50 NĂM (1920-1970) CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Sa môn THÍCH THIỆN HOA soạn
I –Lời Nói Đầu
II –Diễn Văn
III –Quyết Định 0176–V.H.Đ
IV –Ghi ân Tiền Bối
Phật-giáo du nhập Việt Nam lần đầu tiên
Phật-giáo trải qua các triều đại
Thời kỳ Phật-giáo suy đồi (dưới thời Pháp thuộc)
Phong trào Chấn Hưng Phật-giáo VN (1920)
MIỀN NAM
a) Hội lục hòa và tạp chí Pháp Âm
b) Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học
c) Liên đoàn học xã ra đờ
d) Hội lưỡng xuyên Phật học
MIỀN TRUNG
a) Hội An Nam Phật học
b) Phật học đường Báo Quốc và Kim Sơn
c) Phật học đường Trúc Lâm và Tây Thiên
d) Phật-giáo tỉnh Bình Định và Đà Nẵng
MIỀN BẮC
a) Bắc Kỳ Phật-giáo tổng hội
b) Chùa Quán Sứ
c) Chùa Một Cột
d) Những vị đã góp công ít nhiều xây dựng PGVN
Phật-giáo Nam Tông Việt Nam
PHẬT GIÁO VIỆT NAM TỪ NĂM 1945-1963
MIỀN NAM
a) Phật học đường Phật Quang, Liên Hải, Mai Sơn, Sùng Đức và Ứng Quang
b) Phật học đường Nam Việt và chùa Ấn Quang
MIỀN TRUNG
a) Phật học viện Nha Trang
b) Tu Viện Nguyên Thiều
Giáo Hội Tăng già toàn quốc.
Tổng hội Phật-giáo Việt-Nam
Sáu tập đoàn Phật-giáo
a) Giáo Hội Tăng già Nam Việt.
b) Hội Phật học Nam Việt.
c) Giáo Hội Tăng già Trung Việt.
d) Hội Phật học Trung Việt.
e) Giáo Hội Tăng già Bắc Việt.
f) Hội Việt Nam Phật-giáo Bắc Việt.
PHẬT GIÁO VIỆT NAM GẠP ĐẠI NẠN (1963)
Danh Sách Chư Thánh Tử Đạo
Giáo Hội Phật-giáo Việt-Nam Thống Nhất Ra Đời
TỔNG KẾT
Phật-giáo Việt-Nam quá khứ.
Phật-giáo Việt-Nam cận đại.
Phật-giáo Việt-Nam ngày nay.
THÔNG BẠCH CỦA G.H.P.G.V.N.T.N GỞI TOÀN THỂ PHẬT GIÁO ĐỒ
PHẦN PHỤ
V –Di ảnh và tiểu sử Chư Thánh Tử Đạo.
1. BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC.
2. ĐẠI ĐỨC THÍCH NGUYÊN HƯƠNG
3. ĐẠI ĐỨC THÍCH THANH TUỆ
4. NI CÔ THÍCH NỮ DIỆU QUANG
5. THƯỢNG TỌA THÍCH TIÊU DIÊU
6. PHẬT TỬ HỒNG THỂ (THƯƠNG PHẾ BINH)
7. ĐẠI ĐỨC THÍCH QUẢNG HƯƠNG
8. ĐẠI ĐỨC THÍCH THIỆN MỸ
9. ĐẠI ĐỨC THÍCH HUỆ HỒNG
10. PHẬT TỬ NGUYỄN THỊ VÂN
11. ĐẠI ĐỨC THÍCH THIỆN HUỆ
12. NI CÔ THÍCH NỮ DIỆU TRI
13. NI SƯ THÍCH NỮ DIỆU QUANG
14. NỮ PHẬT TỬ ĐÀO THỊ YẾN PHI
15. NỮ SINH PHẬT TỬ NGUYỄN THỊ HUỆ
16. NỮ PHẬT TỬ ĐÀO THỊ TUYẾT
17. NI CÔ THÍCH NỮ TRÍ TÚC (BẢO VỆ HIẾN CHƯƠNG P.G.)
18. NI CÔ THÍCH NỮ TRÍ CHƠN (BẢO VỆ HIẾN CHƯƠNG P.G.)
19. NI CÔ THÍCH NỮ HUỆ LẠC (BẢO VỆ HIẾN CHƯƠNG P.G.)
20. ĐẠI ĐỨC THÍCH HẠNH ĐỨC (BẢO VỆ HIẾN CHƯƠNG P.G.)
21. NI CÔ THÍCH NỮ TRÍ TÚC (BẢO VỆ HIẾN CHƯƠNG P.G.)
22. NỮ PHẬT TỬ NHẤT CHI MAI (CẦU HÒA BÌNH V.N.)
23. THƯỢNG TỌA THÍCH THIỆN LAI (CẦU HÒA BÌNH V.N.)
24. NI CÔ KHẤT SĨ LIÊN TẬP (CẦU HÒA BÌNH V.N.)
25. NỮ SINH PHẬT TỬ QUÁCH THỊ TRANG
26. PHẬT TỬ PHAN VĂN HÒA VÀ NGUYỄN VĂN PHÁT
27. PHẬT TỬ THIỆN CHÍ HUỲNH VĂN THIỆN
28. ĐẠI ĐỨC THÍCH THIỆN ÂN
29. HUYNH TRƯỞNG PHAN DUY TRINH
30. HUYNH TRƯỞNG NGUYỄN ĐẠI THỨC
31. PHẬT TỬ NGUYỄN THỊ VÂN
32. PHẬT TỬ ĐÀO THỊ TUYẾT
33. ĐẠO HỮU LÊ VĂN MỸ
HÌNH ẢNH
“Uống nước nhớ nguồn”, đó là lẽ thường tình của con người, huống hồ là Phật tử.
Hôm nay hàng Phật-tử chúng ta đang sống trong hào quang tươi sáng của Phật, trong một tổ chức có quy-mô, trong một đường lối giáo dục có phương pháp và trong một tinh-thần thống nhất ý chí-hành động. Đó là nhờ sự gắng công thường xuyên, ý chí bất khuất của các bậc Tiền-Bối trong Phong trào Chấn Hưng Phật-giáo Việt-Nam, 50 năm về trước, của 3 miền Nam, Trung, Bắc.
Gần 100 năm về trước, quê hương Tổ quốc của chúng ta bị người Pháp đô hộ, Dân tộc ta và những gì mang nặng dân-tộc tính, có tinh thần quốc gia đều bị thực dân Pháp bóp chẹt. Phật-giáo Việt-Nam nằm trong tình trạng ấy.
Nhưng không hẹn mà nên, 50 năm về trước, các vị Tiền Bối cùng nằm trong một thời kỳ, cùng trong một hạnh nguyện, đã khởi xướng và đẩy mạnh Phong trào Chấn Hưng Phật-giáo Việt-Nam.
Kết quả của nữa thế-kỷ hoạt-động trong chông gai, trong sự khủng bố chèn ép nặng nề, là cơ sở Phật-giáo đã lan đến hạ tầng thôn xóm; giáo lý nhà Phật không còn quanh-quẩn trong các Tu Viện mà đã quảng bá sâu rộng vào các tầng lớp dân chúng; phạm vi giáo dục Phật-giáo không còn đóng khung ở Bậc lão-thành mà đã đi sâu vào Thanh thiếu nhi Phật tử; nào Trường Bồ-đề, nào các Phật-học viện, rồi đến Đại-học Vạn-Hạnh…
Song song với công cuộc phát huy đời sống tâm linh, lãnh vực hoạt-động từ thiện xã hội như: Cô nhi-viện, Ký-nhi-viện, v.v… đã gây nhiều ảnh hưởng lớn lao trên toàn quốc.
Với những thành quả lớn-lao như thế, chúng ta không thể không nghỉ đến công đức của các vị Tiền-bối. Do đó, Hội Đồng Viện Hóa-Đạo đã quyết định tổ chức hàng năm, lễ kỷ-niệm “GHI ÂN NHỮNG BẬC TIỀN-BỐI HỮU CÔNG TRONG PHONG-TRÀO CHẤN-HƯNG PHẬT-GIÁO VIỆT-NAM” vào ngày Phật Thành-Đạo (Mùng 8 tháng Chạp) và bắt đầu từ Phật Lịch 2513 năm Kỷ Dậu (1970) tại trụ sở Tam Viện Hóa-Đạo chùa Ấn Quang Sài Gòn.
Bài “GHI ÂN TIỀN BỐI” này, bắt nguồn từ lòng tri ân không bờ bến, đối với các bậc Tiền Bối và đã đọc lên trong buổi đại-lễ nói trên; rồi được sửa lại, thêm vào những đoạn cần-thiết và đổi đầu đề là “50 Năm Chấn hưng Phật-giáo Việt-Nam” Tập I. Sau tập này, chúng tôi sẽ viết tiếp quyển “Phật-giáo Việt-Nam ngày nay”, tức là quyển “50 Năm Chấn-hưng Phật-giáo Việt-Nam” tập II.
Quyển sách này viết ra nhằm các lợi ích sau đây:
1. Để Tăng Ni và Phật tử thấy Phật-giáo Việt-Nam đã viết thành 1 trang lịch-sử vàng son oai-hùng và oanh-liệt, gần 2000 năm cứu quốc và kiến-quốc, luôn luôn chống ngoại xâm, trung-thành với quốc gia dân-tộc, cùng dân-tộc đồng an đồng nguy, mua chuộc không được, áp lực không sợ, không dựa quyền thế và không làm tay sai cho ngoại bang (xem đoạn tổng kết của quyển sách này, từ trang 128 đến trang 138). Là Phật-tử phải có bổn-phận giữ-gìn trang lịch-sử quý báu này.
2. Để Tăng Ni và Phật tử đều thâm cảm hồng-ân sâu dày của Tiền-bối. Quý Ngài đã đóng góp rất nhiều công-lao gian khổ và sự-nghiệp Chấn-hưng Phật-giáo trong nữa thế-kỷ vừa qua.
3. Để Tăng Ni và Phật Tử tin tưởng phấn khởi trước sự trổi dậy, tiến triển của Phật-giáo Việt-Nam trong 50 năm vừa qua, từ khi suy đồi thậm tệ, đến lúc thực sự phục-hưng.
4. Để Tăng Ni và Phật tử sẽ ý thức trách-nhiệm hay bổn phận của mình, hăng hái tiếp nối, và duy trì sự-nghiệp của Tiền bối.
Tập sách này, chỉ là tài-liệu sơ-khởi, đương nhiên còn phiến-diện, vì công trình vỏn vẹn chỉ có một mình tôi! Lại còn phải đảm-đang rất nhiều công việc. Tôi ước mong tập tài liệu này có thể giúp ích về sau, để soi sáng cho những công-trình hoàn bị hơn, thuộc loại giáo-sử này. Kính xin Quý liệt vị Thiện Tri Thức vì lợi ích chung, hoan hỷ bổ-túc cho những điểm thiếu sót, để khi tái bản được hoàn-bị.
Chùa Ấn Quang
Ngày rằm tháng chạp năm Kỷ Dậu (1970)
Sa-môn Thích Thiện Hoa.
PHẦN PHỤ
V –Di ảnh và tiểu sử Chư Thánh Tử Đạo.
1. BỒ TÁT THÍCH QUẢNG ĐỨC.
2. ĐẠI ĐỨC THÍCH NGUYÊN HƯƠNG
3. ĐẠI ĐỨC THÍCH THANH TUỆ
4. NI CÔ THÍCH NỮ DIỆU QUANG
5. THƯỢNG TỌA THÍCH TIÊU DIÊU
6. PHẬT TỬ HỒNG THỂ (THƯƠNG PHẾ BINH)
7. ĐẠI ĐỨC THÍCH QUẢNG HƯƠNG
8. ĐẠI ĐỨC THÍCH THIỆN MỸ
9. ĐẠI ĐỨC THÍCH HUỆ HỒNG
10. PHẬT TỬ NGUYỄN THỊ VÂN
11. ĐẠI ĐỨC THÍCH THIỆN HUỆ
12. NI CÔ THÍCH NỮ DIỆU TRI
13. NI SƯ THÍCH NỮ DIỆU QUANG
14. NỮ PHẬT TỬ ĐÀO THỊ YẾN PHI
15. NỮ SINH PHẬT TỬ NGUYỄN THỊ HUỆ
16. NỮ PHẬT TỬ ĐÀO THỊ TUYẾT
17. NI CÔ THÍCH NỮ TRÍ TÚC (BẢO VỆ HIẾN CHƯƠNG P.G.)
18. NI CÔ THÍCH NỮ TRÍ CHƠN (BẢO VỆ HIẾN CHƯƠNG P.G.)
19. NI CÔ THÍCH NỮ HUỆ LẠC (BẢO VỆ HIẾN CHƯƠNG P.G.)
20. ĐẠI ĐỨC THÍCH HẠNH ĐỨC (BẢO VỆ HIẾN CHƯƠNG P.G.)
21. NI CÔ THÍCH NỮ TRÍ TÚC (BẢO VỆ HIẾN CHƯƠNG P.G.)
22. NỮ PHẬT TỬ NHẤT CHI MAI (CẦU HÒA BÌNH V.N.)
23. THƯỢNG TỌA THÍCH THIỆN LAI (CẦU HÒA BÌNH V.N.)
24. NI CÔ KHẤT SĨ LIÊN TẬP (CẦU HÒA BÌNH V.N.)
25. NỮ SINH PHẬT TỬ QUÁCH THỊ TRANG
26. PHẬT TỬ PHAN VĂN HÒA VÀ NGUYỄN VĂN PHÁT
27. PHẬT TỬ THIỆN CHÍ HUỲNH VĂN THIỆN
28. ĐẠI ĐỨC THÍCH THIỆN ÂN
29. HUYNH TRƯỞNG PHAN DUY TRINH
30. HUYNH TRƯỞNG NGUYỄN ĐẠI THỨC
31. PHẬT TỬ NGUYỄN THỊ VÂN
32. PHẬT TỬ ĐÀO THỊ TUYẾT
33. ĐẠO HỮU LÊ VĂN MỸ
HÌNH ẢNH
TIỂU SỬ
BỒ TÁT QUẢNG ĐỨC
I – THỜI KỲ THIẾU NIÊN
Bồ Tát sinh năm 1897, tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, Trung Việt; tên đời Lâm Văn Tuất, pháp danh Thị Thủy, pháp tự Hành Pháp, pháp hiệu Quảng Đức.
Lên 7 tuổi, Bồ Tát được song thân cho xuất gia học đạo, thọ giáo với Hòa Thượng Thích Hoằng Thăm. Năm 15 tuổi, Bồ Tát thọ giới Sa Di, năm 20 tuổi thọ giới Tỳ Kheo và Bồ Tát. Sau khi thọ giới, Bồ Tát ở tu 3 năm tại núi Ninh Hòa. Sau đó, Bồ Tát tu hạnh Đầu Đà, một mình với chiếc bình bát đi Hóa-Đạo khắp nơi, rồi về nhập thất tại chùa Thiên Ân, Ninh Hòa, Nha Trang.
II – THỜI KỲ TRUNG NIÊN
Năm 1932, chi hội An Nam Phật Học tại tỉnh Ninh Hòa, thỉnh Bồ Tát làm Chứng Minh Đạo Sư. Và Giáo Hội Tăng già Trung Việt mời Bồ Tát làm chức Kiểm Tăng ở tỉnh Khánh Hòa. Trong thời gian hành đạo ở miền Trung, Bồ Tát đã kiến tạo và trùng tu được 14 ngôi chùa.
Năm 1943, Bồ Tát vào Nam đi Hóa-Đạo các tỉnh Sài gòn, Gia Định, Bà Rịa, Long Khánh, Định Tường, Hà Tiên, rồi Bồ Tát đến Nam Vang 3 năm nghiên cứu kinh điển chữ pali.
Hai mươi năm hành đạo ở miền Nam, Bồ Tát đã khai sơn và trùng tu được 17 ngôi chùa. Như thế là Bồ Tát đã có công trùng tu và khai sơn tất cả 31 ngôi chùa. Bồ Tát thường ở chùa Long Vĩnh, nên được người đời gọi là Hòa Thượng Long Vĩnh.
III – THỜI KỲ LÃO THÀNH
Năm 1953, Giáo Hội Tăng già Nam Việt mời Bồ Tát làm chức Trưởng Ban Nghi Lễ. Và theo lời thỉnh cầu của hội Phật Học Nam Việt, Bồ Tát nhận làm chủ trì chùa Phước Hòa (Bàn Cờ), trụ sở của Hội.
Đến năm 1963, vì thấy chế độ tàn bạo độc tài, âm mưu tiêu diệt Phật-giáo của Ngô Triều, nên Bồ Tát phát nguyện thiêu thân để cứu nguy cho Dân tộc và Đạo pháp.
IV – THỜI KỲ SẮP VIÊN TỊCH
Đến ngày 20.4 nhuần năm Quý Mão (11.6.1963), sau buổi lễ cầu siêu tại chùa Phật Bửu, hàng ngàn Tăng Ni đang diễn hành trên các đường phố để đòi chính phủ thực thi 5 nguyện vọng chân chính của Phật-giáo và đòi phải chấm dứt chính sách kỳ thị tôn giáo. Khi đến ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt, Bồ Tát từ trên xe ung dung bước xuống, đến ngồi kiết già tại giữa ngã tư, rồi tự tay mình quẹt lửa châm vào y hậu. Sau khi ngọn lửa bắt xăng bốc cháy cao phủ kín cả thân người trên 15 phút, Bồ Tát vẫn ngồi kiết già lưng thẳng như tượng đồng đen, tay còn bắt Ấn Tam Muội. Đến lúc lửa hạ ngọn, Bồ Tát gật đầu 3 lần như cuối chào vĩnh biệt, rồi ngã ngửa xuống.
Trước giờ thị tịch, Bồ Tát thốt ra những lời tâm huyết như sau:
“Trước khi tôi nhắm mắt về cảnh Phật, tôi trân trọng gởi lời cho Tổng thống Ngô Đình Diệm, nên lấy lòng Từ Bi Bác Ái mà đối xử với quốc dân và thi hành chính sách bình đẳng tôn giáo, để giữ vững nước nhà muôn thuở.”
Và Bồ Tát không quên nhắn nhủ Tăng Ni và Phật tử như sau:
“Tôi thiết tha kêu gọi chư Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni và Phật tử nên đoàn kết nhất trí, hy sinh để bảo tồn Phật Pháp.”
Kim thân của Bồ Tát Quảng Đức quàn lại chùa Xá Lợi 5 ngày. Đến ngày 16.6.1963, Tất cả Tăng Ni và Phật tử trong Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật-giáo đưa Ngài về an dưỡng địa, cử hành trọng thể lễ Trà tỳ.
Sau khi hỏa thiêu suốt ngày, xương thịt đều tiêu hết nhưng trái tim Bồ Tát vẫn còn y nguyên, mặc dù đã thiêu bằng lửa điện trên 6 tiếng đồng hồ. Hiện nay trái tim Bồ Tát tôn thờ tại chùa Ấn Quang trụ sở tạm của Giáo Hội Phật-giáo Việt-Nam Thống Nhất.
Sự thị tịch của Bồ Tát, có 2 điều huyền diệu:
1. – Khi lửa cháy phủ người mà Ngài vẫn ngồi như tượng đồng đen, tay bắt ấn tam muội, chân ngồi kiết già, không hề lay chuyển.
2. – Khi trà tỳ, xương thịt cháy hết, trái tim vẫn còn y nguyên. Sự huyền diệu này làm cho Tăng Ni và Phật tử trong ngoài nước đều vô cùng kính phục.
Linh cốt Bồ Tát, được tôn thờ tại các chùa như sau:
3. – Việt Nam Quốc Tự, Trụ sở Viện Hóa-Đạo.
4. – Chùa Ấn Quang, trụ sở Giáo Hội Tăng già toàn quốc.
5. – Tháp Đa Bảo, chùa Phước Hậu, Trà Ôn.
6. – Chùa Từ Nghiêm, trụ sở Ni Bộ Bắc Tông, …
7. – Chùa Quán Thế Âm (Phú Nhuận) nơi di tích cuối cùng của Bồ Tát QUẢNG ĐỨC.
Tóm lại, Bồ Tát dùng nhục thân làm ngọn đuốc, đốt lên để phá tan mây vô minh hắc ám của Ngô Triều, làm chấn động năm Châu, tất cả các nước trên Thế Giới đều bênh vực Phong trào tranh đấu chân chánh của Phật-giáo.
Nhờ ngọn lửa từ bi của Bồ Tát mà cứu nguy được cả Dân tộc và Đạo pháp, làm cho Liên Hiệp Quốc phải tận tâm chú ý đến nước Việt Nam bé nhỏ này và cử một phái đoàn đến can thiệp; cả Thế giới đều kính phục sự can đảm anh dũng của Dân tộc Việt Nam nói chung và của Phật-giáo nói riêng.
Bồ Tát tuy viên tịch, nhưng ngọn lửa Đại Hùng, Đại Lực Đại Từ Bi của Bồ Tát vẫn còn sáng chói mãi trong lòng người Phật tử trong và ngoài nước đến muôn đời chẳng hết.
Nam mô Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi QUẢNG ĐỨC Bồ Tát.
LỬA TỪ BI
Kính dâng lên Bồ Tát Quảng Đức.
Lửa! Lửa cháy ngất Tòa Sen!
Tám chính phương nhục thể trần tâm hiện thành THƠ, quỳ cả xuống.
Hai vầng sáng rưng rưng
Đông Tây nhòa lệ ngọc
Chắp tay đón một Mặt Trời Mới Mọc
Ánh Đạo vàng phơi phới, đang bừng lên dâng lên …
Ôi ! Đích thực hôm nay Trời có Mặt
Giờ là Giờ Hoàng Đạo nguy nga.
Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt
Nhìn nhau: tình huynh đệ bao la.
Nam Mô Đức Phật Di Đà
Sông Hằng kia, bởi đâu mà cát bay?
Thương chúng sinh trầm luân bể khổ
NGƯỜI rẽ phăng đêm tối đất dày
Bước ra, ngồi nhập định, hướng về Tây
Gọi hết LỬA vào xương da bỏ ngỏ
Phật pháp chẳng rời tay …
Sáu ngả luân hồi đâu đó
Mang mang cùng nín thở
Tiếng nấc lên ngừng nhịp Bánh Xe Quay.
Không khí vặn mình theo, khóc òa lên nổi gió;
Người siêu thăng … Giông bão lắng từ đây,
Bổng người vượt chín tầng mây
Nhân gian mát rợi bóng cây Bồ Đề
Ngọc hay đá, tượng chẳng cần ai tạc!
Lụa hay tre, nào khiến bút ai ghi.!
Chổ Người ngồi: Một thiên thu tuyệt tác
Trong vô hình sáng chói nét Từ Bi.
Rồi đây, rồi mai sau, còn chi?
Ngọc đá cũng thành tro, lụa tre dần mục nát
Với thời gian lê vết máu qua đi.
Còn mãi chứ ! Trái tim BỒ TÁT
Gội hào quang xuống tận ngục A Tỳ.
Ôi ngọn Lửa Huyền Vi!
Thế giới ba nghìn phút giây ngơ ngác
Từ cõi Vô Minh
Hướng về Cực Lạc.
Vần điệu của thi nhân chỉ còn lại rơm rác
Và chỉ nguyện được là rơm rác
Thơ cháy lên theo với lời Kinh
Tụng cho Nhân Loại Hòa Bình
Trước sau bền vững tình Huynh Đệ này.
Thổn thức nhẹ lòng Trái Đất
Mong thành Quả Phúc về Cây,
Nam mô Thích ca Mâu Ni Phật
Đồng loại chúng con nắm tay nhau tràn nước mắt
Tình thương hiện Tháp Chín Tầng xây.
VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Sài gòn – 1963
TIỂU SỬ
Đại Đức THÍCH NGUYÊN HƯƠNG
Đại Đức THÍCH NGUYÊN HƯƠNG 23 tuổi, hiệu là Đức Phong, tục danh là Huỳnh Văn Lễ, sanh năm 1940, tại làng Long Tỉnh, xã Liên Hương, Quận tuy Phong, Tỉnh Bình Thuận (Trung Việt). Thân phụ là Huỳnh Thân, Thân Mẫu là Trương Thị Lang, chỉ sanh một mình Đại Đức, đặt tên là Huỳnh Văn Lễ.
Trong thời thơ ấu, vì nhà ở sát chùa, nên Đại Đức thường được mẹ dẫn dắt tới lui cảnh thiền môn để lễ Phật nghe kinh. Do đó, năm vừa lên 6, lòng mến đạo đã thấm nhuần trong tâm tưởng, Đại Đức được cha mẹ cho xuất gia học đạo, và được Thượng Tọa Thích Quang Chí, tọa chủ chùa Linh Bửu cho thọ Tam Qui, Pháp danh là Nguyên Hương. Năm 12 tuổi, Đại Đức được thọ ngũ giới. Từ đó Đại Đức chuyên tâm tu niệm, dốc lòng phụng sự Tam Bảo.
Năm 20 tuổi, Đại Đức thọ Cụ túc giới, được hiệu là Đức Phong. Thọ giới xong, đạo niệm của Đại Đức ngày một thêm tinh tấn. Và trên bước đường vân du Hóa-Đạo, Đại Đức đã được rất nhiều người cảm mến kính trọng. Nhưng vì thầm nguyện an tâm tu niệm, nên Đại Đức dừng bước vân du và nhận chức Trụ trì tại chùa Bảo Tạng.
Từ ngày Phật-giáo bị đại nạn, Đại Đức đã thấu triệt sự tồn vong của Đạo pháp là vấn đề trọng đại, còn tấm thân ngũ uẫn này là tạm bợ, nên sau 2 ngày tuyệt thực tại chùa Tỉnh hội Phật-giáo Bình Thuận, Đại Đức bèn noi gương Bồ Tát Quảng Đức, dũng cảm hiến thân cho Đạo pháp bằng cách tự thiêu hồi 12 giờ ngày 4.8.1963, tức là ngày rằm tháng 6 âm lịch, trước tòa Tỉnh Trưởng Bình Thuận.
Huyễn thân tuy mất, nhưng Đại Đức còn để lại trong lòng người một cái gì bất diệt.
TIỂU SỬ
Đại Đức THÍCH THANH TUỆ
Đại Đức THÍCH THANH TUỆ 18 tuổi, tục danh Bùi Huy Chương, sinh tại ba Khê, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là Bùi Dư, thân mẫu là bà Hoàng Thị Phục. Mẹ mất từ lúc Đại Đức lên 10 tuổi. Cụ Dư ở vậy nuôi con. Đại Đức có 22 chị gái lớn và 1 anh trai là Bùi Cầu 23 tuổi, quân nhân. Sau Đại Đức còn 1 em trai út.
Vì ham mộ đạo lý nhà Phật, nên năm 1960 Đại Đức vào quy y chùa Phước Duyên, thuộc xã Hưng long, quận Hương trà, tỉnh Thừa thiên, được pháp danh là Thanh Tuệ.
Năm 1963, Đại Đức đỗ bằng trung học Đệ Nhất cấp với hạng bình thứ. Vì tính rất ôn hòa và hiền hậu, nên Đại Đức đã được Ngài trụ trì chùa Cu Võ Đức Phú, pháp danh Thích Đãnh Lễ rất thương yêu. Đặc biệt là Đại Đức rất hiếu thảo với cha mẹ, thường tỏ ý thương tiếc Từ mẫu đã quá vãng sớm. Hằng năm đến ngày rằm tháng 6 là ngày giỗ mẹ, dầu cho bận việc thế nào, Đại Đức cũng về quê tại Hải Lăng, tụng kinh niệm Phật ngày đêm để cầu siêu cho Mẹ.
Trước ngày tự thiêu 9 hôm, tức là ngày mùng 4.8.1963, nhằm ngày rằm tháng 6 là ngày giỗ mẹ, Đại Đức cùng Ngài trụ trì là Thích Đãnh Lễ về quê nhà. Đại Đức tụng niệm suốt đêm ngày, để cầu siêu cho Mẹ và cũng là lần chót Đại Đức từ giã gia đình về cõi Phật.
Vì thấy Phật-giáo bị đại nạn, đứng trước sự tồn vong của Đạo pháp, Đại Đức phát nguyện tự thiêu vào đêm 12 rạng 13.8.1963 để cứu nguy Đạo pháp.
TIỂU SỬ
Ni Cô THÍCH NỮ DIỆU QUANG
Thích Nữ Diệu Quang 27 tuổi, tục danh là Ngô Thị Thu Minh, tự Minh Nguyệt, sinh ngày 11.1.1936, tại xã Phù Cát, quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên và nơi đây cũng là chánh quán. Thân phụ là Ngô Đình Hòe và Thân Mẫu là bà Nguyễn Thị Nghĩa, gia đình của ni cô hiện cư trú tại Nha Trang.
Sinh trưởng trong một gia đình nề nếp gia phong, thuở thiếu thời Ni Cô đã là một người chị gương mẫu trong gia đình (Cô là con thứ 2, chị đầu của Ni cô là tu sĩ Huệ Thành hiện tu tại chùa Từ Nghiêm Sài gòn).
Nhận thấy cuộc đời là giả tạm, năm 21 tuổi, Ni Cô đã cắt ái từ thân, mở đầu cuộc hành trình, đi tìm Đạo pháp. Thấu được lòng thành khẩn của Ni cô, Ni Sư Thích Nữ Như Hoa, trụ trì chùa Vạn Thạnh ở Nha Trang, đã thâu nhận Ni cô làm đệ tử.
Với tinh thần quyết chí tu học và nhờ trợ duyên ngoại điển (học xong ban trung học) Ni Cô đã thọ Sa Di giới năm 21 tuổi và được theo học các lớp nội điển tại Phật học Viện Nha trang.
Năm 26 tuổi, Ni Cô được thọ giới Thức Xoa ma Na. để đóng góp vào phần nào công việc xây dựng thế hệ mai sau và thể hiện được tinh thần lợi tha của Phật pháp, Ni Cô đã phát tâm theo dạy các lớp Sơ học Thiên Tài miễn phí, do tỉnh Giáo Hội Khánh Hòa quản trị.
Đến năm 1963, Ni Cô được 27 tuổi, vì thấy Đạo pháp lâm nguy nên tự mình tẩm xăng tự thiêu, để cảnh tỉnh sự mê muội của nhà Ngô và cứu nguy Đạo pháp.
Ni Cô đã tự thiêu vào lúc 8 giờ 30 ngày 26.6 năm Quý Mão, tức ngày 15.8.1963, tại cạnh trường Hòa Xuyên, quận Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
Ngọn đuốc Diệu Quang là ngọn đuốc thứ tư của Pháp nạn 1963.
TIỂU SỬ
Thượng Tọa THÍCH TIÊU DIÊU
Thượng Tọa Thích Tiêu Diêu 71 tuổi, hiệu là Tâm Nguyện, tục danh là Đoàn Mễ, sanh năm 1892 tại làng An Tuyền tức là Chuồn, quận Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên, cách Thị xã Huế ngót 10 cây số.
Thượng Tọa sanh trưởng trong một gia đình đạo đức giàu có và chức sắc trong làng.
Thượng Tọa có 9 người con, hai người cũng đã xuất gia tu hành là Đại Đức thích Thiên Ân (đậu bằng tiến Sĩ ở Nhật) và Đại Đức Thích Đức Tường, hiện tu học tại Phật Học Viện Nha Trang Trung Phần.
Thượng Tọa Tiêu Diêu xuất gia năm 1930 và tu tại chùa Tường Vân, làng Dương Xuân Thượng. Thượng Tọa là đệ tử của Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, tăng Thống GHPGVNTN. Năm 1952, người thọ Cụ túc giới. Vì muốn tu trong cảnh thanh vắng, nên Thượng Tọa đã lập một cái cốc trên ngọn đồi bên chùa Châu Lâm, để tiện nhập thất tu niệm.
Thượng Tọa rất chuyên tâm nghiên cứu Phật pháp qua kinh sách và đã dự các lớp Phật pháp tại Phật học viện Tây Thiên, Linh Quang. Thượng Tọa tu theo hạnh Đầu đà: ăn ngủ rất ít, cứ 2 ngày mới ăn một bữa vào giờ ngọ.
Khi cuộc tranh đấu của Phật-giáo phát khởi, Thượng Tọa thường đến ở chùa Từ Đàm Huế, để tham dự các cuộc cầu siêu và tuyệt thực.
Thượng Tọa dự định sẽ tự mổ bụng hoặc tuyệt thực cho đến chết. Đến ngày 16.8.1963, Thượng Tọa đã tự thiêu vào lúc 4 giờ sáng tại chùa Từ Đàm huế, để bảo vệ Đạo pháp.
TIỂU SỬ
Phật tử HỒNG THỂ Thương Phế Binh
Phật tử Nguyễn Thìn 31 tuổi, pháp danh Hồng Thể sanh năm 1932 tại Huế. Hồng Thể gia nhập hàng ngũ quân lực VNCH nhiều năm, cuối cùng bị thương và trở thành Thương Phế Binh.
Sau khi bị thương tàn phế, Hồng Thể về ở tại Vũng Tàu. Khi Phong trào tranh đấu của Phật-giáo đòi tự do tín ngưỡng, công bằng xã hội đối với một chính quyền tàn bạo độc tài, kỳ thị tôn giáo. Hồng Thể đã tận mắt chứng kiến sự đàn áp khốc liệt của Triều Ngô, nên đã tự nguyện thiêu thiân để phản đối hành động của một chính quyền tàn bạo đàn áp Phật-giáo, và nguyện cầu cho những nguyện vọng tha thiết của toàn thể Phật-giáo đồ Việt Nam sớm được thành tựu.
Hồng Thể tự thiêu thân vào ngày 29.9.1963 ở phía sau chùa Phước Lâm Vũng Tàu.
Trước khi tự thiêu, Hồng Thể đã để lại nhiều bức thư. Những bức thư của Hồng Thể để lại có nhiều đoạn nói lên đầy sự chân thành của một người con Phật mong muốn được sống trong công bằng xã hội và tự do tín ngưỡng.
“… tôi tự thiêu thân để phản đối chính sách tàn bạo gian ác của chính quyền thiên Chúa Giáo, đã đập phá các chùa chiền, bắt bớ, bắn giết, giam cầm tra tấn các vị Tăng Ni cùng Phật-giáo đồ và Học Sinh sinh viên …
Con đem hết lòng thành kính cầu nguyện đức Từ Phụ gia ân cho cuộc đấu tranh của Phật-giáo Việt-Nam thoát khỏi cảnh lầm than điêu đứng.”
TIỂU SỬ
Đại Đức THÍCH QUẢNG HƯƠNG
Đại Đức Thích Quảng Hương 37 tuổi, tục danh là Nguyễn Ngọc Kỳ, đạo hiệu là Bảo Châu, sanh ngày 28.7.1926 tại xã An Ninh, quận Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.
Năm 1940, anh ruột của Đại Đức xuất gia đầu Phật, nên Đại Đức thường xuyên lui tới chùa để tụng kinh sám hối và học kinh.
Năm 1943, Đại Đức xuất gia tu học, làm đệ tử của Hòa Thượng trụ trì chùa Kim Cang, Phú Yên.
Năm 1947, Đại Đức cùng với 5 vị Đại Đức khác trong xã An Đức, quận An Thành, lập Chi hội Phật học tại quận này.
Năm 1949, Đại Đức cầu Pháp và thọ Cụ Túc giới với Hòa Thượng Liểu Tôn, trụ trì chùa Quãng Sơn và nhận chức Thư Ký của chi hội Phật-giáo An Hiệp.
Năm 1950, Đại Đức đến Phan Thiết chữa bệnh. Sau khi bình phục, Đại Đức vào học tại Phật Học Viện Nha Trang.
Năm 1959, Đại Đức được Thượng Tọa Giám Viện Phật học Viện Nha Trang cử làm Giảng sư tại tỉnh Hội Phật-giáo Đà Lạt.
Năm 1961, Đại Đức được Hòa Thượng Hội Chủ cử kiêm nhiệm trụ trì và Giảng sư tại tỉnh Hội Phật-giáo Buôn Mê Thuột. Đại Đức đã ở đây cho đến ngày tự thiêu.
Vì thấy Phật-giáo bị đại nạn, nên Đại Đức phát nguyện tự thiêu vào 12:25 ngày 5.10.1963, tại bồn binh chợ Bến Thành Sài gòn, để tranh thủ cho 5 nguyện vọng chân chính của Phật-giáo.
TIỂU SỬ
Đại Đức THÍCH THIỆN MỸ
Đại Đức Thích Thiện Mỹ chờ đúng ngày 27.10.1963, cùng giờ phái đoàn điều tra Liên Hiệp Quốc trên đường tới thăm chùa Ấn Quang, thì Đại Đức tự thiêu tại công trường Hòa Bình (đối diện Vương Cung Thánh Đường Sài gòn).
Đại Đức Thiện Mỹ đã tự thiêu ngay dưới cột đèn, có gắn bảng đường Tự Do. Lúc Đại Đức mới châm lửa vào áo tẩm xăng sẵn, thì có một số đồng bào từ trong nhà thờ đi ra, và người đi đường xúm lại bao quanh lễ Ngài.
Một phút sau, cảnh sát ập lại, lấy mền đè Đại Đức ngã xuống. Nhưng ngọn lửa bùng lớn, làm cháy luôn cái mền. Cảnh sát vùng chạy, Đại Đức lại từ từ ngồi ngay dậy, chấp tay vái lạy những Phật tử bên đường đang lễ Ngài, cho đến lúc Ngài tịch diệt.
Sụ hy sinh cao cả và phi thường của Đại Đức Thích Thiện Mỹ đã gây xúc động mạnh toàn Thế giới, gây khó khăn cho chính quyền Diệm và cũng thúc đẩy phái đoàn điều tra Liên hiệp Quốc mau chóng hoàn tất nhiệm vụ, để cứu vớt Dân tộc Việt Nam.
Ngọn lửa tự thiêu thứ 8 của Phật-giáo Việt-Nam đã là ngọn lửa thiêng châm vào bể căm hờn âm ỉ trong lòng quân dân Việt Nam bùng lên dữ dội, bốc thành biển lửa cách mạng ngày 1.11.1963, đốt thiêu một chế độ tàn bạo đen tối.
Sự hy sinh của Đại Đức Thích Thiện Mỹ, quả đã đưa cuộc đấu tranh đầy nguy hiểm gian nan khổ cực của Phật-giáo Việt-Nam đến chổ toàn thiện và toàn mỹ.
(Tranh đấu sử Phật-giáo Việt-Nam)
TIỂU SỬ
Nữ sinh Phật tử NGUYỄN THỊ VÂN
Nguyễn Thị Vân 17 tuổi, pháp danh Không Gian, học sinh lớp Đệ Ngũ trường Trung Học Bồ Đề Thành Nội Huế. Nguyên quán làng La Vân Hạ, quận Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, thuộc gia đình phật tử Thành Nội huế.
Vân là học sinh hiền hậu, ngoan ngoãn nhất trong nhóm học sinh đệ ngũ; lòng tha thiết yêu đạo, yêu tự do, công lý, giàu lòng hy sinh và hăng say trong các công tác từ thiện, xã hội.
Vân đã hòa mình với quần chúng trong pháp nạn năm 1966. lòng đau khổ cùng tận, Vân đã phát nguyện tự thiêu để cảnh tỉnh chánh quyền và cầu nguyện Phật-giáo qua cơn pháp nạn.
Trước Phật đản 2 ngày, vào lúc 3 giờ sáng ngày 30.5.1966, nhằm 12.4 năm Bính Ngọ, Vân đã tự mình châm lửa thiêu trước Niệm Phật Đường Thành Nội.
Vân để lại 4 bức thư:
- 1 dâng lên Hòa Thượng Tăng Thống.
- 1 dâng lên Ngài Viện Trưởng Viện Hóa-Đạo.
- 1 gởi Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu.
- 1 gởi Quốc Hội Mỹ.
TIỂU SỬ
Đại Đức THÍCH THIỆN HUỆ
Đại Đức Thích Thiện Huệ 18 tuổi, tục danh Nguyễn Lang, pháp danh Quãng Trí, tự Thiện Huệ, sinh ngày 5.5.1948, chánh quán ấp Định Nhiên, xã An Nghiệp, quận Tuy An, tỉnh Phú Yên; Thân Phụ là Ông Nguyễn Cương và Thân Mẫu là Bà Trần Thị Giả.
Đại Đức sinh trưởng trong một gia đình nông nghiệp và đã xuất gia vào ngày 18.4.1964 tại chùa Từ Ân xã Tuy An.
Tùy thuận nhân duyên, Đại Đức đã vào tu học tại chùa Phật-giáo Tu Bòng, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa và thọ giới Sa Di vào đầu năm 1966 và Bổn sư truyền giới là Hòa Thượng Thích Thiên Sơn.
Đến năm 1966, tức năm Đại Đức 18 tuổi, vì thấy cảnh bi đát của Giáo Hội, thấy cảnh đau thương của Dân tộc, nên ngày 1.6.1966 tức là ngày 13.4 năm Bính Ngọ (Phật lịch 2510) Đại Đức châm lửa tự thiêu, tại Gò Giếng Nước Nóng ấp Tân Phước, xã Vạn Phước, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa để cầu nguyện an lành cho Dân tộc và Đạo pháp.
Trước khi tự thiêu, Đại Đức đã để lại 3 bức thư:
- 1 bức gởi cho tỉnh Giáo Hội Khánh Hòa.
- 1 bức gởi cho Bổn sư, Đại Đức Thích Từ Viên.
- 1 bức gửi cho gia đình.
Sự hy sinh cao cả của Đại Đức đã để lại trong lòng mọi người nhiều nỗi cảm kích chân thành!
TIỂU SỬ
Ni Cô THÍCH NỮ DIỆU TRI
Ni Cô DIỆU TRI 27 tuổi, tục danh là Lê Thị Hiếu, pháp danh Tâm Lương, sinh ngày 1.1.1939 tại làng Phước Mỹ, quận Triệu Phong tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là Ông Lê Văn Phò và thâm mẫu là Bà Ngô Thị Thí.
Ni Cô sinh trưởng trong một gia đình Phật-giáo thuần thành, nên từ nhỏ đã tỏ ra rất hiền hòa, hiếu thuận. Thân phụ mất sớm khi Ni Cô lên 9 tuổi.
Hấp thụ sâu đậm tinh thần Phật-giáo, Ni Cô đã có ý nguyện xuất gia từ thuở ấu thơ, nhưng không được sự chấp thuận của gia đình.
Năm 1945, tức năm lên 6 tuổi, Ni Cô đã gia nhập gia đình Phật tử. Với tinh thần sinh hoạt hăng say và là một Phật tử có nhiều khả năng đặc biệt, nên năm 1961, Ban Hướng dẫn Gia Đình Phật Tử Quảng Trị đã đề cử Cô đảm nhiệm chức vụ Uỷ viên Oanh Vũ Nữ.
Năm 1963, tức năm 24 tuổi, Ni Cô đã chính thức thí phát và quy y vào ngày 12.4.1963 tại chùa Diệu Ấn, Phan Rang và sau đó được đưa vào tu học tại Ni Viện Diệu Quang Nha Trang. Bổn sư của Ni Cô là Sư bà Đàm Hương. Ni Cô thọ Sa Di giới ngày 6.4.1965.
Ngoài việc tu học, hằng ngày Ni Cô còn đảm trách việc giáo dục con em tại trường mẫu giáo Kiều Đàm, một cơ sở Văn Hóa Giáo Dục của Giáo Hội Phật-giáo VNTN tỉnh Khánh Hòa, đặt tại khuôn viên Ni Viện Diệu Quang.
Năm 1966, vì thấy tình trạng đau buồn của đất nước và Đạo pháp, Ni Cô đã phát nguyện tự thiêu vào lúc 2 giờ sáng ngày 4.6.1966, tức là ngày 16.4 năm Bính Ngọ, trước đài Quán Thế Âm, tại Ni Viện Diệu Quang, nơi Ni Cô tu học.
Với ý nguyện chân thành, Ni Cô đã để lại 2 bức thư gởi cho Giáo Hội và cho Chính phủ, thật là tha thiết với Đạo pháp.
TIỂU SỬ
Ni sư THÍCH NỮ THANH QUANG
Ni sư Thanh Quang tục danh là Bùi Thị Lệ, sinh năm kỷ Sửư, tại Vĩnh Thanh trong một gia đình khá giả.
Năm 20 tuổi Ni sư xuất gia tu học tại Ni Viện Diệu Đức Huế. Ni sư chuyên tu về Pháp Tham Thiền, ưa làm những việc từ thiện xã hội.
Năm 1966, trước Phong trào đòi hỏi Quốc Hội Lập Hiến, đòi Chính phủ dân cử, Ni sư đã phát nguyện tự thiêu để đòi hỏi chính phủ Mỹ và chính quyền Sài gòn phải chấp thuận nguyện vọng chính đáng của Phật-giáo nói riêng, dân chúng Việt Nam nói chung.
Ni sư định tự thiêu trước tòa Lãnh Sự Mỹ, tại Huế. Nhưng hoàn cảnh không chiều theo ý muốn, nên Ni sư về chùa Diệu Đế tuyệt thực. Rồi vào lúc 3 giờ sáng ngày 26.5.1966 nhằm ngày mùng 9.4 Bính Ngọ, Ni sư tự thiêu tại chùa Diệu Đế Huế.
Ngày 16.6.1966, chính quyền đã cướp nhục thể của Ni sư đem chôn tại đồi Tam Thai gần núi Ngự Bình Huế.
Ni sư có để lại 4 bức thư:
- 1 dâng lên Đức Tăng Thống.
- 1 dâng lên Viện Hóa-Đạo.
- 1 gởi Trung Tướng Chủ tịch ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia.
- 1 Gởi Tổng Thống Mỹ.
TIỂU SỬ
Phật tử ĐÀO THỊ YẾN PHI
Phật tử Đào Thị Yến Phi 17 tuổi, pháp danh Nguyên Thường, tự Diệu Mai, sinh ngày 6.1.1948 tại Hà Đông, Bắc Phần. Thân phụ là Ông Đào Trọng Bình và thân mẫu là Bà Lê Thị Vượng, hiện cư ngụ tại Nha Trang. Thân phụ đi xa và biệt tích từ khi Yến Phi lên 10 tuổi. Thế nên Yến Phi chỉ sống với mẹ. Hai mẹ con đều là Phật tử thuần thành. Yến Phi rất ngoan và hiếu thảo.
Yến Phi được mẹ cho vào gia đình Phật tử năm 1958, với tư cách là một đoàn sinh Oanh vũ. Yến Phi sinh hoạt đầu tiên là Gia đình Phật tử Linh Thứu. Năm 1961 Yến Phi được lên ngành thiếu và chánh thức quy y Tam Bảo trong ngày Phật Đản 2506.
Yến Phi đã dự trúng cách trại huấn luyện Đội, Chúng trưởng Than Hội năm 1962, và Trại huấn luyện Sơ Cấp Lộc Uyển năm 1964. Yến Phi trở về sinh hoạt với gia đình Phật tử Chánh Quang với tư cách Đoàn Phó Oanh Vũ Nữ.
Với bản tính hiền hòa, lại được hấp thụ tinh thần Từ Bi của đạo Phật, Yến Phi luôn luôn tỏ ra là một Phật tử gương mẫu và được mọi người cảm mến.
Năm 1964, Yến Phi được 16 tuổi, vì thấy sự sống còn của Dân tộc, vì sự tự do dân chủ, vì mọi thống khổ của đồng bào, Yến Phi đã lặng lẽ phát nguyện tự thiêu để cúng dường Tam Bảo.
Thế là Yến Phi đã thực hiện ý nguyện vào lúc 14 giớ 30 ngày 26.1.1965, tức là ngày 24 tháng Chạp năm Giáp Thìn, tại trước tòa Hành chánh tỉnh KhánhH, nơi tuyệt thực của chư Tăng Ni và toàn thể Phật-giáo đồ.
Trước khi từ biệt cõi đời giã tạm, Yến Phi có để lại 3 bức thư:
- 1 bức gởi cho chư Thượng Tọa, Đại Đức tăng Ni và Phật-giáo đồ.
- 1 bức gởi cho Thủ Tướng Trần Văn Hương.
- 1 bức gởi cho mẹ.
Yến Phi đã ra đi vĩnh viễn, để mưu cầu tự do dân chủ yên lành cho Dân tộc và Đạo pháp.
Yến Phi tuy đã mất, nhưng vẫn còn sống mãi trong lòng mọi người.
TIỂU SỬ
Phật tử NGUYỄN THỊ HUỆ
Phật tử Nguyễn thị Huê tự Nguyễn Thi 17 tuổi, sinh ngày 24.9.1949 tại Sài gòn, nữ sinh lớp đệ tứ, niên khóa 1965-1966, trường Trung học Gia Long Sài gòn.
Huê chỉ có 2 mẹ con. Suốt 3 năm liền Huê ăn chay trường. Mỗi khi thấy Mẹ ăn cá thì Huê mua cá phóng sanh. Khi thấy mẹ ăn cua thì Huê mua cua thả. Mẹ hỏi sao khi con lấy tiền mua rồi thả hết? Huê thưa: Có ai chết mà đem tiền theo được đâu? Vả lại mình nuốn sống thì loài vật cũng muốn sống. Mẹ Huê nghe con nói như vậy, nên từ đó bà cũng ăn chay luôn để cho con được vui lòng.
Mẹ Huê thường may quần áo tốt cho con, nhưng Huê không thích se sua, chỉ thích mặc những bộ đồ thường đến trường.
Huê đã dự các lớp giáo lý tại Hội trường Việt Nam Quốc Tự và được giấy khen thưởng Ban Giảng Huấn của Viện Hóa-Đạo.
Đến năm 1966, vì thấy Việt Nam Quốc Tự là chổ tối cao tôn nghiêm, cũng là nơi tự do tín ngưỡng Dân tộc; Viện Hóa-Đạo là cơ quan đầu não của Phật-giáo, đều bị chánh quyền chiếm đóng, nên Huê phát nguyện tự thiêu để phản đối sự kỳ thị của chánh quyền và bảo vệ Đạo pháp.
Đến ngày 29.8.1966, mẹ Huê đã về quê, nên vào lúc 8 giờ, Huê đóng cửa ra đi để thực hiện ý định. Đầu tiên Huê đến Viện Đại học Vạn Hạnh để đóng học phí trường Thanh Niên Phụng Sự Xã hội. Sau Huê đến chùa Ấn Quang lễ Phật và xem thông cáo. Thấy bệnh trạng và hình ảnh ốm gầy của Hòa Thượng Trí Quang, Huê rất cảm động đau xót và thương tâm …!
Huê đến cô nhi viện Quách Thị Trang để thăm các em mồ côi. Đi đến đâu đều thấy cảnh tang tóc đau lòng! Nên Huê không trở về nhà và quyết định ở lại cô nhi viện.
Đến 2 giờ khuya đêm 29, rạng ngày 30.8.1966 (tức rằm tháng 7 âm lịch), Huê một mình qua vườn chùa Việt Nam Quốc Tự chế xăng rồi tự châm lửa hỏa thiêu! Không một ai hay biết.
Đến sáng ngày, có người đến cắt cỏ, thấy hoảng sợ chạy tri hô lên! … Chánh quyền liền đến lấy xác chở đi mất!...
TIỂU SỬ
Ni Cô THÍCH NỮ TRÍ TÚC
Ni Cô LÊ THỊ CÚC (La Thị Hen) pháp danh Trí Túc, 31 tuổi, sanh năm Canh Thìn. Thân phụ là Ông Lai Sinh, thân mẫu là bà Trương Anh, đều là người Trung hoa. Hai ông bà qua Việt Nam thương mãi và sanh Ni Cô trí Túc tại Sóc Trăng.
Khi 16 tuổi, Ni Cô đến công quả 4 năm tại chùa Thạch Sơn, tục gọi là Chùa Hang ở Châu Đốc.
Khi đến 20 tuổi, được thầy trụ trì chùa Lăng Ca giới thiệu lên Sài gòn giúp việc tại Cô Nhi Viện Diệu Quang 1 năm.
Sau khi giúp việc tại Cô Nhi Viện Diệu Quang 1 năm, Ni Cô được Bà cô Trà Vinh hướng dẫn và gởi gắm về chùa Bảo An Cần Thơ để làm lễ xuất gia. Sau khi xuất gia, Ni Cô được Ni trưởng Bảo An cho đến chùa Từ Nghiêm Sài gòn thọ giới Sa Di Ni và thọ giới Thức Xoa tại chùa Pháp Quang Thủ Đức.
Đến năm 1967, vì bảo vệ Hiến chương của Giáo Hội và cầu nguyện Hòa Bình cho Việt Nam, nên Ni Cô phát nguyện tự thiêu vào lúc 11 giờ ngày 3.10.1967 trước chùa Bảo An cần Thơ.
Linh cửu ni Cô được GHVNTN tỉnh Phong Dinh cùng toàn thể Tăng Ni Phật tử rất đông đảo và trọng thể đưa đi an táng vào vườn chùa Hội Linh ở tỉnh Phong Dinh.
Mặc dù ni cô đã tịch, nhưng ngọn đuốc hy sinh cao cả của Ni Cô vẫn còn cháy mãi trong lòng người.
Thơ Ni Cô TRÍ TÚC
Gởi Ni Trưởng chùa Bảo An (Cần Thơ) nói rõ nguyện vọng tự thiêu của mình để cầu nguyện Hòa Bình Việt Nam và bảo vệ Hiến chương Phật-giáo.
Cần Thơ, ngày 3.10.1970
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Thưa Sư cô,
Con xin phát nguyện tự thiêu cầu cho đất nước sớm Hòa Bình để con không thấy cảnh huynh đệ tương tàn tương sát nữa.
Con cũng cầu Tam bảo gia hộ cuộc tranh đấu bảo vệ Hiến chương của Giáo Hội Phật-giáo Việt-Nam Thống Nhất sớm được thắng lợi vẻ vang.
Sau cùng con quyết tâm tự thiêu để yêu cầu Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu sớm hồi tâm thức tỉnh thu hồi sắc luật 23/67 về Hiến chương mới.
Vì giờ quyết định đã đến, con không biết nói gì hơn nữa. Vậy con chỉ xin kính chúc Sư Cô và đại chúng tu hành tinh tấn.
Con,
THÍCH NỮ TRÍ TÚC
TIỂU SỬ
Ni Cô THÍCH NỮ TRÍ CHƠN
Ni Cô Trí Chơn 54 tuổi, nhũ danh là Nguyễn Thị Ngọc, sinh năm Giáp Dần (1913), ở làng An Bình, tỉnh Phong Dinh (Cần Thơ). Mẹ mất sớm nên Bà cô Mai Lê đem cô về nuôi dưỡng.
Lúc khôn lớn, Bà cô lại dựng lập gia đình cho cô ở Thốt Nốt và sanh đặng một đứa con gái. Vì lòng mộ đạo thúc giục nên cô thường đến chùa lễ phật nghe kinh. Nhân một dịp đến Trà Vinh, cô đi chùa gặp vị Lục Cả người Miên có tác phong đạo hạnh, cô bèn xin xuất gia. Lục dạy: nếu có gia đình, cô nên tu tại gia, bao giờ con cái trưởng thành, mới có thể chọn con đường thoát ly trần tục. Từ đấy trong thâm tâm cô mang nặng hoài bão con đường giải thoát.
Năm 1945, thực dân Pháp trở lại dày xéo quê hương. Nhìn thảm cảnh nước Việt bị chìm ngập trong khói lửa chiến tranh, cô rất đau lòng và thầm phát nguyện: non nước sớm thanh bình và toàn thể gia đình cô lớn nhỏ vẹn toàn, hồi cư về cô sẽ vào chùa làm công quả 3 năm.
Như nguyện, nên sau ngày hồi cư, cô đến chùa Bảo An ở Phong Dinh (Cần Thơ) xin làm công quả.
Qua thời gian sống ở cửa thiền, lòng mộ đạo càng thâm, cô quyết theo con đường duy nhất đã chọn từ lâu, nên xin Ni Trưởng, Trụ trì chùa Bảo An xuất gia thọ giới và được pháp danh là Trí Chơn. Và người con gái của cô cũng theo Mẹ xuất gia, nên cũng được Ni Trưởng cho pháp danh là Trí Định.
Cô Trí Chơn xuất gia năm 43 tuổi (1956), thọ Sa Di giới, được Ni Trưởng Bảo An cho về ở chùa Quan Âm, Sa Đéc thuộc hộ Tân Hưng. Sư cô Trí Chơn chuyên trì tụng kinh Pháp Hoa và thường đến giúp các chùa hội trong các dịp lễ. Cô thường bảo thầm:
“Tôi nguyện xã thân vì đạo”
Đến năm 54 tuổi (1967), cô thấy Phật-giáo đang bị ngoại bang ly gián để lung lay nền thống nhất, nên cô quyết đòi chính quyền phải trả lại Hiến chương 05/66 cho Giáo Hội, do xương máu của Tăng Ni và Phật tử tạo ra. Cô nguyện noi gương các Thánh Tử Đạo, đem thân làm đuốc, để cảnh tỉnh cường quyền dùng bạo lực đàn áp Phật-giáo và những kẻ tham danh lợi, đem tâm phản Đạo.
Trước khi từ giã cõi đời ô trược, Ni Cô để lại 3 lá thư:
- Gởi cho chính quyền đương thời.
- Gởi Thượng Tọa Tâm Châu.
- Gởi GHPGVNTN Ấn Quang.
Đến 11 giờ đêm, năm Đinh Mùi (1967), Cô tự thiêu tại hậu Tổ chùa Quan Âm. Cô để Đức Quan Thế Âm Bồ Tát trước mặt và chấp tay ngồi kiết già, rồi viên tịch trong lửa đỏ!
Linh cửu của Cô,được GHVNTN tỉnh Sa Đéc, toàn thể Tăng Ni Phật tử cử hành mai táng rất trọng thể.
Giờ đây nhục thân Ni Cô đã vùi sâu vào lòng đất, nhưng tên tuổi Ni Cô hãy còn ghi đậm nét son trong quyển sử vàng của Phật-giáo.
TIỂU SỬ
Ni Cô THÍCH NỮ HUỆ LẠC
Ni Cô Huệ Lạc 22 tuổi, tục danh là Lê Thị Hậu, sanh năm 1945 tại Hội An (Quảng Nam).
Năm 1965, Ni Cô xuất gia tại chùa Tây Hưng tỉnh Sa Đéc.
Năm 1966, Ni Cô Huệ Lạc đến ở tại chùa Viên Giác, xã tây Sơn Hòa, Gia Định. Nhờ sự tận tâm chỉ giáo của Đại Đức Hồng Tịnh, Trụ trì chùa Viên Giác, nên Ni Cô rất tiến bộ cả hai phương diện tu và học.
Đến năm 1967, Ni Cô thọ giới Sa Di Ni tại chùa Pháp Quang Cholon.
Để bảo vệ Hiến chương của GHPGVNTN, nên ngày 22.10.1967, Ni Cô Huệ Lạc đã tự thiêu trước sân chùa Viên Giác.
Nhục thể của Ni Cô bị chính quyền tỉnh Gia Định đem đi mai táng (Đại Đức Hồng Thịnh, Trụ trì chùa Viên Giác biết chổ).
Hình ảnh Ni Cô Huệ Lạc tuy đã đi vào quá khứ, nhưng tinh thần bảo vệ Đạo pháp của Ni cô vẫn còn hiện mãi trong lòng Phật tử.
TIỂU SỬ
Đại Đức THÍCH HẠNH ĐỨC
Đại Đức tên là Trần Văn Minh, 19 tuổi, tự Thị Hoàng, pháp danh Hạnh Đức, pháp hiệu là Thanh Bình, sinh ngày 2.3 năm Mậu Tý, nhằm Thứ 7 ngày 10.4.1948 tại xã Bình Đức, quận Bình Sơn, tỉnh Quãng Ngãi.
Xuất thân trong một gia đình Nho giáo có tín ngưỡng Phật-giáo. Lúc nhỏ Đại Đức tính tình nhu hòa, thuỳ mị, vốn có thiện căn và theo học trường làng từ lúc lên 10, được Thầy thương bạn mến. Khi lớn lên, thiện căn cũng dần tăng trưởng, có nhiều nghi vấn về cuộc đời, khiến Đại Đức luôn luôn suy gẩm. Mọi diễn biến của vạn hữu, là mối bất công đau khổ đè nén lên con người, tạo thiện duyên cho Đại Đức tầm Sư học Đạo.
Đại Đức từ bỏ tất cả sự âu yếm mến chuộng của gia đình bà con thân thuộc, xa lánh tất cả những gì mà Đại Đức cho là vô thường, khổ não, vô ngã, … chỉ quyết tâm đi tìm con đường giải thoát. Đại Đức xuất gia đầu Phật vào năm 1959, quy y với Thượng Tọa Thích Huyền Đạt, Tọa chủ chùa Viên Giác Thanh Sơn (núi Thình Thình thuộc hạt Sơn Tịnh và Bình Sơn).
Từ ngày Đại Đức tự nguyện khép mình vào khuôn khổ Thiền gia, lấy tương dưa rau muối làm phương tiện độ nhật; chí công tham học với Bổn sư những khuôn vàng thước ngọc và những lời di giáo vô thượng của Đức Thế Tôn. Ngoài ra, Đại Đức cũng thể hiện hạnh nguyện “hữu tác hữu thực, vô tác bất thực” trong công tác nông thiền ở miền đồi Viên Giác.
Đến năm 1965, vì sự đòi hỏi cần thiết ở khả năng hiểu biết của người tu sĩ Phật-giáo, tương ứng với đà tiến hóa của nhân loại hiện thời, trong việc hoằng hóa lợi sinh, nên Đại Đức đã được Bổn sư cho về Trụ trì chùa Giáo Hội Tỉnh, để theo học Ngoại Điển ở Trường Trung học Bồ Đề.
Năm 1966, Đại Đức đã thọ Sa Di giới tại chùa Hội Phước Quảng Ngãi.
Đến năm 1967, trước cảnh bất công đàn áp Phật-giáo của chính quyền đương thời, Đại Đức đã phát nguyện tự thiêu trước chùa Giáo Hội Tỉnh vào ngày 31.10.1967 để phản đối sắc luật phi pháp 23/67.
Nhục thân Đại Đức tuy mất nhưng gương “vị pháp vong thân” của Đại Đức vẫn còn sáng chói muôn thuở.
TIỂU SỬ
THÍCH NỮ THÔNG HUỆ
Ni Cô Thông Huệ 30 tuổi, tục danh là Nguyễn Thị Lộc Đài, pháp danh là Hạnh Phước, Pháp tự là Thông Huệ, sinh ngày 3.4.1937 tại quận Bồng Sơn, tỉnh Bình Định. Thân phụ là Ông Nguyễn Văn Sinh và thân mẫu là Bà Trần Thị Bảy.
Ni Cô sinh trưởng trong một gia đình lễ giáo, thấm nhuần tinh thần Phật Pháp. Từ thuở nhỏ Ni Cô đã là một người con hiếu thuận, một nữ sinh gương mẫu và là một Phật tử thuần thành chân chính.
Tuy là một người con gái độc nhất trong gia đình, mẹ mất sớm, Ni Cô phải lo lắng mọi việc trong gia đình, nhưng Ni Cô vẫn không từ bỏ việc học và tham gia Phong trào Gia Đình Phật tử. Trước khi xuất gia tiến hành trên con đường đạo nghiệp, Ni Cô đã là một chị trưởng có khả năng và rất nhiều tâm huyết.
Năm 14 tuổi, Ni Cô quy y với Ngài Huyền Ân tại chùa Hội Quang, quận Bồng Sơn, tỉnh Bình Định. Nhờ thâm nhập tinh thần Phật Pháp, Ni Cô đã xin phép thân phụ xuất gia vào năm 18 tuổi và vào Nha Trang thọ giới với Ni sư Thích Nữ Tâm Đăng ở chùa Linh Sơn Cầu Đá.
Sau 5 năm tu học, năm 23 tuổi, Ni Cô có thọ giới Sa Di Ni và được Bổn sư cho vào tu học tại Ni Viện Từ Nghiêm. Với sự tu học tinh tấn và có nhiều khả năng đặc biệt, Ni Cô đã được thọ Thức Xoa Ma Na tại Ni Viện Từ Nghiêm Sài gòn.
Pháp nạn năm 1963, trước sự thống khổ của tín đồ và nguy ngập của Đạo pháp, Ni Cô đã phát nguyện tự thiêu, nhưng ý nguyện không thành vì Bổn sư không chấp nhận.
Pháp nạn năm 1967, để cảnh tỉnh những người phản bội Đạo pháp và Dân tộc, cùng sự mê muội của chính quyền đã ngoan cố, cướp đoạt Hiến chương của Giáo Hội, Ni Cô đã châm lửa tự thiêu vào lúc 19:20 ngày 1.11.1967, tức là ngày 29.9 năm Đinh Mùi bên cạnh chùa Tỉnh Giáo Hội Khánh Hóa trên đường lên Kim Thân Phật Tổ.
Huyễn thân tuy mất, nhưng “Gương Hy Sinh Bảo Vệ Đạo pháp” của Ni Cô vẫn còn chiếu sáng nghìn thu!.
TIỂU SỬ
Phật tử NHỨT CHI MAI
Nữ Phật tử Phan Thị Mai tự Nhứt Chi Mai hay Nhất Chi, pháp danh Diệu Huỳnh 33 tuổi, sanh ngày 20.2.1934 tại Thái Bình tỉnh Tây Ninh. Thân phụ là Ông Phan Duy Mỹ, thân mẫu là bà Nguyễn Thị Duyệt, ngụ tại nhà số 60/59 đường Yên Đỗ Sài gòn.
Năm 1955, Nhất Chi Mai thi đậu vào trường Quốc Gia Sư Phạm Sài gòn, Mai vừa làm một cô giáo lớp bổ túc hạng tư, dạy lớp nhì A, trường Tiểu học Công lập ở Tân Định vừa tiếp tục đi học và thi đậu tú tài toàn phần.
Nhất Chi Mai quy y ở chùa Từ Nghiêm, một Phật tử thuần thành mến đạo yêu đời, rất say mê với giáo lý đạo Phật, tích cực tham gia vào các công tác Phật sự, hằng tuần đến chùa Dược Sư và chùa Từ Nghiêm dạy giúp cho các Ni Cô về môn Thế Học. Nhất Chi Mai vừa là một sinh viên của Đại học Vạn Hạnh vừa là sinh viên Văn Khoa của Đại Học Sài gòn.
Lễ Phật Đản 2511 (1967), GHPGVNTN lập lễ Đài Hòa Bình tam cấp (Hữu Chiến, Thương Thuyết và Hòa Bình) tại chùa Ấn Quang, cử hành trọng thể một tuần lễ Hòa Bình cho Việt Nam.
Vì thiết tha với Hòa Bình, nên Phật tử Nhất Chi Mai phát nguyện đem thân làm đèn, đốt lên làm lễ khai mạc tuần lễ cầu nguyện Hòa Bình của Giáo Hội, vào lúc 7:30 sáng ngày mùng 8.4 Đinh Mùi (nhằm ngày 16.5.1967) tại chùa từ Nghiêm đường Bà Hạt Cholon. Ánh lửa hào hùng của một Phật tử yêu nước, đã nói lên lòng đau xót quê hương với nguyện vọng thiết tha Hòa Bình.
Trước khi đem thân làm đuốc, cầu nguyện Hòa Bình cho Việt Nam, Nhất Chi Mai đặt trước mặt hai ngôi tượng, rồi chắp tay quỳ trước mặt tượng Đức mẹ Maria và Đức Quan Thế Âm Bồ Tát thể hiện cho tình thương trên cõi đời này.
Nhất Chi Mai muốn ánh lửa hỏa thiêu để nói lên tình thương yêu con người đã biến mất trên quê hương đau khổ này từ một phần tư thế-kỷ nay.
Sau lưng Nhất Chi Mai có một tấm vải trắng viết mấy hàng chữ đen:
“Con chấp tay quỳ xuống
“Xin Đức Mẹ Maria
“Đức Quan Thế Âm, Phổ Hiền
“Cho con tròn đại nguyện
Và
“Xin đem thân làm đuốc
“Xin soi sáng u minh
“Xin tình người thức tỉnh
“Xin Việt Nam Hòa Bình
Ký tên: Nhất Chi Mai tự Nhất Chi Diệu Huỳnh.
LỜI TRĂN TRỐI
CỦA NGƯỜI YÊU VIỆT NAM
Việt Nam, Việt Nam ơi!
Nghe chăng lời trăn trối
Của người yêu Việt Nam:
Yêu tiền nhân cách mạng,
Yêu lứa tuổi hai mươi,
Yêu cô nhi, quả phụ,
Yêu thương nhân, tù đày,
Yêu khắp dãy non sông,
Yêu từng giọt máu hồng,
Cả người hiền kẻ dữ!
***
Việt Nam, Việt Nam ơ!
Sao cứ mãi hận thù?
Sao bắn giết mà vui?
Thắng rồi ai thua đó?
Vinh nhục này ai mang?
Bỏ danh từ nhã hiệu,
Chúng mình người Việt Nam.
Chúng mình người Việt Nam,
Chơn thành tay mình nắm,
Quê mình lo nước non,
Việt Nam, Việt Nam ơi!
Người tự thiêu để cầu Hòa Bình
Thích nữ NHẤT CHI MAI tự Nhất Chi
Sinh viên Việt Nam
Phật Đản 2511 (25.4.1967)
Chấp tay tôi quỳ xuống
Sao người Mỹ tự thiêu?[1]
Sao thế giới biểu tình?
Sao Việt Nam im tiếng?
Không dám nói Hòa Bình?
Tôi thấy mình hèn yếu!
Tôi nghe lòng đắng cay!
Sống mình không thể nói
Chết mới được ra lời!.
Hòa Bình là có tội!
Hòa Bình là Cộng sản!
Tôi vì lòng nhân bản,
Mà muốn nói Hòa Bình.
Chấp tay tôi quỳ xuống
Chịu đau đớn thân này
Mong thoát lời thống thiết!
Dừng tay lại “NGƯỜI” ơi!
Dừng tay lại “NGƯỜI” ơi!
Hai chục năm hơn rồi,
Nhiều máu xương đã đổ,
Đừng diệt chủng dân tôi!
Đừng diệt chủng dân tôi!
Chấp tay tôi quỳ xuống.
Người tự thiêu cầu Hòa Bình Việt Nam
Thích nữ NHẤT CHI MAI tự Nhất Chi
Sinh viên Văn Khoa
Mùa Phật Đản 2511 (05/1967)
BỨC THƯ NGỎ
GỞI HAI CHÍNH PHỦ NAM BẮC VIỆT NAM
Dưới đây là bức thư của Nhất Chi Mai
Gởi hai chính phủ Nam Bắc Việt Nam
Trước khi tự thiêu ngày 16.5.1967
Kính thư quý Ngài,
Là công dân Việt Nam, tôi có trách nhiệm với lịch sử Dân tộc và có bổn phận với quốc gia Việt Nam tôi.
Tôi tưởng tôi có quyền nói lên ước nguyện của tôi về quê hương tôi chứ?
Mà các Ngài đâu có cho tôi nói, dù tôi ở trong vùng đất “TỰ DO”. Cho nên tôi xin chết để được các Ngài nghe giùm tiếng kêu bi thiết của tôi, của đa số những người dân không quyền thế, cổ ngắn trời cao.
Xin các Ngài cho tiếng nói sau cùng của tôi, được truyền đi khắp nơi. Một dịp quý Ngài trưng cầu dân ý: nên Hòa hay nên Chiến, để hành động vì dân, do dân như quý Ngài thường tuyên bố.
Xin can đảm mà nghe Dân, dù lòng dân không phù hợp với ý của Quý Ngài.
Người dân đen chúng tôi không cần chủ nghĩa, không cần danh từ, chúng tôi chỉ mong sống yên lành và hùng mạnh.
Mà hiện trang đất nước, dưới quyền sanh sát của quý Ngài, thì ngược lại, …
Quý Ngài được viện trợ đủ thứ vũ khí tối tân, cầu cạnh hằng triệu người ngoại quốc về đây sát hại đồng bào để bảo vệ cho chủ nghĩa đep(!) và danh từ suông của quý Ngài.
Một bên thì tham vọng, một bên thì hận thù, quý Ngài ngồi yên trong nhà cao cửa kín, tha hồ mà gào to thét lớn, có biết đâu nỗi khổ đau tột cùng của đám dân đen chúng tôi.
Hỡi miền Nam, có thấy sự bất công và yếu kém của mình không? Có thấy xã hội mình xuống dốc thế nào chăng? Có thấy tai hại của kết quả ngoại viện không?
- Xin sáng suốt tìm ra lối thoát cho Việt Nam.
- Xin thương thuyết chấm dứt chiến tranh.
- Xin số phận Việt Nam do người Việt Nam định đoạt.
- Xin gỡ hết danh từ, nhãn hiệu mà đoàn kết thương yêu.
Hàng triệu sinh mạng Việt Nam, Hoa Kỳ chờ đợi sự công bằng về nhân ái của quý Ngài.
Trang sử Việt Nam lật sẵn, chờ đợi quý Ngài ghi vào đấy nét son.
Khẩn thiết cầu nguyện
Người tự thiêu cầu Hòa Bình (cẩn ký)
Thích Nữ NHẤT CHI MAI tự Nhất Chi
SINH VIÊN VIỆT NAM
BỨC THƯ NGỎ CỦA NHẤT CHI MAI
KÍNH GỞI CHÍNH PHỦ HOA KỲ QUA TỔNG THỐNG JOHNSON
Kính thưa Quý Ngài,
Là một thiếu nữ tầm thường, tài hèn sức kém, tôi quá xót thương về hiện trạng quê hương tôi.
Sáo ngữ “Bảo vệ tự do và hạnh phúc” cho Việt Nam mà quý Ngài dùng làm chiêu bài bấy lâu nay, đã quá lỗi thời và lố bịch.
Bao nhiêu tấn bom đạn, bạc tiền quý Ngài đã đổ trút lên Dân tộc tôi, để tàn phá tinh thần và thân xác quốc gia của họ.
Bao nhiêu người Việt Nam có lòng với quốc gia và Dân tộc thì bị quý Ngài đàn áp hãm hại?
Bao nhiêu người Mỹ sáng suốt, nhân đạo và dũng cảm dám chỉ trích sự lầm lạc của quý Ngài, thì bị quý Ngài kết án lưu đày.
Vậy mà Hạnh phúc, Tự do!
Quý Ngài có biết người Việt chúng tôi, hầu hết trong thâm tâm của họ, họ chán ghét người Mỹ đã mang chiến tranh đau khổ đến cho xứ sở của họ lắm rồi chăng?
Càng leo thang chiến tranh, càng đổ nhiều nhân lực và tài lực tại đây, các Ngài chỉ thất bại chua cay thôi. Sự vụng về (?) của quý Ngài làm cho quý Ngài mất hết chính nghĩa.
Xin đọc lại trang sử Việt Nam.
Xót thương cho Dân tộc tôi, tội nghiệp cho những người lính Mỹ và thân nhân họ. Họ bị xô vào cuộc chiến tranh phi lý và bỉ ổi. Người ta đã dùng mỹ từ để đầu độc họ.
Vinh dự gì cho người Mỹ, nếu trên 20 năm mới chiến thắng Việt Nam bé nhỏ chút chiu này?
Nhục nhã gì cho người Mỹ, nếu biết nhận thức mình là đại cường quốc, có lúc đi quá trớn và giờ muốn dừng lại?
Để cứu nguy cho hàng triệu sinh mạng người Việt Nam, người Hoa Kỳ và danh dự đại cường Hiệp Chủng Quốc, tôi xin mạo muội đề nghị các biện pháp sau:
1. Ngưng oanh tạc Bắc Việt và Nam Việt Nam.
2. Từ từ rút binh, giao cho người Việt Nam định đoạt số phận họ.
3. Nhờ Liên Hiệp Quốc kiểm soát tổng tuyển cử. Người Việt Nam nếu được tự do thật sự, họ đủ khôn ngoan để chọn lựa chế độ nào tự do và hạnh phúc.
4. Giúp đỡ nhân dân Việt Nam, tái thiết xứ sở họ, đã tan nát vì bom đạn của quý Ngài. Người Việt Nam sẽ là người em nhỏ hiền hòa và biết ơn người anh Mỹ sáng suốt hào hiệp.
Lịch sử Việt Nam, lịch sử Hoa Kỳ và lịch sử Thế Giới sẽ ghi nhận hành động Văn minh và nhân bản của quý Ngài.
Cẩn ký
Người tự thiêu để chống chiến tranh
Thích nữ NHẤT CHI MAI tự Nhất Chi
SINH VIÊN VIỆT NAM
TÔI KHÔNG BIẾT CÁCH NÀO
GỬI NHÂN DÂN VIỆT NAM
- Tôi không biết cách nào thoát ra tiếng kêu đau thương của Dân tộc tôi, suốt 20 năm của nạn nhân của tham vọng và hận thù!
- Tôi không biết cách nào làm cho người Việt Nam ruột thịt tôi nhận được con người cùng nguồn gốc, cùng tương lai vinh nhục mà Yêu Thương mà Quý Trọng máu xương và sự đau khổ của nhau,
- Tôi không biết cách nào làm cho người Việt Nam dữ hóa hiền, thù thành bạn, không phân biệt màu da, tín ngưỡng, đảng phái, cho Tình Thương và Trí Tuệ đến với họ: họ thôi say máu, cuồng tín và bất công.
- Tôi không biết cách nào Tình thương chân thành của Tôi đối với tất cả và ước muốn Hòa Bình của tôi cho quê hương, không bị hiểu lầm hay cố tình phủ nhận.
TÔI TỰ NGUYỆN THIÊU THÂN
Cầu xin:
- Cái chết của tôi được hiểu là:
- Cho nền Hòa Bình Dân tộc
- Cho lòng Nhân Đạo và Công Bằng như cái chết của Morrison và Hòa Thượng Thích Quảng Đức.
Cầu xin:
- Ngọn lửa thiêu đốt thân tôi sẽ làm dịu bớt tham vọng và hận thù đã xô không biết bao nhiêu người vào hỏa ngục linh hồn và gây không biết bao nhiêu tang tóc cho sinh linh.
Cầu xin:
- Nhân thế rồi sẽ tắm mát trong dòng suối ngọt ngào của đức Từ bi của Đức Phật, Bác ái của Đức Chúa và tình nhân đạo của con người.
Lạy Đức Phật
Lạy hồn thiêng đất nước chứng minh.
Người tự thiêu:
Thích nữ NHẤT CHI MAI tự Nhất Chi
Sinh viên Văn Khoa Sài gòn.
BỨC TÂM THƯ
của NHẤT CHI MAI
Sao tôi bỏ mẹ cha khi tuổi già.
Mà tôi muốn đời đời trọn hiếu?
Sao tôi không tiếp tục vui sống đời lý tưởng
Đi gieo rắc tình thương …!
Sao tôi không sống yên trong vùng đất tự do
Với cuộc đời trưởng giả: xe hơi, nhà lầu.
Người ơi nghe tôi nói: Tôi yêu! Tôi buồn?
Dân tộc tôi!
Tôi muốn làm ánh đuốc, le lói trong đêm đen!
Đêm đen!
Mà chứng minh hiện hữu, sự có mặt “Con người”.
Tôi đi đầu cuối xuống. Người ta nghĩ sao?
Nghĩ sao!
Mỉm cười
Tôi yêu quê hương. Tôi yêu tất cả.
Dù cường hào? Ác bá, dù Thiên Chúa, Cao Đài
Dù Mỹ, Phi, Gia, Cọng … thì cũng con người.
Con người như tôi.
Người ơi tôi muốn nói:
Tôi yêu đất nước tôi, từ khi mới ra đời.
THÍCH NỮ NHẤT CHI MAI
Tự thiêu cầu Hòa Bình
Kính gởi: Quý Thượng Tọa Lãnh đạo Phật-giáo Việt-Nam
Kính bạch quý thầy,
Con là một nữ Phật tử Việt Nam
Con yêu đạo Phật và yêu Dân tộc Việt Nam
Phật dạy con xã thân cứu đời và làm hơn nói
Đất nước mình khổ đau như vầy
Tham vọng và hận thù hoành hành khắp quê hương
Uất hận và khổ đau dâng khắp trời
Con không thể ngồi yên tụng kinh và nghe thuyết pháp được
Con xin đốt thân con
Bắt chước Hoà Thượng Quảng Đức và Giáo sư Morrisson (Mỹ) con xin đem sinh mạng mình để kêu gọi tình thương và công bằng.
Không biết kết quả rồi sẽ ra sao, nhưng hạnh nguyện Phổ Hiền và Quan Thế Âm được tròn đầy là con vui sướng.
Con lạy quý Thầy xin thương Phật, thương chúng sanh cứu thế hiện tiền.
Trang sử Việt Nam và Phật-giáo chờ đợi quý Thầy khai bút.
Bái thư
Thích nữ NHẤT CHI MAI tự Nhất–Chi
Sinh viên Việt Nam-Phật lịch 2511
Thơ Nhất Chi Mai gởi lại Cha Mẹ
Lạy Mẹ Cha
Con bất hiếu dập đầu cuối lạy
Xin Mẹ Cha tha tội lớn lao này
Cha Mẹ già chưa báo đáp thâm ân
Con vội sớm lìa đới gây khổ lụy
Mẹ Cha ơi, việc làm này con tự ý
Phải đâu vì chán ngán cuộc trần ai
Bởi thương dân, thương nước, thương nhân loài
Con chịu chết, mong thoát lời thống thiết
Cơn quốc biến mình ngồi yên rên siết
Biểu đồng tình cuộc chém giết dã man
Bên Mẹ Cha, bên nhân loại hai đàng
Con chọn một, đàng nào con cũng khổ
Là con Phật, con ước nguyền cứu độ
Dù biết rằng “thành sự tại thiên”.
Con tự sát vì mang tâm Bồ Tát.
Xin cầu nguyện cho hồn con siêu thoát
Chở ưu phiền bi lụy việc riêng mình
Cõi đời này việc sống chết thường tình
Xin lấy Trí lấy Đạo làm phương thuốc.
Con gái Ba Má kính lạy
Phan Thị Mai tức Thích Nữ Nhất-Chi-Mai
Tự Nhất Chi Pháp danh Diệu-Huỳnh
LỜI TỰ THUẬT SAU CÙNG CỦA NHẤT CHI MAI
Tôi viết tất cả 10 bức thơ để lại. Ngày mai tôi sẽ lo lắng một mình tôi buổi lể tự thiêu. Tôi cho các nhà báo, nhiếp ảnh hay và một ít bạn thân đến nơi tôi dự định mà không cho họ biết trước chuyện gì sẽ xảy ra.
Tôi mua 10 lít xăng. Địa điểm tôi chọn là chùa Từ Nghiêm. Tôi có ý đến Nhà Thờ Đức Bà hay một nơi công cộng có tính cách lịch sử một chút, mà thôi.
Phía trước mặt tôi tôi đặt hai bức tượng:
- Đức mẹ Maria với hai bàn tay đưa ra
- Đức Quan Thế Âm với đôi mắt dịu hiền
Cả hai nhìn tôi và ban ơn cho tôi tròn ước nguyện. Truớc mặt và sau lưng có hai biểu ngữ, tôi viết:
“Con chấp tay quỳ xuống
“Xin đức Mẹ Maria
“Đức Quan Âm, Phổ Hiền
“Cho con tròn đại nguyện
và
“Xin đem thân làm đuốc
“Xin soi sáng u minh
“Xin tình người tỉnh thức
“Xin Việt Nam Hòa Bình.
Cầu xin cho tôi can đảm, bình tỉnh mà ngôi yên trong lửa đỏ.
Tôi quỳ xuống chấp tay niệm Phật và thầm gọi “Việt Nam”.
Người tự thiêu cầu cho Hòa Bình Việt Nam
Thích nữ NHẤT CHI MAI tự Nhất Chi
Pháp danh Diệu Huỳnh
Sinh viên Đại Học Văn khoa Sài gòn
Sinh viên Đại học Vạn Hạnh
THƠ CUỐI CÙNG CỦA NHẤT CHI MAI
Gửi lại Song Thân
Sài gòn ngày 15 tháng 5 năm 1967.
Kính lạy Ba má,
Ai cũng một lần chết. Xin Ba má làm đại thí chủ cho con chết cho tình thương rộng lớn.
Con không điên rồ dại dột dù không chắc mình làm được việc lớn. Một mạng con không hy vọng gì cứu được hàng triệu người? Bên Mỹ đã 6 người tự thiêu mà không lay chuyển được tấm lòng sắt đá của một số người chủ chiến, những người làm giàu trên xương máu người khác hay muốn cho người khác hy sinh để giữ gìn sản nghiệp, sự yên ổn và sự ích kỷ của mình!
Cái thang cao quá, mỗi người có lòng tự nguyện leo theo một bậc.
Con đường dài mà gai chông quá, mỗi người nhân bản phải đi một đoạn đường gai chông, tiếp nối bằng cách này hay bằng cách khác, mới mong hết được đường dài …
Có thể người ta sẽ bôi nhọ cái chết của con, hay họ sẽ chỉ tản lờ đi để cho cái chết của con trở thành vô ích và âm thầm.!
Mà có sao. Ba Má đừng cần việc đó. Đức Phật sáng suốt hơn họ. Đời này có những kết quả mà nhục nhân thế nhân không thấy được.
Con biết kết quả đẹp cho Việt Nam Hòa Bình không chắc con làm được, nhưng hậu quả làm buồn Ba má thì chắc chắn là có rồi.
Con lạy Ba Má
Xin sáng suốt và bình tỉnh-năm người con Ba Má cho đi một người cho nhân loại. Nếu như viên đạn vô tình thời đao loạn làm mất đi Ba Má một đứa con, có phải là oan uổng công lao của Ba Má không?
Con tu đấy, con hành đạo Bồ Tát mà con hằng thề nguyện đấy!
Con tin Ba Má đủ Bi Trí Dũng mà hiểu con và mừng cho con.
Có phải sống hoài hủ hỉ với Ba Má lo cho riêng mình Ba Má, mà chút ít việc từ thiện là đủ rồi đâu? Con làm như vầy công đức về Ba Má không ít và không chừng sau cái chết của con Ba Má tiến tu không ít.
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Con mất đi mà cũng như còn vậy nghen Ba Má.
Dằn bớt đau khổ, vui lòng hiến con cho Đại Nguyện, là Ba Má không buộc tội con với Phật Trời, không làm đau lòng con nơi chín suối.
Phần Ba Má xin tiếp tục giùm con những công việc ở thế gian là: Tu-Hành.
Tức là Ba Má, phải tu tâm dưỡng tánh nhiều nhiều hơn nữa và làm phước thiện suốt những ngày còn lại của Ba Má. Có như vậy mới thật sự thương con và cho con thêm công đức.
Đất ở P.N.T.A., nữ trang của con, Ba Má bán hết đi, và xin cho con một phần. Phần ấy chia cho những người sau đây…
Số tiền còn lại của Ba Má và của con, Ba Má để dành một phần dưỡng già và một phần làm phước thiện (chùa, các cô nhi viện, nhà thương, lao tù, nhà nghèo, …)
Đừng tiếc, đời này có cái gì mình giữ mãi được đâu, cả con cái mình, cả thân mạng mình không còn giữ được huống gì bạc tiền và sản nghiệp. Đừng xài vô lối thì thôi.
Thi hài con, Ba Má mua một cái hòm thường thường đem lên Từ Ngjiêm để đó tụng kinh rồi đưa ngay lên An dưởng địa hỏa táng. Coi con có “Xá Lợi” không. Dám lắm à nghen–Chơi chứ không sao đâu Ba Má. Con không mù quáng và cuồng tín đâu. Con sáng suốt lắm.
Xin nghe lời con và tha tội cho con.
Hôn Ba má thật nhiều!
Con của Ba Má kính lạy.
[1] Giáo sư Morrison.
TIỂU SỬ
Thượng Tọa THÍCH THIỆN LAI
Thượng Tọa Thích Thiện Lai, tục danh là Bùi Đình Tần, sinh năm Đinh Dậu (1896) tại tỉnh Nam Định, thuộc miền Bắc Việt Nam.
Thượng Tọa sinh trưởng trong một gia đình Nho Giáo, thuộc hàng trung lưu. Nhờ sự uốn nắn trong gia đình đạo đức nên Thượng Tọa sẵn có một tâm hồn mến Đạo yêu đời.
Đến năm 1955, nhân đến chơi nhà một người bạn, Thượng Tọa nghe tiếng tụng kinh của một ông sư rất là thanh thoát, khi trầm khi bổng, lúc nhạc lúc khoang, với tiếng mỏ kêu sương, tiếng chuông ngân nga vi diệu, làm cho tâm hồn Thượng Tọa rất thích thú say sưa và có cảm nghĩ như mình được đến cửa Phật.
Từ đó Thượng Tọa bổng nhiên phát tâm mộ đạo và quyết chí xuất gia, lúc bấy giờ Ngài đã đúng 59 tuổi.
Chọn Minh sư để học đạo, Thượng Tọa đến chùa phổ Quang xã Phú Nhuận, gia Định, thọ giáo với Hòa Thượng Hải Tràng (một vị Trưởng Lão trong hội Đồng Trưởng Lão của Viện Tăng Thống).
Tuy xuất gia tuổi muộn, nhưng Thượng Tọa tinh tấn tu hành, kiên tâm trì chí lo vun bồi quả phúc, đáng làm gương cho hậu thế.
Đến năm 1963, Thượng Tọa hăng hái tham gia Phong trào tranh đấu của Phật-giáo, để chống lại chính sách kỳ thị tôn giáo của nhà Ngô. Thượng Tọa đã phát nguyện tự thiêu, nhưng chưa đủ duyên để thực hiện ý nguyện.
Đên năm 1968, được Bổn Sư cho phép, nên Thượng Tọa ra Vũng Tàu lập một ngôi tịnh xá để tu hành, lấy hiệu là “Bình Minh”.
Đã lâu ngày xa chùa, xa Thầy Tổ và xa Tăng chúng nên Thượng Tọa từ Vũng Tàu về gia Định thăm chùa, thăm Bổn Sư và Thiện hữu. Có lẽ cũng là một lần cuối, Thượng Tọa từ giã mọi người trước khi ra đi … vĩnh biệt!
Thế rồi, vào lúc 4 giờ 15 phút ngày 11.6.1970, nhân Mùng 8 tháng 5 Canh Tuất, trong lúc chúng Tăng đang còn yên giấc, Thượng Tọa vẫn an nhiên ngồi tịnh tọa trong lửa đỏ, dưới gốc cây Bồ Đề, trước chùa Phổ Quang, Phú Nhuận để cầu nguyện “Hòa Bình cho Việt Nam”.
Linh cửu Thượng Tọa quàn tại chùa Phổ Quang. Suốt cả mấy ngày đêm, Tăng Ni và đồng bào Phật tử xa gần đến tụng niệm và phúng điếu không ngớt.
Viện Hóa-Đạo và Ban Đại Diện GHPGVNTN tỉnh Gia Định hợp cùng Đại Đức Trụ trì chùa Phổ Quang tổ chức tang lễ rất trọng thể.
Đám Ngài, số người đưa đi gần bốn cây số ngàn, và cả mấy trăm chiếc xe lớn nhỏ đủ loại. Nào Tăng, Ni Phật tử và đồng bào nghiêm trang đi bộ, đưa Thượng Tọa từ chùa Phổ Quang đến An Dưỡng Địa, gần mười cây số ngàn.
Sau khi Trà tỳ, Linh cốt và Di ảnh của Thượng Tọa được rước về thờ tại chùa Ấn Quang, trụ sở tạm của GHPGVNTN.
Trước khi từ giã cõi Ta Bà, Thượng Tọa có để lại 3 bức thư:
- 1 dâng lên Hột Đồng Viện Hóa-Đạo.
- 1 dâng lên Hòa Thượng Bổn Sư.
- 1 gởi Tổng thống Việt Nam Cộng hòa.
Phú Nhuận ngày 10 tháng 06 năm 1970
Kính gởi : THƯỢNG TỌA VIỆN TRƯỞNG
Cùng HỘI ĐỒNG VIỆN HÓA ĐẠO G.H.P.G.V.N.T.N
213, Sư Vạn Hạnh-Chợ Lớn
Kính bạch quý Thượng Tọa, Đại Đức Hội Đồng Lưỡng Viện,
Con tục danh là BÙI ĐÌNH TẦN, pháp danh THÍCH THIỆN LAI 74 tuổi. Trước tình thế ngữa nghiêng của đất nước và đau xót nhất là cảnh nồi da xáo thịt, chết chóc điêu linh của Dân tộc. Anh em Sinh Viên, Học Sinh họ đã và đang hy sinh để nói lên lòng thiết tha yêu nước của mình. Dù có chết, tù đày dưới chế độ độc tài áp bức của chính quyền hiện hữu, họ cũng cương quyết đứng lên để đòi quyền sống của con người.
Hơn nữa, Đạo pháp và Dân tộc đang quằn-quại trong cảnh khói lửa điêu linh, nên quí Hòa Thượng, Thuợng Tọa, Đại Đức Tăng Ni đã hy dinh xương máu chịu khổ nhục tù đày từ năm 1963 cho đến nay, để đòi hỏi tự do dân chủ và hòa bình của Dân tộc, nhưng đã được trả lại bằng sự đàn áp giết chóc bằng tù đày. Chẳng những thế, mà trong nhiều năm qua chính quyền đã kỳ thị Phật-giáo bằng cách dùng một số tay sai giáo gian để lủng đoạn, triệt hạ Phật-giáo bằng đủ mọi cách và mọi hình thức. Con không biết làm gì để góp phần vào sự tranh đấu của quý liệt vị để đem lại Hòa Bình cho Dân tộc và sự bình an cho Giáo Hội.
Do đó, con xin nguyện đem thân này làm đuốc dâng lên cúng dường mười phương chư Phật, chư Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng để cầu nguyện cho những nguyện vọng của Phật-giáo, anh em Sinh viên Học sinh, Thương phế binh, đồng bào các giới và Phật tử sớm đem lại kết quả như ý. Nhất là chính quyền sớm bỏ Sắc luật 23/67 phục hồi Sắc luật 05/66. Đó là những nguyện vọng thiết tha của con, trước khi trút hơi thở cuối cùng, để gởi đến quý Thượng Tọa Đại Đức Tăng Ni và Đồng bào Phật tử rõ, hoặc những ai có lương tâm yêu nước thương nòi, hãy mau mau ý thức được trách nhiệm của mình đối với Dân tộc Việt Nam và Đạo pháp hãy đứng lên xiết chặc tay nhau kể cả những Dân tộc yêu chuộng Hòa Bình trên thế giới cùng nhau kêu gọi chánh phủ hai miền Nam Bắc nhường nhịn lẫn nhua để giải quyết cuộc chiến tranh phi lý và vô nhân đạo hiện nay, để đem lại Hòa Bình cho Dân tộc Việt Nam đã bị chiến tranh tàn phá gần 30 năm qua. Dân tộc của chúng ta chỉ thiết tha mong mỏi sống an lành, sống trong nền Hòa Bình vĩnh cữu của đất nước, trong tinh thần tự do bình đẳng của mọi công dân.
Trước khi dứt lời, con xin chân thành gởi đến chư Tôn Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức trong Hội đồng lưỡng viện và Tăng Ni, đồng bào Phật tử lời chúc mừng và Phước huệ song toàn, chúng sanh dị độ, cho những nguyện vọng của Giáo Hội sớm viên thành và cầu nguyện cho đất nước sớm Hòa Bình, nhân dân an lạc.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính thư,
Đệ tử THÍCH THIỆN LAI
(ký tên)
Phú Nhuận, ngày 10.6.1970.
Kính gởi:
HÒA THƯỢNG BỔN SƯ THÍCH HẢI TRÀNG
CHÙA PHỔ QUANG
Nam Mô bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Kính Bạch Hòa Thượng và quí Đại Đức Bổn Tự,
Con là Thích Thiện Lai, tục danh Bùi Đình Tần, 74 tuổi là chúng Tỳ kheo thuộc bổn tự.
Con rất đau lòng trước cảnh điêu linh của đất nước, thế sự đảo điên, lòng người ly tán; thậm chí những thầy tu mà còn làm Việt gian, tay sai cho ngoại bang phản bội lại Đạo pháp và Dân tộc mà ai cũng biết rõ danh tánh.
Trước tình cảnh đó, con xin nguyện đem thân xác này làm ngọn đuốc soi sáng và thức tỉnh lương tâm những ai đã phản bội lại Đạo pháp và Dân tộc, phải sớm hồi tâm sám hối và cầu nguyện cho Dân tộc chúng ta sớm thoát khỏi cảnh nhồi da xáo thịt hiện nay.
Con biết rằng làm như vậy, sẽ làm bận lòng Hòa Thượng Bổn sư và đại chúng cùng Giáo Hội không ít. Nhưng thiết nghĩ trong công cuộc vận động Hòa Bình và đòi hỏi các quyền tự do căn bản của Phật-giáo, mỗi người dân phải có trách nhiệm đóng góp việc này. Riêng con, con xin cúng dường thân xác này để gọi là tỏ chút tình thươngh yêu quê hương Dân tộc và biểu lộ tấm lòng chân thành đối với đạo pháp, cúi mong Hòa Thượng và chư Đại Đức từ bi hỷ xả cho con. Và trước khi trút hơi thở cuối cùng, con xin cầu nguyện cho Giáo Hội và Dân tộc mình sớm thoát khỏi cảnh điêu linh khốn khổ hiện nay.
Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát.
Bái Bạch
Đệ tử: Thích Thiện Lai
(ký tên)
Phú Nhuận ngày 10.6.1970.
Kính gởi: TỔNG THỐNG VIỆT NAM CỘNG HÒA
SÀI GÒN
Thưa TỔNG THỐNG,
Tôi là Tăng sĩ THÍCH THIỆN LAI thuộc Giáo Hội PGVNTN, 74 tuổi. Trước hoàn cảnh khổ đau của đất nước Dân tộc và Đạo pháp, tôi là một Tăng sĩ khép mình trong giới luật của Thiền môn, có đôi lời kính trình cùng Tổng Thống.
Dân tộc Việt Nam đã chịu quá nhiều đau khổ do chiến tranh dày xéo. Giáo Hội PGVNTN là đại diện tinh thần của 85% Phật tử trong Dân tộc, đã bị kỳ thị chà đạp dưới nhiều hình thức trong nhiều năm qua.
Nhân dân đang rên xiết oán hờn những kẻ đã gieo tang tóc trên quê hương. Tổng Thống là vị lãnh đạo quốc gia; tôi thiết nghĩ Tổng thống nên ý thức trách nhiệm của mình đối với quốc gia Dân tộc và GHPGVNTN, một tôn giáo truyền thống của quốc gia Dân tộc, Tổng thống nên có một hành động cụ thể để giải quyết những nguyện vọng của toàn dân, xoa dịu nỗi oán hờn của Dân tộc như Sinh viên, Học sinh, Thương Phế Binh và Phật-giáo, cần phải thỏa mãn những nguyện vọng chính đáng của họ.
Đối với Giáo Hội, Tổng Thống cần có hành động giải quyết hợp tình hợp lý, đừng gây thêm chia rẽ oán hờn, đừng làm mất tin tưởng khối Dân tộc to lớn này, trong lúc cần phải có hậu thuẩn trong việc chống Cộng hiện nay mà Tổng Thống chủ trương.
Tôi nguyện thiêu thân xác này để nhắc nhở Tổng Thống, dẹp bỏ mọi tự ái, mọi hiềm khích phi lý, để đặt quyền lợi sống còn của Dân tộc lên trên; nên nghỉ đến trách nhiệm của mình đối với quốc gia mà sữa đổi lại hành động sai lầm và đường lối chính phủ hiện nay.
Trân trọng kính chào Tổng thống.
KÍNH THƯ
Tu sĩ: THÍCH THIỆN LAI
(Ký tên)
DIỄN VĂN
của THƯỢNG TỌA VIỆN TRƯỞNG VIỆN HÒA ĐẠO
Đọc trong dịp lễ An vị linh cốt cố Thượng Tọa Thích Thiện Lai và cầu siêu Cố Đại Đức Thiện Ân, Thích nữ Khất sĩ Liên Tập, Nhất Chi Mai, Chiến sĩ Trận Vong, đồng bào nạn nhân chiến cuộc quá cố (28.6.1970).
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Thưa …
Đã 25 năm khói lửa, chiến cuộc Việt Nam mỗi ngày một lan rộng dưới nhiều hình thức. Nó không còn là một cuộc chiến trong nội bộ Nam Bắc, mà nó bị các thế lực vô minh chủ chiến quốc tế lợi dụng khai thác để trở thành một cuộc thế chiến thu hẹp.
Việt Nam đã mất chủ quyền, Dân tộc đã bị xô đẩy cuốn hút theo các thế lực chủ chiến hiện nay. Những chính thể tiếp nối sau triều đại họ Ngô không có thực quyền đã bị ngoại bang dựng lên để làm bình phong cho âm mưu chủ chiến.
25 năm khói lửa, chiến tranh, Dân tộc ta đa số là Phật tử đã phải chịu biết bao nhiêu chết chóc, đau thương, hàng triệu người dân hiền lành, chấc phát, nhất là thanh niên trai trẻ đã gục ngã, tiếp theo một sự phá sản toàn diện tự vật chất đến tinh thần, nền Văn minh cổ truyền của Dân tộc bị chà đạp, mọi công trình xây dựng của tiền nhân đều bị tàn phá. Thế mà các chính quyền đã qua và hiện nay không chịu nhìn vào thực tại điêu tàn đổ nát của xứ sở. Những nỗi thống khổ của Dân tộc phải chịu đựng suốt ¼ thế-kỷ. Chính quyền chỉ biết dựa vào thế lực ngoại bang trong âm mưu mở rộng chiến tranh để thống trị độc tôn và làm giàu, mà không nghĩ đến sự sống còn của Dân tộc. Chính sự mù quáng đó đã gây ra đầy rẫy sự bất công tham nhũng. Dân chúng chết vì bom đạn, vì đói khát quá nhiều lại còn phải chịu thêm bao nhiêu sự bất công phi lý và sưu cao thuế nặng của nhà cầm quyền. Vô lý nhất là dân chúng hiện nay đang đói khổ rên siết vì sưu cao thuế nặng, vật giá leo thang phi lý, mà chính quyền lại một lần nữa xô đẩy dân chúng vào con đường bần cùng hóa thêm, qua cái biện pháp được gọi là “chấn chỉnh kinh tế tài chánh” mị dân, giả dối đã gây sóng gió không ít tại quốc hội trong mấy ngày qua và đã làm cho dân chúng ta thán oán hờn; mất sự tin tưởng ở nơi chính quyền.
Trước tình cảnh điêu linh thống khổ của Dân tộc, Giáo Hội không thể nào điềm nhiên tọa thị, mặc cho những thế lực vô minh thao túng. Dân tộc Việt Nam không thể nào cứ mãi chịu hy sinh một cách vô nghĩa để những phe phái chủ chiến quốc tế ngồi thủ lợi. Sự tồn vong của Dân tộc gắn liền với sự tồn vong của Đạo pháp.
Giáo Hội đã nhất quyết đứng lên đòi Hòa Bình cho đất nước, nói lên niềm thao thức thiết tha nhất của Dân tộc. Đòi hỏi sự sống, chén cơm, manh áo của đồng bào. Giáo Hội nhất quyết đứng lên vận động đòi hỏi Hòa Bình cho toàn dân. Mặc dù Giáo Hội phải chịu bao nhiêu sự khủng bố, đàn áp chụp mủ của chính quyền và các thế lực vô minh chủ chiến. Qua bao năm sóng gió, những âm mưu tiêu diệt Phật-giáo để bóp chết nguyện vọng thiết thực của dân chúng, nhưng Phật-giáo vẫn không bị tiêu diệt mà ngược lại Phật-giáo vẫn tồn tại và hiện diện với Dân tộc này qua 2000 năm lịch sử đấu tranh để tự tồn và nêu cao tinh thần bất khuất của tiền nhân. Bồ Tát Quảng Đức đã dũng mãnh thắp lên ngọn đuốc hào hùng để đốt cháy cả một chế độ vô minh.
Ngọn lửa thiêng của Nhất Chi Mai, của Ni cô Liên Tập, và Thích Thiện Lai đã bùng cháy lên để soi sáng cho nền Hòa Bình Việt Nam. Họ đã nói lên niềm khát vọng Hòa Bình của 17 triệu dân miền Nam, không phải bằng lời mà bằng thân xác của mình. Không ai có quyền xuyên tạc, chụp mủ những sự hy sinh cao cả ấy, cũng như cuộc vận động Hòa Bình của Giáo Hội.
Những kỳ thị, khủng bố, đàn áp Phật-giáo trong nhiều năm qua dưới mọi hình thức, nhất là chính quyền đã dùng những tay sai giáo gian lừa Thầy phản bạn để khuynh đảo Giáo Hội, tạo ra vụ án Hiến chương Phật-giáo, tàn sát Tăng Ni Phật tử tại Việt Nam Quốc Tự, tấn công Cô nhi Viện Quách Thị Trang mới đây, nhất là cái chết thê thảm của Đại Đức Thích Thiện Ân đã tố cáo tội ác của chính quyền và các tay sai. Dù có bị phá hoại đến mức độ nào đi nữa, Giáo Hội cũng cố gắng khắc phục mọi khó khăn thử thách, để dấn thân thể hiện tinh thần truyền thống bất khuất của Dân tộc, đòi hỏi chủ quyền Quốc Gia và Hòa Bình Độc lập cho xứ sở.
Thưa Quý Vị,
Hôm nay, lễ cầu siêu cố Thượng Tọa Thiện Lai, Ni Cô Liên Tập, Phật tử Nhất Chi Mai đã tự thiêu cho Hòa Bình Việt Nam và chiến sĩ đã hy sinh bỏ mình ngoài trận mạc, cũng như đồng bào nạn nhân chiến cuộc quá cố, Giáo Hội cũng nghiên mình trước anh linh chư Thánh Tử Đạo đã hy sinh cho Đạo pháp và nền Hòa Bình Việt Nam, cầu nguyện cho hương linh chiến sĩ, đồng bào nạn nhân chiến cuộc không phân biệt tôn giáo, đảng phái, màu da, chủng tộc, bên này cũng như bên kia vĩ tuyến, đã bỏ mình trong cuộc chiến sớm siêu sinh Cực Lạc và cầu nguyện cho Giáo Hội và Dân tộc Việt Nam sớm thoát khỏi gông cùm của các thế lực vô minh chủ chiến hiện nay.
Đây là lần đầu tiên, không những chỉ có Giáo Hội Trung Ương mà các cấp Giáo Hội, Tu Viện khắp toàn quốc đồng nhất loạt tổ chức lễ cầu siêu này theo tinh thần truyền thống tín ngưỡng của Phật-giáo trong mùa Vu Lan sắp tới.
Một lần nữa, Giáo Hội long trọng tán dương, sự hy sinh cao cả của chư Thánh Tử Đạo, cũng như anh linh chiến sĩ, đồng bào tử nạn và hồn thiêng đất nước gia hộ cho Dân tộc đau khổ này sớm vượt khỏi cảnh điêu linh tang tóc hiện nay.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT.
VĂN TẾ THƯỢNG TỌA THIỆN LAI
Đọc trong dịp lễ an vị linh cốt cố Đại Đức
(thất thứ ba 28.6.1970) tại Ấn Quang.
Than ôi!
- Nhịp Thời tiết đã quyên gào bến nước, trông ra sắc máu tràn lan:
Dấu Pháp luân còn khói ngất thành mây, ngó xuống trần ai vẩn đục.
- Ai người tóc bạc, lệ như sương kết đọng u hoài;
Ai kẻ đầu xanh, mắt rực lử trào dâng cảm xúc.
- Nẻo luân hồi tiếng mỏ tiếng chuông:
Nghĩa giải thoát như kêu như giục.
Nhớ Đại Đức xưa:
- Phẩm giá đài Sen: Phong nghi rừng Trúc.
- Non côi sông Vị, loạn thế độc thư:
Phú Nhuận, Vũng Tàu trung niên lánh tục.
- Cây trăm thước vướng chi vòng huyễn ảnh, riêng mơ xuất định nhập thiền:
Hoa bốn mùa dâng trọn nén lương tâm, sá kể thưa hồng rậm lục.
- Từ đó sớm hôm kinh kệ, 15 năm đời sống như gương;
Ai hay non nước biển dâu, muôn vạn nổi ruột đau từng khúc.
- Phố phường trơ trẻn, đọa lạc thân tâm;
Vườn ruộng xác xơ, tương tàn cốt nhục.
- Lưỡi cày khung cưỡi, bom đạn lưu ly,
Nét chữ lời ca, gông xiềng tù ngục.
- Năm màu cờ gợn sóng, Tam Bảo chứng minh;
Chín tầng tháp nghiêng lai, chúng sanh thôi thúc.
Cho nên:
- Một sớm giữa sân chùa thanh tịnh, hiến cuộc đời giữ vẹn bấy nay:
Bảy năm sau ánh lửa Từ Bi, làm ngọn đuốc cháy lên kịp lúc.
- Trước là nguyện cúng Dường chư Phật, độ khắp Ta Bà thế giới, may ra nghiệp chướng san bằng:
Hai là mong hội ý toàn dân, nêu cao đại nghĩa Hoà Bình, đau tiếp thân phàm ngã gục.
- Hồn kia nuơng khói, về với Chân Như
Xương ấy thành than, vạch nên Di chúc.
- NHẤT CHI MAI năm nọ, hiện Phật tâm bốn bể đã truyền thông:
Phổ Quang Tự giờ đây phát hỏa lệnh 10 phương càng chỉnh túc.
Và đến hôm nay:
- Tiết vừa hạ chí, giao tiếp nắng mưa:
Lễ vận Cầu siêu, quang chim nhĩ mục.
- Hai mươi năm hoảng hốt nghiệp duyên:
Mấy chục triệu mê lầm họa phúc.
- Nghe chăng đâu đó? Giúp Mê hà theo Giác ngạn, ai tham sân khoảnh khắc hãy hồi âm;
Nhủ xuống gần xa trong Giáo Hội ngoài Quốc dân, gương trí tuệ thiên thu còn cảm phục.
Sài Gòn ngày 28.6.1970
VŨ HOÀNG CHƯƠNG
VĂN TẾ CHIẾN SỸ VÀ ĐỒNG BÀO CHIẾN NẠN
Đọc trong diệp lễ cầu siêu chiến sỹ và đồng bào nạn nhân chiến cuộc quá cố ngày 28.6.1970 tại chùa Ấn Quang.
Than ôi!
- Tiết hạ chí khói sương mờ loãng, trông lên cõi phúc thấy càng xa;
Mùa chiến tranh bom đạn tơi bời, ngoảng lại bể oan đâu đã lấp.
- Ôi thịt xương một thuở chia lìa:
Cho máu lệ hai phương tràn ngập.
- Chẳng riêng đây Gia Định Sài đô;
Mà khắp nẻo phố phường thôn ấp.
- Nào những ai: tuổi xanh thế hệ tay kiếm, tay cờ;
Nào những ai: tóc trắng thời gian bước cao bước thấp.
- Nào những ai: cày cuốc, bán thân, thợ thuyền, lao động, từng dấn thân trong buổi khó khăn;
Nào những ai: sinh viên, ký giả, công chức, quân nhân, quyết dựng nước giữa cơn nguy ngập.
- Ải địa đầu,khu giới tuyến, thỏa cánh bằng tung gió, khoác nhung y mấy độ gian nan;
Vùng chiến thuật, bãi sa trường, liều da ngựa bọc thây, ruổi vũ hịch đòi phen khẩn cấp.
Ai ngờ:
- Hỏa lực vô tình; Thiên cơ mạc cập.
- Là thôi: một kiếp người xong;
Thấy đó ba hòn đất lấp.
- May còn nhận diện, trách chi vùi lẹ, vùi nông:
Rủi chẳng toàn thây, sá kể chôn nghiêng, chôn sấp.
- Huống hồ lại: xác phơi rừng vắng, không cách thăm dò:
Huống hồ lại: xương rắc hầm sâu, khó bề thu thập.
Ô hô ! Thương thay!
- Mưa nắng dãi dầu: Tang thương dồn dập.
- Vết xóa chưa mờ; gió lên càng gấp.
- Trăng sao rụng xuống, ngàn cây rên rĩ âm thanh;
Đêm tối tràn ra, lửa đón mơ hồ dáng dấp.
Hôm nay đây:
- Tiếng chuông gọi chín phương uổng tử, đã ngậm hờn bao độ lang thang;
Mảnh hồn theo mười loại chúng sinh, hãy trở bước về đây tụ tập.
- Ơn Bồ Tát khói thơm giòng Chính đạo, phép chuyển nhiệm màu;
Lễ cầu siêu mưa ngọt nước dương chi, hoa bay tới tấp.
Hỡi các vong hồn!
- Tín đồ nhất niệm, đó cùng đây sao có thể cách chia;
Thế giới tam thiên, sinh với tử lẽ nào đâu vướng vấp.
- Thân sau đã giác, thì siêu thăng Lạc thổ Niết Bàn;
Nước cũ chưa quên, hãy cầu nguyện Thanh bình Độc lập.
Sài gòn, ngày 28.6.1970
VŨ HOÀNG CHƯƠNG
ĐIẾU VĂN
Đọc tại chùa Ấn Quang
Nhân dịp lễ Quốc Khánh 1.11.1970
- Trời kỷ niệm mây dâng cờ Phật-giáo;
Đất trầm tư mạch chuyển bóng Già Lam
- Nhắc nhở chúng ta: bảy năm trước đây, cũng ngày MỘT tháng MƯỜI MỘT:
Đã từng nổi dậy: cao trào cách mạng, giữa miền Nam nước Việt Nam.
- Hởi ôi!
Bão tố lên từ mùa Pháp nạn;
Khổ đau gieo khắp chốn thiền am.
- Cố đô Huế;
Chùa Từ Đàm.
- Tiếng khóc thét bầy trẻ thơ đã ngất;
Mà dã tâm phường hung dữ chưa cam.
- Chỉ vì sức mạnh
Cấu kết Lòng Tham.
- Đủ tàn nhẫn phơi xương đổ máu:
Thừa mưu cơ giăng bẫy giựt giàm.
- Cho đến khi: quanh bóng hỏa quang, linh hồn nhân loại ngẩn ngơ: Nam Mô Bồ Tát Thích Quảng Đức;
Rồi từ đó: trong liều độc dược, ý thức quốc gia sôi nổi; men say thế hệ Nguyễn Tường Tam.
- Un ùn ký giả, sinh viên, dân cày, dân thợ;
Lớp lớp điều tra, theo giõi, bị bắt, bị giam.
- Đàn áp chẳng ngày nào không có;
Độc tài chẳng việc chi không làm.
- Tức nước vỡ bờ, sóng sông hừng hực;
Ngóng chim về tổ, rừng cây đăm đăm.
- Lửa Từ Bi sáng rực chín mười phen, nêu gương trí dũng;
Lời thuyết pháp vang xa ngàn vạn nẻo, gỡ mối hờn căm.
- từ Hạ qua Thu, Đông, nghiệp chướng vơi dần tiếng Quốc;
Từ Thành đến Tỉnh, Ấp, Duyên may nõn lại tơ tằm.
- Giải oan, bao nổ lực:
Cứu khổ, một phương châm.
- Thiện căn vững ở lòng dân, thế tất phải toàn dân đều giác ngộ;
Hà chính ác hơn loài cọp, lẽ nào ư chuồng cọp mãi giam cầm!
- Mộc đỡ có nhân hòa, chiến sĩ thoắt vùng lên,
quân đội thoắt xông lên, kìa lung linh Hòn Ngọc Viễn Đông,
son sắc đã ghi bao chứng tích:
Hành trang sẵn Phật pháp, hy sinh quyết không sờn,
đấu tranh quyết không mỏi, nghe phơi phất cánh Bè Nam Hải,
gió mây còn gợi sóng mãi dư âm.
- Nay miền Nam nước Việt Nam, dâu biển tràn qua mấy lớp:
Lại ngày MỘT tháng MƯỜI MỘT : nắng mưa vừa tròn bảy năm.
- Bâng khuâng nhịp mõ;
Bát ngát hương trầm.
- Ngừng đó trăng sao, trên nẽo luân hồi chuyển kiếp;
Nghe chưa hồn phách, dưới chân Bồ Tát giáng lâm?
- Gốc Nghĩa Nhân cành Bắc như cành Nam, bao ngày
qua đương đầu với uy vũ Cường quyền, trước mưu
mô Bạo chánh, nên dứt buổi gió gào mưa thét, suy tư
vừa lắng đọng, mới có phen rung ánh sáng huyền vi,
khoảnh khắc ấy nở tươi hoa Tự Chủ;
Sóng Cách Mạng lớp sau kế lớp Trước, những ai đó
hiến thân vì đại nghĩa Quốc Gia, để hoằng dương
Đạo pháp, thì giữa cơn lửa cháy dầu sôi, thịt xương
dầu hủy diệt, vẫn không ngớt làm chất men xúc tác,
nghìn thu sau gắn chặt khối Đồng Tâm.
Phù Giang
VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Sài đô ngày 25 tháng 10 tây lịch 1970
TIỂU SỬ
Ni Cô Khất Sĩ LIÊN TẬP
Ni Cô LIÊN TẬP tục danh là Lê Thị Gái, sanh ngày 1.4.1946 tại tỉnh Thừa Thiên. Ni Cô sanh trưởng trong một gia đình trung lưu, cha là Lê Văn Dụ, mẹ là Trần Thị Thiu. Cô có 5 anh em, một người anh và 3 em trai, duy có một mình cô là gái.
Sanh trưởng trong một gia đình Đạo Phật, cô thường đi lễ chùa và quy y đầu Phật từ khi còn thơ ấu. Trong những lần tới lui lễ bái ở chùa, cô đã được nghe Quý Thầy, Quý Cô giảng dạy giáo lý. Vốn có căn tu, cô đã sớm ý thức cuộc đời là đau khổ, vô thường, con người cứ mãi trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi. Vì thế, đã nhiều lần cô muốn trốn khỏi cõi đời phồn hoa giả tạo để dấn thân vào cửa Phật, quyết chí xuất gia cầu Đạo giải thoát. Nhưng gia đình có một mình cô là gái, nên bổn phận của cô còn nhiều, đối với cha mẹ và đàn em nhỏ dại.
Nhưng vì chí xuất gia quá mạnh, cô quyết bỏ cuộc đời ô trược, gởi thân vào chốn am thiền, sớm mõ chiều chuông, cầu thầy học đạo. Lòng mong ước đã thành, ngày 20.5.1965, cô đã từ bỏ lớp áo phấn son hương sắc, thế phát xuất gia cầu đạo. Thực hành hạnh đầu đà của đức Phật, cô đã quấn y thọ bát khất thực, sớm hôm tinh tiến tu hành học đạo.
Đến năm 1968, thấy cảnh tang tóc đau thương, cửa nhà ta nát, con mất cha, vợ mất chồng, bao nhiêu trẻ thơ vô tội đã lầm than đói khát, thiếu cơm, thiếu áo, do biến cố Mậu Thân gây ra. Không thể nào làm ngơ trước cảnh bơ vơ lạc lõng của những trẻ thơ khờ dại, cô đã tiếp tay với quý Thầy, quý Cô tập trung những cô nhi chiến nạn về tịnh xá Ngọc Ninh nuôi dưỡng.
Thời gian hơn 2 năm qua, không quảng gian lao, không từ khó nhọc, cô đã tận tình chăm sóc nuôi dưỡng, cố gắng mang tình thương để an ủi số phận hẩm hiu của những đứa trẻ ngây thơ vô tội bị chiến tranh cướp mất mẹ cha. Nhờ đức tánh điềm đạm, vui vẻ tận tình, mà cô đã được các em tôn xưng là Hiền Mẫu.
Thời gian thấm thoát trôi qua, bao nhiêu cảnh đau thương tang tóc cứ tiếp tục xảy ra, cứ tiếp tục đè nặng trên mái đầu vô tội của lớp tuổi thơ ngây. Chiến tranh mỗi ngày mỗi khốc liệt, mỗi ngày mỗi lan rộng từ thành thị đến thôn quê, từ nước này đến nước nọ, đã làm cho cô đau lòng xót dạ không thôi. Đã nhiều lần Cô tâm tình với những người thân thích, nếu tiêu hủy thân xác này, mà có thể chận đứng được sự lan rộng chiến tranh thì Cô sẽ vui vẻ chấp nhận sự hy sinh.
Với niềm thao thức suy tư sẵn có, khi được tin Việt Nam Quốc Tự bị một bọn người tay sai của ngoại nhân tấn công bắn giết, đánh đập, bắt bớ một số chư Đại Đức Tăng Ni và Phật tử một cách tàn bạo trong đêm 4 rạng ngày 5.5.1970; Cô tỏ ra đau xót và biểu lộ suy tư nhiều hơn nữa về sự đau khổ pháp nạn triền miên của Giáo Hội.
Tiếp đến khi nghe tin Giáo Hội công khai đứng ra vận động Hòa Bình, chấm dứt chiến tranh cho Việt Nam, và đòi hỏi những vấn đề cơm áo, và những nguyện vọng chính đáng của mọi giới đồng bào cũng như của Giáo Hội. Cô thấy không còn lúc nào đáng phải hy sinh, để đóng góp công lao cho Dân tộc và Đạo pháp bằng lúc này.
Niềm thao thức đã thúc đầy cô hành động … thế rồi, 4 giờ sáng ngày 4.6.1970, cô đã tình nguyện đem thân làm đuốc để soi sáng cho nền Hòa Bình Việt Nam và sự bình an cho Giáo Hội. Với sự hy sinh này, Cô mong rằng sẽ làm thức tỉnh lương tâm những ai đã cố tình xô đẩy Dân tộc đến bến bờ diệt chủng và những ai đã cố tình phá hoại Đạo pháp.
ĐÁM TANG NI CÔ LÊ THỊ GÁI TỰ THIÊU
------------------------Ì------------------------
DIỄN HÀNH PHẢN CHIẾN
Nhiều biểu ngữ kêu gọi Hòa Bình.
Những bài điếu Văn tiễn đưa đầy nước mắt.
PHAN RANG (HT)–Trong bầu không khí thực sự căng thẳng của Thành phố, lễ an táng Ni Cô tự thiêu Liên Tập (tức Lê Thị Gái) đã cử hành vô cùng long trọng lúc 8 giờ sáng ngày 9.6 tại Phan Rang, với sự tham dự của Hòa Thượng Thích Trí Thủ đại diện Hội đồng Viện Hóa-Đạo, Ni trưởng Huỳnh Liên thuộc Giáo Hội Khất Sĩ VN. Dân biểu Tôn Thất Hiệu và chủ tịch Hội đồng tỉnh Ninh Thuận cùng các đoàn Thanh niên Phật tử và Tăng Ni từ Nha Trang, Cam Ranh vào.
Những biểu ngữ đầy kích động kêu gọi Hòa Bình và cầu nguyện cho Giáo Hội PGTN đã bị chính quyền Ninh Thuận cấm treo trước đó, vẫn được đồng bào dự lễ an táng trưng cao lên, theo sau linh cữu, … Đám tang khởi hành từ chùa GHPGTN diễu hành qua các đường phố chính Trưng Nữ Vương rồi ra Thống Nhất đi thẳng đến nghĩa trang Phật-giáo, cách thành phố độ 2 cây số với cảnh sát áo trắng dẫn đầu.
Nhiều đồng bào dự đám tang có mang theo cả bịt nylon và chanh để phòng ngừa lựu đạn cay.
Trước khi hạ huyệt, nhiều điếu Văn đã được đọc lên bi thương, áo não, làm cho đồng bào mũi lòng.
“Cô làm đuốc tuệ soi đường, để dắt dẫn kẻ mê mờ trong đêm tối”
(điếu Văn của đại diện GHPG Ninh Thuận)
Đặc biệt trong buổi lễ an táng là bài điếu Văn đầy nước mắt của một em bé mồ côi độ 12 tuổi đại diện cho hơn 100 em bé mất cha mẹ vì cuộc chiến, được đưa vào nuôi nấng tại cô nhi viện Nhất Chi Mai, thuộc tịnh xá Ngọc Ninh (GHPG Khất Sĩ) nơi Ni Cô tự thiêu Liên Tập (tức Lê Thị Gái) tu hành … Em vừa khóc vừa nói “Vì sao chị ra đi? Một là vì sứ mạng Hòa Bình, hai là vì tình thương Đạo pháp…”
Chị tình nguyện phục vụ cho Cô Nhi Viện Nhứt Chi Mai, mà em là một cô nhi đã được hưởng trọn tình thương của chị. Ai ngờ phần số của em lại bị mồ côi một lần nữa. Mất chị từ nay chúng em mất cả cánh tay siêng sắn, giọng nói ngọt ngào, ánh mắt từ bi, nụ cười hiền dịu…
“Ai làm tang tóc thê lương
Ai làm cho cảnh tang thương rả rời
Chiến tranh ơi! chiến tranh ơi!
Cướp cha cướp mẹ, thiệt thòi tuổi thơ”
Tiếp lời Ni Cô Trưởng Huỳnh Liên thuộc GHPG Khất Sĩ VN đã bước lên ca tụng đức hạnh của Ni Cô tự thiêu Liên Tập. Song Sư Cô đã đọc bài thơ phản chiến:
“ Vào biển lửa, cứu người trong lửa.
Lửa chiến tranh và ngọn đuốc Hòa Bình
Trách ai làm cho Dân tộc điêu linh
Để tu sĩ phải thiêu mình trong lửa đỏ.
Thương dân chúng chịu lầm than khốn khổ
Đêm lẫn ngày bom nổ thịt xương tan
Đốt đốt mãi cho dân tình khủng khiếp
Nhà còn đâu mà thân thích còn đâu
Kẻ phanh thây, kẻ lòi ruột nát đầu
Xương chất núi, máu đào trào suối nóng.
Ta phải đứng lên đòi lẽ sống.
Lửa thiêu thân cho đuốc sống động tình
Lửa thiêu thân cho Dân tộc Hòa Bình
Xin thức tỉnh người mình xin thức tỉnh,
Nhân đây, tưởng cũng nên ghi lại bài thơ nhan đề “khóc bạn” của nữ tu sĩ Tiểu Hoa, thấy viết trên chiếc bản đen đặt tại góc phòng Tịnh Xá Ngọc Ninh mà 4 câu cuối là trích của Nhất Chi Mai.
Kính dâng hương hồn Ni Cô Liên Tập:
Được tin chị nằm xuống
Đầu óc tôi quay cuồng
Mặt trời chiếu bổng lớn
Tôi rụng rời châu thân
Đêm nguyện cầu thao thức
Hàng cây buồn lao xao
Lớn lên trong lửa đạn
Cô từ giả tôi sao?
Hai mươi năm chinh chiến
Cô chịu đầy gian nan
Một đời ôi ngắn ngủi
Một đời cho quê hương
“Xin đem thân làm đuốc
Xin soi sáng u minh
Xin tình người thức tỉnh
Xin Việt Nam Hòa Bình”
(Công luận số 728, thứ sáu ngày 12.6.1970)
TIỂU SỬ
Phật tử QUÁCH THỊ TRANG
Quách Thị Trang 15 tuổi, sinh năm 1948, tại làng Cổ Khúc, quận Tiên Hưng, tỉnh Thái Bình. Thân phụ Trang là Ông Quách Văn Bội, thân mẫu là Bà Hà Thị Vân. Cả gia đình đều tin theo Phật-giáo.
Trang có 6 anh em: anh cả là Liên, anh thứ là Choát, đến chị Nhung, rồi đến Trang và hai em trai.
Đến năm 1954, sáu anh em Trang cùng mẹ vào nam. Riêng thân phụ Trang bị kẹt ở lại miền Bắc và 3 tháng sau, mẹ con Trang được tin đã từ trần.
Vào Nam, gia đình Trang ở vùng Chí Hòa, sống quần tụ trong niềm hòa thuận và trong nguồn tin chánh pháp. Mẹ Trang thì tảo tần buôn bán, còn anh em Trang thì tiếp tục học hành.
Riêng về Trang đã tỏ ra một đứa con hiếu thuận. Trang luôn luôn nghỉ đến Mẹ và làm vừa lòng mẹ. Còn đối với anh chị và các em, Trang vẫn trên kính dưới nhường.
Từ bé, Trang đã là một Phật tử của gia đình Phật tử Minh Tâm. Ngày ngọn cờ 5 sắc thân yêu bị triệt hạ, Trang bỏ ăn, bỏ học và khóc mãi! Trang nói với chị em:Phật-giáo mà chết thì tôi cũng chết”. Và liền sau đó, hằng ngày, Trang đến chùa Xá Lợi, Ấn Quang để nghe các Thầy giảng và nhận các bản tin tức đem phổ biến cho đồng bào. Rồi Trang cũng tuyệt thực, cũng cầu nguyện. Tóm lại, với sức nhỏ bé, có thể làm tất cả những gì được thì Trang đã làm hết cho Phật-giáo. Trang nói:”Nếu có chết vì Đạo thì Trang cũng đành”.
Ngày 20.8.1963, các chùa bị tấn công, Tăng Ni và Phật tử đều bị bắt hết, Trang khóc rất nhiều! Trang nghĩ: “Các Thầy đã chết, đã chết hết rồi!” Cơn đau khổ và tuyệt vọng cực độ đã làm cho Trang như mất hồn. Trước mắt Trang, đất trời như sụp đổ, cùng với sự sụp đổ của những ngôi chùa, những tượng Phật, những bàn hương. Người ta tính tiêu diệt niềm tin Dân tộc! Người ta tính tiêu diệt nước Việt Nam! Vô lý quá rồi, oan ức quá rồi! Trang nhìn một vài bộ mặt điềm nhiên bên đường, mà nghe tức tối trong lòng.
Đến ngày 24 thì Trang và Yến nhận được tin cho hay: sáng mai sẽ có một cuộc biểu tình ở chợ Bến Thành, để tranh đấu cho các Thầy. Hai người bạn thấy phấn khởi hẳn lên. Họ thấy giữa sự nguy hiểm của hành động và sự đau khổ của bất lực, thà chọn cái thứ nhất có ý nghĩa hơn, và có lợi ích hơn.
Tối lại, Trang đến nhà Yến vừa khóc vừa mừng chung với Yến. Trang nói: “Ngày mai tụi mình đi biểu tình. Nhưng không cho mẹ Trang biết, vì sợ mẹ sẽ ngăn cản. Trang chỉ cho chị Nhung biết thôi”.
Suốt đêm ấy, Trang gần như không ngủ. Trang thao thức bên niềm mừng vui là sắp được góp một chút gì cho Đạo thân yêu của Trang.
Sáng ngày 25, Trang dậy thật sớm, ăn mặc xong rồi xin phép mẹ đến nhà bạn chơi và rủ Yến cùng đi. Hai chị em đến nơi hẹn với Yến, rồi cùng nhau đi Taxi đến chợ Bến Thành.
Trong khi đứng chờ đợi, từ cửa hông chợ, một đám người ùa ra như nước chảy. Những người đi đầu cầm biểu ngữ:
“Hãy giết chúng tôi đi
Vì chúng tôi là con Phật”
Ba thiếu nữ nghe lòng bừng dậy như sóng cả. Họ nhìn nhau ba cặp mắt sáng ngời, và cầm tay nhau chạy vào hàng ngũ.
Đoàn biểu tình vẫn đi tới, vượt qua khỏi mặt tiền chợ Bến Thành. Trong lúc đó, bóng dáng hung thần của cảnh sát chiến đấu, gầm gừ hiện ra chận lối trước mặt họ. Chợt nghe hai tiếng súng nổ, Yến quay lại nhìn: thấy Trang mặc áo ngắn đã ngã gục trên đường nhựa. Bên Trang là một cảnh sát ác ôn, tay cầm súng mới vừa giết người xong. Lúc ấy vào sáng ngày 25.8.1963.
Đây là hình ảnh cuối cùng của Quách Thị Trang đã hy sinh đời mình cho Dân tộc và Đạo pháp. Và hình ảnh đó, trong lòng Dân tộc sẽ còn sống mãi nghìn thu!
(Lược tríchBáo Hải Triều Âm số 19)
THẾ HỆ QUÁCH THỊ TRANG
Ngày này năm ngoái (25.8.1963), nữ sinh Quách Thị Trang đã bị tay sai khát máu của Nhu Diệm bắn ngã trong cuộc biểu tình chống chế độ độc tài của gia đình họ Ngô, do sinh viên và học sinh tổ chức tại cổng trường Diên Hồng. Cùng đi với Quách Thị Trang có trên hàng trăm sinh viên và học sinh khác, nhưng Trang có diễm phúc chết giữa thanh thiên, bạch nhật, chết để sống mãi trong lòng chúng ta, trong tình yêu thương và cảm phục, chết để thành chất liệu củng cố, gắn chặt hàng ngũ một thế hệ thanh niên, thế hệ Quách Thị Trang.
Trang và những người bạn khác đồng hành của Trang trong chuyến đi vào lịch sử với hai bàn tay trắng và một lòng son, không phải không biết trước rằng: mình đi là đi ra chổ chết. Nhưng không một ai lùi bước, vì thế hệ Quách Thị Trang không muốn sống thêm nữa trong một xã hội tối tăm nhục nhã trong sự tàn ác, gian manh, bất công, dối trá của một tập đoàn mất hết cả nhân tính–tập đoàn Nhu–Diệm-Cẩn Lệ Xuân–không một ai lùi bước vì bầu nhiệt huyết của Thanh niên nung nấu lòng họ. Không một ai lùi bước vì tiếng gọi của Tự Do, bình đẳng, thiết tha hơn bao giờ hết. Vì bàn tay ngoắt vẫy của tình thương tới tấp nập, dồn dập quyến rũ hơn bao giờ hết. Không một ai lùi bước vì họ muốn tiến lên, tiến lên để viết trang sử mới cho thế hệ của họ, thế hệ Quách Thị Trang.
Nhưng trang sử mới vừa viết được mấy dòng đầu thì Quách Thị Trang đã trở thành người thiên cổ !, và bây giờ, có những bàn tay lông lá dơ bẩn muốn bôi đen tất cả, muốn lật lại trang lịch sử cũ của thời Nhu Diệm.
Chắc chắn thế hệ Quách Thị Trang, với truyền thống anh dũng, Quách Thị Trang sẽ kiên quyết bất cứ bằng giá nào chận đứng những bàn tay gian ác ấy lại. Và họ sẽ thắng, chắc chắn họ sẽ thắng vì lịch sử không thể đi lui.
Nguyện cầu anh linh Quách Thị Trang phù hộ cho thế hệ Quách Thị Trang chóng thành công, trang sứ mạng tiếp tục viết trang sử mới.
(Hải Triều Âm số 19)
TIỂU SỬ
Phật tử PHAN VĂN HOÀ và NGUYỄN VĂN PHÁT
Phan Văn Hoà 18 tuổi, sanh ngày 20.10.1946 tại Cát Lư, Văn Lâm, Hưng Yên, Miền Bắc. Từ trần ngày 1.9.1964 (tức ngày 25.7 Giáp Thìn).
Nguyễn Văn Phát 27 tuổi, sanh 1937 tại Quận 4 Chợ lớn. Tư trần ngày 31.8.1964 (tức ngày 24.7 năm Giáo Thìn).
Đám tang của Hòa và Phát cử hành rất trọng thể vào ngày 6.9.1964 và an táng tại Nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi Sài Gòn (Báo Hải Triều Âm ra ngày 10.9.1964 số 21, thuật đầy đủ chi tiết).
Sau đây là điếu Văn đọc trong đám tang của HÒA và PHÁT.
ĐIẾU VĂN của Thượng Tọa
Tổng vụ trưởng Tổng vụ Thanh Niên Phật Tử
Hai con
Hòa!
Phát!
Trên đời này, nếu có một cuộc tranh đấu được gọi là “Thần thánh” thì đó là cuộc tranh đấu của ánh sáng chống lại bóng tối. Vì chỉ có cuộc tranh đấu ấy mới phục vụ cho sự sống. Và cũng chỉ có cuộc tranh đấu ấy mới xây dựng Văn minh cho nhân loại. Vì vậy cần phải luôn luôn nêu cao ngọn đuốc để phát huy ánh sáng, cho ánh sáng chan hòa khắp mọi nẽo. Nếu có một giây lát nào đó, ánh sáng ngưng chiếu, thì tức khắc bóng tối tự lan ra rất nhanh, để thiêu hủy tất cả.
Hòa, Phát hai con!
Hai con đã chết đi để bảo vệ những nguyện vọng yêu nước xứng đáng của các con. Hai con chết để cho Tổ quốc, Đạo pháp được sống.
Bên kia cõi Cực Lạc, hai con hãy hãnh diện đã được làm bó đuốc ấy. Phát ra ánh sáng, Hòa và bóng tối. Chính nghĩa mà hai con và bạn bè của hai con đã bảo vệ, sẽ có hàng vạn triệu người khác sẽ kế tục, cũng như hai con đã kế tục Quách Thị Trang và bạn bè Quách Thị Trang.
Chết cho sự sống, tức là chết để mà sống. Tên hai con sẽ vĩnh viễn sáng rực trong lịch sử của Dân tộc và Đạo pháp, bên cạnh những Thích Quảng Đức, những Quách Thị Trang. Nhiệm vụ thiêng liêng của người trai thế hệ, hai con đã làm xong với đời cũng như với đạo, hai con đã đền xong nợ! Còn vinh dự nào cao cả hơn! Quang cảnh trang nghiêm tưng bừng mà những người đồng đạo và đồng bào hai con, đang hiện tiền để dành cho hai con là bằng chứng hùng hồn nhất.
Thác là thể phách, còn là tinh anh.
Hai con sẽ sống mãi mãi, sống vĩnh viễn trong lòng Đạo pháp và Dân tộc, bên cạnh chư Thánh tăng và chư Liệt sĩ. Và ngày 27.8.1964 là ngày chống bạo tàn, rồi cũng sẽ chiếu sáng rực rỡ như hai ngày 25.8 và 11.6.1963.
Than ôi! Cuộc nhân thế khác gì giấc mộng, cơn tỉnh, cơn mê! Kiếp phù sinh như thể cuộc cờ, lúc bày lúc xóa! Khiến con người sống cũng như không, mà thác cũng như không!
Thôi hai con hãy yên lòng an nghĩ nơi miền Cực Lạc; việc nước việc nhà đã có muôn người thay con lo liệu. Thầy thay mặt Giáo Hội gởi đến hai con tất cả những niềm thương tiếc mến trọng của những người ở lại.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật.
Cầu chư Phật gia hộ hai con và thân quyến hai con.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
TỔNG VỤ THANH NIÊN
06.9.1964
ĐIẾU VĂN
Của PHẬT GIÁO HÒA HẢO
Kính thưa Thượng Tọa Viện Trưởng, Quí vị Thượng Tọa Đại Đức, Tăng Ni trong Giáo Hội.
Kính thưa toàn thể Quí vị Quan Khách.
Kính cùng toàn thể đạo hữu thân mến
Hôm nay, chúng tôi tới đây, đại diện tinh thần cho toàn thể tín đồ Phật-giáo Hòa Hảo trong nước, và đặc biệt cho 10000 tín đồ Phật-giáo Hòa Hảo có mặt trong đám tang này, để nói lên mối xúc động chân thành và sâu xa trước cái chết đau đớn và dụng cảm của hai Phật tử đã biết hy sinh vì chính pháp và vì quyền lợi sống còn của Dân tộc, đang bị sức mạnh bạo tàn phản bội.
Chẳng những hai cái chết này, đã biểu lộ cái tinh thần nhẫn nại, chịu đựng không thiếu cương quyết trong chủ trương tranh đấu của Giáo Hội ta, mà còn sáng tỏ cái truyền thống anh dũng bất khuất của toàn thể Dân tộc Việt Nam của mọi tầng lớp xã hội Việt Nam và của tinh thần đoàn kết nhất trí trong thế hệ thanh niên Việt Nam.
Qua lịch sử Dân tộc, Phật-giáo đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân Việt, để trở thành khuôn khổ trong nếp sống hằng ngày, nên quyền lợi của Dân tộc thực đã gắn vào quyền lợi của Giáo Hội trong mọi cuộc đấu tranh chính trị để bảo vệ Dân tộc, dân chủ và tự do, cũng như mọi công bằng xã hội. Ý thức như vậy, thì hai cái chết này không chỉ do động lực tôn giáo thúc đẩy, mà chính do lòng yêu nước vì dân, mà hai thanh niên này đã hy sinh.
Như ai nấy đều thấy rõ, mọi sự hy sinh từ trước, để đả phá độc tài, áp bức là của toàn dân, nên Phật-giáo thấy rằng mình đấu tranh không phải chỉ cho riêng Giáo Hội, mà thực ra cho cả Dân tộc. Bởi vì Phật-giáo thấy rỏ tự do công bằng xã hội là tự do công bằng của đạo Phật, mà người Phật tử cần phải bảo vệ liên kết xã hội. Thế cho nên hai cái chết này là một sự hy sinh nữa, để đóng góp thêm vào những hy sinh từ trước đến nay của các vị Liệt sĩ, các Thánh Tử Đạo trong công trình tranh đấu công bình, tự do, dân chủ của toàn dân.
Nói như thế, tôi muốn xác định ở đây sự đồng tình và ngưỡng mộ của toàn thể Phật-giáo đồ Hòa Hảo, đối với hai liệt sĩ này đã ngã gục xuống trong các vụ bạo hành vừa qua của những phần tử phản động, chúng bám lấy chút ưu quyền đặc lợi, mà độc tài bất công đã mang lại cho chúng.
Nói tóm lại, đâu là quyền lợi của Dân tộc, thì ở đó là quyền lợi của Phật-giáo, và ai đã chết cho quyền lợi của Phật-giáo, tức là chết cho quyền lợi của Dân tộc, vì Dân tộc. Trước những hy sinh cao quý đó, chúng tôi xin quý vị Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni, quý vị quan khách và đông đảo quý vị đạo hữu tại đây, hãy cầu nguyện cho tinh thần Phan Văn Hòa và Nguyễn Văn Phát bất diệt trong lòng Dân tộc, cầu nguyện cho công trình dành tự do dân chủ và công bằng xã hội (dẹp mọi tỵ hiềm đố kỵ và tham vọng) chung của GHPGVNTN trong đó có cả Hòa Hảo vậy.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TIỂU SỬ
Phật tử HUỲNH VĂN THIỆN
Sinh trưởng trong một gia đình lao động, nhưng Phật tử Huỳnh Văn Thiện đã sớm có hạt giống lành, phát tâm quy y Tam Bảo và ăn chay trường. Thuở nhỏ Thiện theo học ở trường Trung học Phan Đình Phùng và sau đó học Tư thục Lê Bá Cang và Hồng Lạc.
Thiện khi 15 tuổi đã sớm tham gia Phong trào Thanh niên bảo vệ Đạo pháp dưới triều Ngô. Năm 1946, Thiện gia nhập Đoàn Thanh Niên Phật Tử Thiện Chí. Tánh tình thông minh, vui tươi, nhanh nhẹn nên Thiện lên cấp bậc rất mau, từ đoàn sinh lên đến Đoàn Trưởng.
Thiện rất hằng say học tập giáo lý kinh Pali và đậu cấp bằng giáo lý sơ đẳng. Trong các công tác xã hội, Thiện đã tỏ ra xuất sắc, tận tâm giúp đỡ đồng bào với luôn luôn nụ cười trên môi.
Là một Phật tử yêu nước mến đạo, nên Thiện luôn luôn có mặt trong các cuộc vận động Phật-giáo, Thiện gối đất nằm sương để bảo vệ chư Thượng Tọa, Đại Đức và giữ gìn an ninh trong khuôn viên Việt Nam Quốc Tự, tham gia tuyệt thực và thừa hành nghiêm chỉnh chỉ thị của Giáo Hội.
Năm 1966, Thiện đã dẫn đầu các cuộc biểu tình do Giáo Hội tổ chức, để đòi chủ quyền quốc gia và Quốc Hội Lập Hiến. Thiện tình nguyện ngày đêm ở Việt Nam Quốc Tự để giữ gìn trật tự nơi Viện Hóa-Đạo.
Trước khi mất vài hôm, Thiện nói với Anh em:
“Thà chết cho Đạo pháp và lý tưởng
còn hơn chết cho bạo quyền”
Vào lúc 20 giờ 30 phút ngày 15.6.1966, Thiện lãnh phần trực nơi cổng chính, bị trúng đạn nơi trán, nên liền ngã ngay tại cổng lớn Việt Nam Quốc Tự.
Liền sau đó, được 6 đồng bạn chở đi bệnh viện, đến trước cửa trường Hồng Lạc, đường Trần Quốc Toản, xác Thiện bị cướp và sáu đồng bạn bị bắt luôn.
Đến 0 giờ ngày 16.6.1966, Thiện đã mất tại bệnh viện Đô Thành và chôn tại nghĩa trang Đô Thành.
Đoàn trưởng Huỳnh Văn Thiện là một thanh niên Phật tử Thiện Chí đầu tiên hy sinh cho Dân tộc và Đạo pháp, tô thêm nét son vào lịch sử Phật-giáo Việt-Nam.