Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Pomyong: Cách Cắm Hoa Dành Cho Người Cư sĩ Đại Hàn

26/01/201204:17(Xem: 7313)
03. Pomyong: Cách Cắm Hoa Dành Cho Người Cư sĩ Đại Hàn

PHẬT GIÁO & NỮ GIỚI

NỮ GIỚI & PHẬT GIÁO
(Truyền Thống, Cải Cách, Phục Hồi)
Biên soạn: Ellison Banks Findly
Chuyển ngữ: Diệu Liên Lý Thu Linh, Diệu Ngộ Mỹ Thanh, Giác Nghiêm Nguyễn Tấn Nam

Phần III
CẢI CÁCH XÃ HỘI VÀ CHÍNH TRỊ


POMYONG: Cách Cắm Hoa Dành Cho Người Cư sĩ Đại Hàn
Martine Batchelor chuyển ngữ tiếng Anh

Pomyong sống ở một Ni viện tại Seoul, nơi bà tu thiền và dạy cách cắm hoa.

*

Lúc năm tuổi, tôi được mang đến ni viện này. Lúc đó tôi bệnh rất nặng, gia đình sợ là tôi không sống nổi. Họ tin rằng chỉ có việc gửi tôi lên chùa mới mong cứu được tôi. Thật vậy, tôi đã lành bệnh và đã sống tại đây như một nữ tu sĩ suốt ba mươi hai năm nay. Tôi đã chọn ở lại chùa sau khi lành bệnh vì tôi cảm thấy rất thích đời sống nơi ni viện này. Tôi không ân hận gì về sự chọn lựa đó, và nguyện suốt đời làm người tu. Tôi bắt đầu việc cắm hoa năm 1988 khi thế vận hội Olympics đang được phát động, và chúng tôi được yêu cầu chỉ bày cho khách phương Tây cách cắm hoa theo phương cách của Phật giáo. Năm đó chúng tôi bắt đầu lập hội, và đã hoạt động suôn sẻ từ bấy đến nay. Giờ hàng năm đều có triển lãm cắm hoa do chư ni đảm nhiệm vào ngày Phật đản.

Trong thiền viện này, cũng có không gian dành riêng cho các hoạt động văn hóa. Mỗi thứ sáu, các nữ cư sĩ đến thực hành cắm hoa với tôi. Vì có chút năng khiếu trong việc này, tôi muốn chia sẻ khả năng đó với các cư sĩ đến chùa. Qua việc dạy họ cắm hoa, tôi hy vọng là cũng có thể truyền tải giáo pháp cho họ. Nhiều người thuộc các tôn giáo khác đôi khi cũng tham gia với chúng tôi. Lúc đầu, tôi không nói về Phật giáo. Dần dần, trong khi thực hành cắm hoa, khi thuận tiện, tôi đem giáo lý của đức Phật vào một cách tự nhiên.

Tôi rất thích hoa. Tôi biết cách cắm hoa nhờ luôn dâng hoa cúng Phật. Có sáu hình thức cúng dường cho đức Phật, và hoa là một trong sáu cách đó. Nghệ thuật tâm linh này đã bị mai một khi Phật giáo bị những người theo Nho giáo đàn áp trong suốt năm trăm năm. Tôi muốn làm sống dậy nghệ thuật tâm linh này cho Phật giáo vì người ta có thể được lợi ích nếu được học một cách nghiêm chỉnh. Nghệ thuật cắm hoa không phải chỉ là cắm hoa vào bình. Khi cắm hoa tôi thiền, và tâm tôi trở nên rất yên tĩnh khi tôi gác bỏ mọi chuyện. Vì dầu là một nữ tu sĩ, tôi cũng có những khó khăn của riêng mình. Khi cắm hoa, những gì mà tôi chứng kiến, những gì mà tôi thu thập, tất cả những nỗi bất an trong lòng tôi, tất cả đều biến mất. Đối với tôi, điều này cũng giống như thiền định.

Lúc bắt đầu lớp học, chúng tôi tụng kinh Phật, thề nguyện nương trú tam bảo (Phật, Pháp, Tăng), và đọc Tâm kinh [Heart Sutra - một bản kinh Đại thừa ngắn về tánh Không]. Sau đó im lặng ngồi thiền trong năm phút. Tôi nói với các học viên rằng tâm trí của họ cũng cần tươi đẹp như hoa. Tuy nhiên, điều đó không thể có được vì chúng ta sống trong vô minh và những nỗi ám ảnh u ám. Tôi khuyến khích họ nên tiếp xúc với con cái, thân bằng với tâm cao quý, và tươi đẹp như hoa. Tôi cố gắng giảng về đức Phật và giáo lý của Ngài bằng những ẩn dụ, biểu tượng về hoa. Đó là một cách giáo dục toàn vẹn: từ cách cắm hoa đúng cách, đến cách gìn giữ thân tâm. Họ phải giữ tư thế phù hợp khi cắm hoa. Lưng phải thẳng. Tâm phải trong sáng, tỉnh thức, không chỉ trong lớp học mà cả trong đời sống hằng ngày. Khi tôi nói họ phải sống có trí tuệ, tôi hàm ý là họ phải sống một cách khôn ngoan. Bất cứ khi nào phải đối mặt với những hoàn cảnh khó khăn, họ phải cố gắng giải quyết chúng một cách khôn ngoan.

Các nữ cư sĩ đến học thường đã lập gia đình. Trong cuộc sống gia đình, họ gặp phải bao điều khó khăn - với chồng con, gia đình, mẹ chồng. Ngày nay, cuộc sống gia đình thường rất phức tạp, và điều này thường khiến người ta rất đau khổ. Tôi khuyên họ nên giải quyết các vấn đề này một cách khôn ngoan. Đôi khi họ chia sẻ với tôi những nỗi khổ đau to lớn mà họ không biết làm cách nào để giải quyết hay để chịu đựng, nên sau mỗi buổi học tôi thường có những buổi gặp riêng để tư vấn họ. Đức Phật ngự trên toà sen cao ngất, nhưng chư ni chúng tôi là chúng sanh, và người ta có thể chia sẻ với chúng tôi tất cả những gì trong tâm họ. Bằng cách chia sẻ với tôi về những vấn đề của họ, họ cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái hơn.

Các nữ cư sĩ này thường ở tuổi trung niên, hơn bốn mươi. Họ ở một bước ngoặt của cuộc đời. Họ tự hỏi về ý nghĩa cuộc đời mình. Họ đã lập gia đình từ lúc hai mươi, ba mươi tuổi, giờ họ bốn mươi, năm mươi, con cái đã lớn, đã tự lập. Hai mươi năm qua họ bận rộn chăm sóc con cái, lo lắng cho chồng. Giờ đã trọng tuổi, họ bắt đầu tự hỏi những điều như: “Tôi đã làm gì suốt những năm tháng qua?”, “Ý nghĩa cuộc đời tôi là gì?” Những năm tháng qua, họ không thể sống theo ý mình muốn. Nghe ở chùa có lớp cắm hoa, họ đã đến, coi như là một phần thưởng nhỏ cho bản thân. Từ lúc đó trở đi họ có thể chăm lo cho bản thân nhiều hơn.

Dầu họ đã nhiều năm đến chùa, lắng nghe Phật pháp, nhưng họ chưa từng hành thiền. Những gì chư ni giảng về thiền và cuộc sống chưa thực sự thấm sâu vào họ. Nhưng qua việc học cắm hoa, họ có thể tương quan với tôi tốt hơn, bắt đầu quán chiếu và cố gắng hành thiền. Nhiều người chia sẻ với tôi là tâm của họ được bình an và tĩnh lặng hơn như thế nào kể từ khi họ đến đây.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 3474)
Cuộc đời và tiểu sử Bà Maha Pajapati Gotami, sự xuất gia của bà và sau đó sự thành lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni (Bhikkhuni) là một trong những mẫu chuyện sáng chói và hấp dẫn nhất trong văn học Phật Giáo. Nó biểu lộ cùng lúc trí tuệ thấy xa và lòng nhân đạo của Đức Phật Đại Từ Đại Bi. Hơn nữa nó cho thấy đến mức nào năng lực hùng mạnh của sự quyết tâm bất khuất, bất thối chuyển và lòng quả cảm của một thiếu phụ có thể gieo ảnh hưởng đến xã hội đương thời.
09/04/2013(Xem: 3534)
Đức Phật Siddhattha Gotama đang ngự trong thành Savatthi (Sravasti, Xá Vệ), Ấn Độ, tại Kỳ Viện Tịnh Xá của Trưởng Giả Anathapindika, Cấp Cô Độc. Vào lúc ấy Đại Đức Ananda, vị đệ tử trung kiên và là thị giả chuyên cần nhất của Đức Bổn Sư cũng ngụ tại ngôi tự viện ấy. Ngày nọ, như thường lệ, Trưởng Lão Ananda y phục chỉnh tề, tay ôm bình bát, chân thong dong đều đặn từng bước, và mắt nhìn xuống, đi vào thành Savatthi.
09/04/2013(Xem: 3440)
Quan niệm về quyền lợi phụ nữ xưa nay vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi trên bình diện đạo đức xã hội. Sự ra đời cụm từ ‘quyền lợi phụ nữ’ (women’s rights) hàm ý người phụ nữ vốn chịu nhiều thiệt thòi hơn nam giới. Cụm từ này có thể đã dẫn đến sự hình thành nhiều phong trào tích cực trong lịch sử phát triển xã hội.
09/04/2013(Xem: 4853)
Trong bài viết này, dựa vào kinh nghiệm cá nhân, tôi sẽ trình bày khái quát về hiện thực Phật giáo Việt Nam và vai trò của ni giới Việt Nam ngày nay. Phần thứ nhất là giới thiệu về Phật giáo Việt Nam. Hiện nay, Phật giáo Việt Nam có 3 truyền thống lớn: Bắc tông (Mahayàna), Nam tông (Theravada), và Khất sĩ. Tuy hình thức sinh hoạt khác nhau, nhưng cả 3 truyền thống này đều có tăng ni tham gia vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam; và vai trò của Ni giới Việt Nam đã được thể hiện cụ thể trên nền tảng của tổ chức Phật giáo duy nhất này.
09/04/2013(Xem: 4809)
Giới thiệu : Bài này được trích từ tuyển tập những bài tham luận đọc tại các Hội Nghị Quốc Tế do Hội Ni Giới Phật Giáo Quốc Tế Sakyadhita tổ chức, nhan đề “ Bước Ra Khỏi Bóng Tối: Ni Giới Dấn Thân vào Xã Hội” (Out of the Shadows: Socially Engaged Buddhist Women), đo Ni Sư Karma Lekse Tsomo xuất bản năm 2006.
08/04/2013(Xem: 6814)
Từ lâu Ni giới có một vị trí thấp trong Xã Hội Campuchia, dường như họ không được thừa nhận và hoàn toàn bị lưu mờ bởi Tăng giới Phật giáo trong xứ sở này. Hầu hết các nữ tu không được học hành và không được tiếp nhận bất cứ một giáo dục Phật học nào. Hình ảnh đoàn thể của họ bị mang tiếng xấu bởi một số cá nhân đi khất thực trái phép.
08/04/2013(Xem: 3518)
Vai trò và vị trí của nữ giới và nam giới trong xã hội thường được ấn định khác nhau trong các vùng văn hóa khác nhau. Vì các lý do chính trị, xã hội hay tôn giáo, từ xưa nam giới thường được đề cao, nữ giới thì giữ một vị trí khiêm tốn hơn, có nơi bị xem nhẹ, như ở các xã hội chủ trương "đa thê", "phụ thê", "nam nhất viết hữu, nữ thập viết vô", phụ nữ ra đường phải che mặt, chỉ đảm nhiệm công việc gia đình, hay phải chịu tổn phí cưới hỏi.... Thậm chí thiếu mất quyền làm chủ gia đình và quyền lợi về giáo dục.
08/04/2013(Xem: 3215)
Ni sư Houn Jiyu Kennett, người khai sơn và làm Ni trưởng ni viện Shasta ở bang California, Hoa Kỳ, là một trong những nữ tu theo PG đầu tiên ở phương Tây. Trong 30 năm hoằng pháp tại Hoa Kỳ, bà đã đem lại lợi lạc cho người dân ở xứ sở này qua việc thuyết giảng, viết sách báo... Các tác phẩm đáng chú ý nhất của bà là "Con ngỗng trắng hoang dã" (The wild white Goose), xuất bản năm 1977 và tái bản năm 1978 ; và "Dòng sông bán nước" (Selling water by the river) in năm 1972, đến năm 1978, quyển sách này được tái bản với tựa đề mới là "Thiền là đời sống vĩnh hằng" (Zen is Eternal life). Đây là những cuốn sách rất được các thiền sinh phương Tây ưa chuộng. Tuy nhiên, trong thời gian hoằng pháp tại các nước phương Tây, bà đã tự mình tách khỏi các tông phái thiền khác ở Mỹ và cả ở Nhật Bản.
08/04/2013(Xem: 6614)
Một học giả Phật giáo, dịch giả và tác giả người Hoa Kỳ, cô Besty Napper đã từ bỏ công việc dạy học của mình ở Đại học đường Stanford vào năm 1990 để đến làm việc tại Dharamsala - Ấn Độ, giúp đỡ sư bà Rinchen Khadro, điều hành một kế hoạch xây dựng một ni viện và một trường Phật học cho ni giới Tây Tạng. "Tôi có cái may mắn mà người phụ nữ Tây Tạng không có được", cô đã trả lời phỏng vấn với sư cô Robina Courtin vào tháng sáu trong chuyến đi ngắn trở lại Hoa Kỳ để in lịch Tây Tạng năm 1996.
08/04/2013(Xem: 3276)
Một lần nữa, Đức Đạt Lai Lạt Ma lại tới Nam California hôm Thứ Ba 26-9-2006, nói chuyện trước 13,000 phụ nữ trong hội nghị có tên là Honference on Women (Hội Nghị về Phụ Nữ), tổ chức bởi Thống Đốc Arnold Schwarzenegger và đệ nhất phu nhân tiểu bang Maria Shriver.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567