đức lớn của Bồ Tát Vô Trước.

- Vô Trước và những trước thuật của ông.

Đại để, Di Lặc là nhân vật sống vào thời gian từ năm 270 đến năm 350 sau Công nguyên. Vô Trước sống vào khoảng từ 310 đến năm 390 sau Công nguyên. Lúc Vô Trước và Thế Thân hoằng dương đại pháp nhằm vào thời thịnh của vương triều Cấp Đa. Ước từ cuối năm Sa Mổ Đà La Cấp Đa (Samudra - gupta, năm 370-379 tây lịch), rồi trải qua đời vua Chiên Đà La Cấp Đa II (Candra - gupta II, 380-414 tây lịch). Cho đến khi vua Cưu Ma La Cấp Đa (Kumàra - gupta, 415-? tây lịch) kế vị, đây cũng là thời gian Pháp Hiển của Trung Quốc tây du học Phật, còn La Thập thì đông du Hoằng hóa, thời gian giữa hai vị không cách khoảng nhau là mấy.

Vô Trước ngoài việc truyền giảng những luận thư trứ danh của Di Lặc, ông còn là người tự mình tạo những bộ luận thư nổi tiếng như:

1. Luận Hiển Dương Thánh Giáo - một quyển, Huyền Trang dịch ra Hán văn.

2. Luận Nhiếp Đại Thừa - ba quyển, Hán dịch có ba bản; một của Chơn Đế, một của Huyền Trang, và một của Phật Đà Phiến Đa. Tây Tạng cũng có bản dịch bộ luận thư này.

3. Luận Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma Tập - bảy quyển, bản Hán dịch là của Huyền Trang, Tây Tạng cũng có bản dịch luận này.

4. Luận Kim Cang Bát Nhã Kinh - hai quyển, bản Hán dịch là của Đa Ma Cấp Đa, Tây Tạng cũng có bản dịch luận này.

5. Luận Thuận Trung - hai quyển, bản hán dịch là của Bát Nhã Lưu Chi.

6. Luận Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh - mười ba quyển, bản Hán dịch của Ba La Pha Mật Đa, luận này hiện còn bản Phạn văn là bản dịch Tạng văn. Ý thú trong ba luận đầu (một, hai, ba) chính diện là xiển dương phái Du già. Yù thú của luận thứ tư là dương cao kinh Kim Cang Bát Nhã. Còn bộ “Thuận Trung Luận” thì nói khái quát về Trung Luận, và bộ Đại Thừa Trang Nghiêm Kinh Luận đặt cơ sở trên luận Du Già Sư Địa của Di Lặc để giải thích Đại thừa Trang Nghiêm Kinh Luận Tụng, đây là bộ sách giảng thuyết những điều chủ yếu về Phật giáo Đại thừa.

- Thức A Lại Da.

Thức A Lại Da (Àlaya - Vijnõàna) là tư tưởng trung tâm từ Di Lặc đến Vô Trước, nay xin căn cứ những gì được nói trong luận Du Già Sư Địa để nêu ra năm áo nghĩa của thức A Lại Da.

1. Hoạt động của thức A Lại Da dựa vào hai nhân tố: một là “liễu biệt” tức tâm chấp thọ mang tính nội tại có phân biệt; hai là “liễu biệt” tức khí thế giới mang tính ngoại tại vô phân biệt. Thức A Lại Da duy trì hoạt động nội tại của thân tâm, và liễu biệt (sự nhận thức là do có phân biệt rõ đen trắng, dài ngắn, to nhỏ v.v...) hoạt động của thế giới ngoại tại.

2. Thức A Lại Da tương ưng với năm tâm sở biến hành là: tác ý, xúc, thọ, tưởng và tư.

3. Thức A Lại Da cùng với các pháp có quan hệ hỗ tương nhân quả: thức A Lại Da còn gọi là chủng tử thức, tức nó tàng chứa chủng tử và rồi từ chủng tử sinh khởi tất cả pháp, tất cả pháp là sự hiện hành của chủng tử, nên gọi là “chủng tử sinh hiện hành”. A Lại Da thức là nhân, các pháp hiện hành là quả, đấy là nhân quả đồng thời có tác dụng sinh khởi trong cùng một sát na. Sự hiện hành của các pháp lại huân tập (ảnh hưởng) trở lại thức A Lại Da, thành ra thức A Lại Da là nơi tích tụ của chủng tử, do vậy nên gọi là “hiện hành sinh chủng tử”. Tác dụng trong trường hợp này là sự hiện hành của các pháp là nhân, sự tích tụ chủng từ là quả. Chủng tử của thức A Lại Da có khả năng sinh khởi hiện hành, hiện hành cũng có khả năng cùng với chủng tử của thức A Lại Da ảnh hưởng qua lại tương tục trong một sát na để sinh khởi chủng tử mới, đây gọi là “tự loại tương tục” (cùng một dòng chủng tử thì thay nhau sinh khởi liên tục) hay còn gọi là chủng tử sinh chủng tử.

4. Thức A Lại Da và các thức cùng chuyển: phàm khi một hoặc hai thức hoạt động thì chủng tử trong thức A Lại Da cùng theo đó mà biến động.

5. Thức A Lại Da có hai mặt, đó là tạp nhiễm và hoàn tịnh: lúc lưu chuyển trong sinh tử, thì đó là lúc căn bản thức (tên khác của thức A Lại Da) bị tạp nhiễm. Khi chứng ngộ nhập Niết bàn, thì đó là sở y của công năng hoàn diệt. Đây là áp dụng tư tưởng Như Lai tạng.

- Luận Nhiếp Đại Thừa của Vô Trước.

Duy thức học được phát nguyên từ luận Du Già Sư Đại của Di Lặc, sang đến luận Nhiếp Đại Thừa của Vô Trước thì môn Duy Thức học thành công lớn. Vô Trước viết tác phẩm này vào lúc tuổi đã về già. Đây là bộ luận được tổ chức đặc biệt độc đáo. Luận này nhằm giải thích phẩm Nhiếp Đại Thừa trong kinh Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma; đây cũng là tác phẩm đại biểu cho tư tưởng Vô Trước. Nội dung của luận Nhiếp Đại Thừa được chia thành mười chương, chủ đích thuyết minh mười thứ thù thắng(6), và thuật rõ ý thú của Đại thừa Phật giáo là “chơn thị Phật thuyết (đúng là do Phật thuyết) “tướng” (hình thức) của mười thứ thù thắng có thể phân làm: cảnh, hành, quả. Thù thắng thứ nhất, và thứ hai là hành thù thắng; thù thắng thứ chín và thứ mười là quả thù thắng.

Nội dung của mười thù thắng đại ý như sau:

1. Sở tri y:

“Nghĩa là thức A Lại Da có tên là Sở tri y thể”. Tất cả các pháp được biết đến đều nương thức A Lại Da làm sở y cho ba tánh (Biến kế chấp, Y tha khởi, viên thành thực). Riêng ba tánh lại có hai cách kiến giải:

a) Biến kế sở chấp và Y tha khởi thuộc về tạp nhiễm,Viên thành thực thuộc về thanh tịnh.

b) Biến kế chấp là thuộc về tạp nhiễm, Viên thành thực thuộc về thanh tịnh, còn Y tha khởi thì thông cả Biến kế chấp, và Viên thành thực, tức có thể tạp nhiễm, có thể thanh tịnh, theo cách hiểu thứ nhất thì thức A Lại Da là hư vọng, không thực, là tạp nhiễm bất tịnh. Cách hiểu thứ hai, thì thức A Lại Da vừa tạp nhiễm hư vọng, cũng vừa là chơn thực thanh tịnh. Vô Trước thiên về cách hiểu thứ nhất, còn Thế Thân thì gom cả hai.

2. Sở tri tướng:

“Tam chủng tự tánh” gọi đó là Sở tri tướng thể. Sở tri đó là tướng”(7), gọi là Sở tri tướng, tức lấy tất cả pháp được biết đến chia thành ba tướng để thuyết minh:

a) Y tha khởi tự tánh- tánh này nhờ nhân cậy duyên mà sinh khởi. Vì tất cả pháp có thể là nhiễm có thể là tịnh, chứ các pháp không phải là bất biến.

b) Biến kế sở chấp tự tánh- tánh này chỉ cho tất cả pháp sở thủ đều khởi nguồn từ loạn thức (huyễn vọng), bởi nó hoàn toàn không có thực thể. Chẳng qua đấy chỉ là nhận thức chủ quan sai lệch với thực tại chân lý.

c) Viên thành thực tự tánh - tánh này do chứng ngộ “nhị không” nhân không, pháp không. Đấy là tánh chân thực của các pháp.

3. Nhập Sở tri tướng:

“Duy thức tánh, gọi là Nhập sở tri tướng thể”. Do tu Duy thức quán mà ngộ nhập Duy thức tánh, tựu trung là đi vào tướng sở tri và tánh chơn thực. Duy thức có hai:

a) Bước đầu là phương tiện Duy thức quán - dùng Duy thức quán quán sát tự tánh của tất cả các pháp là do hư vọng phân biệt mà có; nên rốt ráo không có cái để được.

b) Tiến lên bước nữa là chơn thực Duy thức quán - quán sát cảnh của các pháp là bất khả đắc, vì cảnh do hư vọng, do phân biệt của thức nên cũng bất khả đắc. Khi tâm và cảnh đều dứt (tức vọng thức không còn khởi niệm phân biệt ngã - pháp). Đấy là ngộ nhập bình đẳng pháp tánh (Viên thành thực tánh). Duy thức quán của luận này tuy thông đến cảnh chân thực (như vừa nêu), nhưng chính là chú trọng đi từ phàm phu đến thánh (từ phân biệt trí ở địa vị Gia hạnh đi đến vô phân biệt trí căn bản) đều thông qua Duy thức quán.

4. Bỉ nhập nhân quả:

“Sáu Ba la Mật đa, gọi là bỉ nhập nhân quả thể”. Bỉ nhập tựu trung là nhập bỉ; tức muốn nói để đi vào Duy Thức tánh cần yếu phải tu trì sáu pháp Ba La Mật Đa (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ); khi chưa ngộ nhập Duy thức tánh thì sở tu là nhân, khi đã chứng nhập Duy tức thánh thì sở tu là quả.

5. Bỉ nhân quả sai biệt:

“Thập địa Bồ tát, gọi là bỉ nhân quả tu sai biệt thể”. Sau khi tiến đến sơ địa thì thánh vị của Bồ tát đối với thập địa là phải tu tập sáu Ba La Mật Đa; cứ tuần tự như thế mỗi địa tăng dần lên, nên gọi là có mười địa sai biệt, khi đến được quả vị Phật, thì đấy là lúc tu tập sáu Ba La Mật Đa đã viên mãn.

6. Tu sai biệt trung tăng thượng giới:

“Luật nghi của Bồ tát, gọi đó là thử trung tăng thượng giới thể”, tức trong các địa mà Bồ tát tu tập có giới học là sở tu của Bồ tát. Sở dĩ vậy, là nhằm làm rõ chư Bồ tát không tu theo Tiểu thừa giới của Thanh văn, cho nên gọi là Bồ tát luật nghi địa, địa cứ thế mà tuần tự tu tập, triển chuyển, tăng gia, hướng thượng, nên gọi là tăng thượng.

7. Tăng thượng tâm:

“Thủ lăng già ma, hư không tạng, các tam ma địa v.v.. gọi đó là thủ trung tăng thượng tâm thể”. Đấy tức là sơ tu định học của các Bồ tát địa. Định dùng tâm làm chủ thể, nên gọi là tăng thượng tâm. Thủ lăng già ma nghĩa là kiện hành; tóm lại, Thủ Lăng Nghiêm tức là đại định. Cảnh giới của định này hết sức cao sâu. Nó là chỗ tu và nhắm tới của thập trụ Bồ tát. Hư không tạng là tên khác của định, có khả năng hàm nhiếp và xuất sinh tất cả công đức, nên gọi là Hư không tạng.

8) Tăng thượng huệ:

“Trí vô phân biệt, ở đây gọi là tăng thượng huệ thể”. Đây là chỗ tu huệ của Bồ tát. Trí vô phân biệt bao gồm cả gia hạnh trí, căn bản trí, hậu đắc trí. Bồ tát xa lìa tất cả mọi pháp chấp phân biệt, cho nên ba trí vừa nêu đều gọi là vô phân biệt.

9) Bỉ quả đoạn:

“Vô trụ Niết bàn, gọi đó là bỉ quả đoạn thể”. Bỉ quả, là quả do tu tập giới - định - huệ tam tăng thượng học mà có được. Chứng đắc quả này là nhờ đoạn sạch phiền não chướng và sở tri chướng. Do đó, gọi là đoạn quả. Nghĩa là vô trụ Niết bàn là không trụ sinh tử, cũng không lìa sinh tử.

10. Bỉ quả trí:

“Tam chủng Phật thân, gọi đó là bỉ quả trí thể”. Quả này như trước đã nói, nó là trí, nên có tên là Quả trí. Về phương diện đoạn chướng của quả tịch diệt, thì đây là vô trụ đại Niết bàn; về phương diện trí huệ của hiển hiện quả, thì dây là viên mãn vô phân biệt trí, đấy tức là chuyển tám thức làm bốn trí và thành tựu tam thân Phật:

a) Chuyển thức thứ tám thành Đại viên Cảnh trí; chuyển thức thứ bảy thành Bình đẳng trí - tức “tự tánh thân Phật”

b) Chuyển thức thứ sáu thành diệu quan sát trí, tức là “Thọ dụng thân” Phật.

c) Năm thức trước chuyển thành thành sở tác trí; tức là “Biến hóa thân” Phật. Thân thứ nhất (tự tánh thân) thì thường trụ; thân thứ hai và thứ ba (Thọ dụng thân, Biến hóa thân) thì vô thường. Thọ dụng thân do sự hiện khởi của tự tánh thân, mà thọ dụng mọi pháp lạc (tự thọ dụng), và trên lĩnh vực này làm thánh vị thuyết pháp của Bồ tát (tha dụng thọ); biến hóa thân là do tự tánh thân hiện khỏi, để vì hàng Thanh văn thuyết pháp.

Trên đây là giải thích nghĩa của thập thù thắng, xin độc giả tham khảo thêm “Nhiếp Đại Thừa Luận Giảng Ký” của Pháp sư Ấn Thuận. Trong đó nói rõ về Duy thức cảnh, Duy thức hành và Duy thức quả. Nói về lập trường của Duy thức học, thì luận này là bộ luận thống nhất toàn thể Đại thừa Phật giáo.

TIẾT III. LƯỢC KHÁI QUÁT LUẬN CU XÁ.

Phẩm Mục của Cu Xá.

Đại luận sư Thế Thân, người nước Kiền Đà La sau đến nước Ca Thấp Di La học luận Đại Tỳ Bà Sa, lúc hồi hương ông viết ra yếu nghĩa với sáu trăm bài tụng, và gởi sáu trăm bài tụng này trở lại nước Ca Thấp Di La. Bấy giờ có luận sư Ngộ Nhập của Hữu Bộ cho rằng sáu trăm bài tụng của Thế Thân trái nghịch với giáo nghĩa chính thống nên yêu cầu Thế Thân viết thích nghĩa cho sáu trăm bài tụng do ông viết ra. Nhân đó, Thế Thân liền viết thích luận mà thành bộ A Tỳ Đạt Ma Cu Xá Luận (Abhidharmakosa Sàstra) đọc giản lược là Cu Xá Luận. Bộ luận này hiện vẫn còn bản luận sớ Phạn văn, và một số thứ loại chú sở của Ấn Độ được dịch ra Tạng văn. Gần đây tại Trung Quốc có pháp sư Diễn Bồi viết cuốn Cu Xá Luận Tụng Giảng Ký. Đây là tư liệu có thể tham khảo.

Luận Cu Xá là bộ luận chỉnh lý, thống nhất phê phán và tổ chức lại tư tưởng cực kỳ vụn vặt của Hữu Bộ để thành bộ luận vô cùng xảo diệu. Xin liệt kê những phẩm mục của Luận Cu Xá như sau:

lichsuphatgiaoando-06-04

Phương pháp để dễ ghi nhớ cá phẩm mục trong Luận Cu Xá, xưa nay người ta có một bài kệ tóm gọn như sau:

“Giới nhị căn ngũ thế gian ngũ.

Nghiệp lục tùy tam Hiền thánh tứ.

Trí nhị định nhị phá ngã nhất.

Thị danh (Cu Xá) tam thập quyển”.

- Cu Xá với Bảy Mươi Lăm Pháp.

Luận cu Xá đem tất cả các pháp chia thành pháp hữu vi và pháp vô vi. Phàm cái gì được tạo tác bởi nhân duyên, chịu sự dịch chuyển, sự tác động bởi thời gian, có sự sai biệt về nhiễm tịnh, tức tất cả mọi hiện tượng của thế gian đều thuộc pháp hữu vi. Thoát ly tính chất pháp hữu vi, xa lìa tất cả trạng thái của tác dung, bao hàm cả cái nghĩa ba khoa là”Khôi thân diệt trí” của Niết bàn, đều thuộc pháp vô vi. A Tỳ Đạt Ma phần nhiều lấy ba khoa làm ngũ uẩn, mười hai nhân duyên và mười tám giới làm chuẩn rồi theo đó phân loại pháp. Luận Cu Xá dựa vào cách phân loại này, nhưng có thêm sự nghiên cứu về sắc pháp, Tâm pháp, tâm sở hữu pháp, tâm bất tương ưng hành pháp và vô vi pháp từ bộ luận Phẩm Loại Túc. Tuy nhiên việc xác định bảy mươi lăm pháp là do sau này ngài Phổ Quang nêu ra trong bộ Cu Xá Luận Ký do ông trước tác. Nhân vì trong Luận Cu Xá vẫn chưa lấy các pháp bất định như ố tác, thùy miên, tầm, tư trong tâm sở hữu pháp làm số lượng. Còn nguồn bảy mươi lăm pháp xuất thân từ luận Cu Xá thì không phải nghi ngờ gì.

Xin liệt kê danh xưng bảy mươi lăm pháp như sau:

lichsuphatgiaoando-06-05

- Quả nhân duyên.

Luận Cu Xá tóm thu tất cả các pháp qui thành bảy mươi lăm pháp. Nhưng bảy mươi lăm pháp này không tồn tại một cách cá biệt và độc lập, mà tồn tại trong mối quan hệ hỗ tương và liên quan với nhau một cách mật thiết, đấy là Nhân duyên luận (xin đọc Tiểu thừa Phật Giáo tư tưởng luận - của Mộc Thôn Thái Hiền, thiên II, chương sáu). Nhân và duyên ràng buộc với nhau thành ra quả. Thông xưng gồm có: sáu nhân, bốn duyên và năm quả, như biểu đồ sau:

lichsuphatgiaoando-06-06

- Pháp Thế Gian.

Pháp nhân quả, gom cả thế gian pháp và xuất thế gian pháp. Nhưng các pháp thế gian và xuất thế gian cũng cần có thêm sự phân loại. Phẩm Thế Gian, Phẩm Nghiệp và Phẩm Tùy Miên của Luận Cu Xá là dùng để phân tích Quả, Nhân, Duyên thuộc mê giới. Mê giới lại được chia thành hữu tình thế gian và khí thế gian. Địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nhân, thiên thuộc hữu tình thế gian, đứng về mặt không gian mà an lập tầng thứ thì sự lưu chuyển sinh tử của hữu tình được chia làm bốn trạng thái là; sinh hữu, bản hữu, tử hữu và trung hữu. Còn y vào mười hai duyên khởi thì có ba đời với lưỡng trùng nhân quả, đấy là nói về mặt thời gian mà an lập thứ tự. Dục giới, sắc giới và vô sắc giới, ba giới này làm khí thế gian. Lại lấy bốn kiếp là: thành, trụ, hoại, không, chi phối sự tuần hoàn sinh diệt của khí thế gian (đồ chứa đựng gọi là khí), đây là nói thứ tự khí thế gian được an lập về mặt thời gian.

Song nếu không có pháp xuất thế gian thì sự an lập pháp thế gian bất luận đó là hữu tình thế gian, hay khí thế gian, kết cục vẫn cứ mãi quay vòng mà không có điểm dừng lại, thành ra vô thỉ vô chung, vì cứ nối tiếp nhau làm nhân rồi lại làm duyên tương tục không dứt.

Sở dĩ chúng sinh không thoát khỏi được sinh tử, đó là do tạo nghiệp, tạo nghiệp thị thọ quả báo. Do đó, Phẩm Nghiệp của luận này đặc biệt dành để phân tích thuyết nói về Nghiệp. Nghiệp được chia thành “tư nghiệp” và “tư dĩ nghiệp”. Nghiệp thuộc về ý gọi là tư nghiệp, nghiệp thuộc về thân và ngữ gọi là tư dĩ nghiệp. Lại lấy hai nghiệp thân và ngữ, mỗi nghiệp như thế lại chia thành “biểu nghiệp” và “vô lậu nghiệp”. Chúng sinh tạo nghiệp là do “hoặc” (mê mờ) sai sử, do đó Phẩm Tùy Miên của luận này là nhằm khai thông vấn đề “hoặc”. Tùy miên là do hoạt động của nghiệp mà dẫn dến khổ quả, ý vị của tùy miên trong đó có phiền não. Phiền não được phân ra thành căn bản (sáu thứ hoặc mười thứ) và chi mạt (có mười chín thứ). “Hoặc” có “kiến hoặc” - mê về lý, và “tư hoặc” - mê về sự; kiến hoặc là do mê muội không thấu rõ lý Tứ đế, kiến hoặc phối hợp cả trong tam giới mà thành tám mươi sử. “Tư hoặc” là bốn thứ: tham, sân, si, mạn trong căn bản phiền não, cọng cả thảy trong tam giới có mười thứ; trong đó dục giới có bốn, còn sắc giới và vô sắc giới ngoại trừ không có tham, còn thì mỗi giới đều có ba thứ, lại còn có một trăm lẻ tám phiền não, tức tám mươi tám sử thuộc kiến hoặc, mười thứ thuộc “tư hoặc” cộng với mười trên mà thành (108). (Các danh tướng vừa nêu xin đọc thêm Pháp số).

- Xuất thế gian.

Mục đích của việc phân chia pháp thế gian là nhằm tiến đến con đường xuất thế gian của thánh đạo. Phẩm Hiền Thánh, Phẩm Trí, Phẩm Định của Luận Cu Xá là để thuyết minh: quả, nhân, duyên thuộc thế giới chứng ngộ. Trí ở đây chỉ cho nghĩa quyết đoán, và được chia thành hữu lậu trí và vô lậu trí. Bốn thứ huệ là: sinh đắc huệ, văn huệ, tư huệ và tu hệ thì gọi là hữu lậu trí; hai thứ là pháp trí và loại trí, thì gọi là vô lậu trí. Công năng của trí là đoạn trừ kiến hoặc. Nói về định, cũng chia thành sinh đắc định và tu đắc định, hai định này mỗi định có bốn sắc giới định (tứ thiền) và bốn vô sắc giới định, mỗi định lại phân ra cận phần định và căn bản định. Do công năng của trí và định mà có thể thứ lớp chứng nhập quả vị hiền thánh. Quá trình đoạn hoặc chứng chơn là trải qua nhiều giai đoạn và quả vị vô cùng phồn phức. Xin lược qua như sau:

1. Hiền Vị thất gia (bảy bậc) và chia ra hai loại:

a) Tam hiền - Ngũ đình tâm, biệt tướng niệm trụ, tổng tướng biệt trụ.

b) Bốn thiện căn - Noãn thiện căn, đảnh thiện căn, nhẫn thiện căn (nhẫn thiện căn lại có thể tế phân ra làm: hạ, trung thượng ba phẩm), thế đệ nhất pháp.

2. Hai loại thánh vị, chia thành “tam đạo bát bối” (ba đường tám nhóm):

a) Hữu học vị chia làm Dự Lưu - hướng thuộc kiến đạo, Dự Lưu quả thuộc kiến đạo, Nhất Lai hướng, Nhất lai quả, Bất hoàn hướng, Bất hoàn quả, A la hán hướng.

b) Vô học vị thuộc vô học đạo, tức là quả A la hán. Những quả vị thanh văn này chỉ có khi thế gian có Phật. Khi đời không có Phật xuất hiện, tự mình có thể quán mười hai nhân duyên mà ngộ nhập Thánh quả, thì gọi là Độc giác, và tiếng Phạn là Bích Chi Ca Phật (Pratyekabuadha). Kiếp trước và hiện kiếp khi đức Thích Tôn chưa chứng đắc Phật quả, Ngài được xưng là Bồ tát. Trước tiên Bồ tát phải nỗ lực tu lục độ vạn hạnh, trải qua ba đại A tăng kỳ kiếp, lại còn phải trải qua trăm kiếp để gieo trồng “tướng hảo chi nghiệp” (nghiệp thiện để thành tướng hảo), sau rốt mới chứng Đẳng Chánh Giác (thành Phật). Sau cùng là Phẩm Phá Ngã. Đây là phẩm xiển minh lý vô ngã của Phật giáo, đồng thời dùng lý nghĩa này để phá bỏ ngoại giáo, và thuyết hữu ngã dị chấp.

(1) Đại Chánh tạng-49, cuối trang 15.

(2) Một tên gọi khác để chỉ chúng sinh.

(3) Một tên gọi khác để gọi chúng sinh.

(4) Vô học: Đạo học viên mãn, không phải tu học nữa thì gọi là vô học.

(5) Yết Lạt Lam Ka Lai,còn gọi là Ca La La v.v... dịch là ngưng hoạt, tạp uế v.v... tinh khí của cha mẹ khi mới hòa hợp ngưng kết, là thời kỳ thai nhi từ lúc thọ sinh cho đến 7 ngày sau. Từ Điển Phật Học - Hà Nội xuất bản 1994.

(6) Quyển 14 Đại Chánh tạng-22, cuối trang 340.

(7) Quyển 32 Đại Chánh tạng-22 cuối trang 501.

(8) Quyển 39, Đại Chánh tạng-22, trang 536.

(9) Đại Chánh tạng-24, giữa trang 676.

(10) Xin tham khảo luận thư của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, và sự nghiên cứu của các Luận sư của Bộ này - Pháp sư Ấn Thuận - trang 37.

(11) Đại Chánh tạng-25, trang 192.

(12) Đại Chánh tạng-25, giữa trang 192.

(13) Đại Chánh tạng-25, đầu trang 70.

(14) Vọng Nguyệt Phật Giáo Từ Điển - cuối trang 903.

(15) Nước Ca Thấp Di La naylà bang Kamira của Ấn Độ, thuộc vùng tây bắc - chú của người dịch.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567