Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

01. Jamin: Ni Sư Đại Hàn Công Tác Trong Trại Giam

26/01/201204:17(Xem: 7467)
01. Jamin: Ni Sư Đại Hàn Công Tác Trong Trại Giam

PHẬT GIÁO & NỮ GIỚI

NỮ GIỚI & PHẬT GIÁO
(Truyền Thống, Cải Cách, Phục Hồi)
Biên soạn: Ellison Banks Findly
Chuyển ngữ: Diệu Liên Lý Thu Linh, Diệu Ngộ Mỹ Thanh, Giác Nghiêm Nguyễn Tấn Nam

Phần III
CẢI CÁCH XÃ HỘI VÀ CHÍNH TRỊ


JAMIN: Ni sư Đại Hàn Công Tác Trong Trại Giam
Martine Batchelor chuyển ngữ tiếng Anh


Tại Đại Hàn, việc thọ đại giới không có sự hạn chế đối với các sư cô. Họ có ni viện riêng, nữ y chỉ, nữ trụ trì và nữ giáo thọ sư riêng. Họ hoàn toàn độc lập với chư tăng về phương diện tài chánh. Trong 500 năm, từ 1400 đến 1900, Phật giáo bị Nho giáo đàn áp, nên chư tăng có rất ít quyền lực. Tăng và ni đều bình đẳng trong việc tìm cách sống sót qua bao khó khăn. Ở Đại Hàn, cũng có truyền thống vu bà (female shaman) rất mạnh. Tất cả những yếu tố lịch sử và xã hội khác nhau đã giải thích tại sao trong tất cả mọi truyền thống Phật giáo, chỉ có chư ni ở Đại Hàn là bình đẳng với chư tăng nhất.

Đầu thế kỷ 21, Nho giáo bắt đầu tan rã, và sự khôi phục Phật giáo đã diễn ra, là điều không chỉ ảnh hưởng đến chư tăng mà cả chư ni. Chư ni lợi dụng thời điểm khôi phục, đã đến cư trú tại các ngôi chùa bị bỏ hoang, trùng tu chúng lại, xây mới các thiền đường và giảng đường nơi các sư cô có thể được huấn luyện một cách nghiêm chỉnh. Nhiều vị nữ thiền sư đắc đạo, học giả ni nổi tiếng đã xuất hiện, và các vị ni khác cũng đạt được những thành quả theo cách riêng, đầy sáng tạo của mình.

Jamin là một ni sư rất được kính trọng ở tuổi ngoài sáu mươi, thuộc hội các trưởng lão ni ở Đại Hàn, thường thăm viếng các phạm nhân trong trại giam. Bà rất tử tế, thân thiện, dầu lúc nào cũng luôn bận rộn.

***

Sau khi xuất gia, tôi tham dự nhiều trường Phật học để học kinh điển suốt 13 năm. Sau đó, tôi viếng các thiền đường và nhận thấy rằng thiền rất hữu dụng. Tuy nhiên, vì chương trình tu học của tôi, Phật tử luôn yêu cầu tôi dạy về kinh điển vì tôi đã nhận được sự tryền thừa và được phép dạy theo dòng truyền thừa nổi tiếng Pomosa. Tôi bắt đầu dạy học và cũng giúp dịch kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka Sutra) [một bản kinh Đại thừa đồ sộ về sự tương quan lẫn nhau] sang tiếng Đại Hàn. Suốt 13 năm tôi dạy trong các tu viện, nhưng vì bị bệnh, tôi ngưng dạy nhiều và thay vào đó bắt đầu thỉnh thoảng giảng giải Phật pháp cho cư sĩ. Ba năm trước đây tôi được mời đến giảng cho phạm nhân trong các trại giam.

Tôi đến trại giam mà không suy nghĩ nhiều về việc đó, vì tôi được mời đến để giảng một thời pháp thôi. Tuy nhiên, khi đã đến đó và gặp gở những người tù, tôi thay đổi ý. Dầu một số tù nhân phạm các trọng tội, nhưng phần lớn do hành động vô tình hay vì tự vệ. Họ có thể phạm tội trong nháy mắt, rồi nó qua đi, biến mất, sau đó họ trở lại bình thường. Những người họp lại để nghe tôi giảng pháp không có vẻ gì là những phạm nhân.

Khi bước chân vào tù, các phạm nhân thường buông xuôi, buồn nản. Dầu tôi cố gắng để khơi dậy niềm hy vọng trong họ, nhưng điều đó thật khó, vì không có tình cảnh nào buồn thảm hơn là ở trong tù. Dường như người ta cố tình tạo ra một không gian ảm đạm, và ở đây người ta chỉ thấy, nghe và học hỏi về các tội ác. Đối với nhiều phạm nhân, nó đã trở thành một vòng luẩn quẩn. Vì vậy, những gì chúng ta gọi là tội ác, nó không thực sự hiện hữu - nó được điều kiện hoá bằng nhiều yếu tố.

Tôi cố gắng dạy các phạm nhân về luật nhân quả, nghiệp và quả. “Tất cả những gì tôi tạo ra, tôi sẽ nhận trả lại”. Tôi hỏi họ về hoàn cảnh riêng. Nhiều người rất nản chí, họ cảm thấy bị oan ức và hỏi: “Tại sao tôi đến chốn này? Tại sao tôi kết thúc trong hoàn cảnh này?” Rồi họ tự trả lời, “Vì tình yêu, vì tiền hay hoàn cảnh xã hội”. Trước khi tự quán xét bản thân, họ nghĩ ra đủ thứ chuyện để cảm thấy chua chát, oán hận cuộc đời, xã hội, cha mẹ, anh em của họ.

Tôi khuyên họ hãy buông bỏ tất cả mọi oán hận, rồi tự quán chiếu xem mình đã hành động như thế nào, đã nhận lãnh những gì trở lại. Những suy nghĩ của chúng ta tất cả đều được tạo ra và phát triển từ hạt giống trong ta, vì thế trước hết ta phải quán sát bản thân cẩn thận. Khi tôi giảng những bài pháp thoại như thế, nhiều người đã khóc, và giữa những tiếng khóc đã có rất nhiều sự tự soi xét, quán chiếu bản thân. Nếu họ tiếp tục quán chiếu như thế, khi trở về lại với xã hội, ngay nếu như có những nỗi khổ không thể chịu đựng được, họ vẫn có thể kiên nhẫn chịu đựng. Sức mạnh để chống lại những phản ứng bản năng có được là nhờ những sự quán chiếu này. Tôi cảm thấy dù điều đó nhỏ nhặt đến đâu, nhưng nếu những gì tôi nói có thể giúp họ sửa đổi cá tính, thì như thế cũng đủ cho tôi rồi.

Nếu phạm nhân có yêu cầu, tôi vẫn gặp họ riêng để tư vấn. Có người muốn tâm sự về sự phản bội của người thân yêu. Người khác lại lo lắng về gia đình khi họ đang phải ngồi tù, và nhờ tôi hãy chăm sóc gia đình họ, nên tôi thường cố gắng tìm gặp gia đình họ để xem người thân của họ sống thế nào. Có nhiều tù nhân kỳ cựu không còn người thân nào cả. Tôi giúp họ có mối liên hệ thân thiện với người khác, chuẩn bị thực phẩm làm quà cho họ. Tôi cũng hỏi về ngày sinh của họ để tổ chức gì đó cho họ.

Tôi lắng nghe họ chăm chú, và dựa vào hoàn cảnh cá nhân của họ, tôi tìm những giáo lý thích hợp trong Phật giáo để giảng lại cho họ. Tôi nhắc đến những đoạn kinh phù hợp để so sánh với hoàn cảnh của họ. Vì tôi là một người Phật tử, một ni sư, tôi chỉ biết học theo giáo lý của Phật, dầu tôi cũng sử dụng từ ngữ của mình, nói với họ về kinh nghiệm của mình, những gì tôi đã học từ họ và những gì tôi sẽ khuyên nhủ người khác.

Qua việc phát triển trí tuệ, chúng ta có thể đạt được Giác ngộ. Phật pháp không nói về gì khác hơn; Phật pháp chỉ nói về sự hoàn thành và hoàn hảo cá tính của mỗi người. Khi chúng ta đã hoàn hảo cá tính của mình, thì tình thương yêu, và lòng bi mẫn sẽ xuất hiện. Không có chúng, ta sẽ khổ đau vì sân hận, bất mãn và oán hờn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/11/2011(Xem: 3635)
Trong khoảng bốn mươi năm gần đây, phong trào Nữ quyền (Feminism) không ngớt làm sôi động dư luận. Chỉ riêng với tổ chức Liên hiệp quốc, năm 1952 bổn Tuyên ngôn về Quyền chính trị của Nữ giới được long trọng tuyên khải. Năm 1975 được gọi là năm quốc tế Nữ quyền, và Liên hiệp quốc triệu tập Hội nghị Thế giới về Nữ quyền tại Mexico. Hội nghị đầu tiên về Quyền sinh sản Làm mẹ và quyền tự do lựa chọn ngừa thai hay phá thai họp tại Nairobi, Phi châu năm 1985. Mười năm sau, năm 1995, Liên hiệp quốc tổ chức Đại Hội Nữ quyền Thế giới tại Bắc kinh, thủ đô của nước Trung hoa. Hội nghị kết hợp 185 quốc gia, gồm 4000 đại biểu chính phủ thảo luận trong mười ngày nhằm thay đổi đường lối, chính sách của các quốc gia để cải thiện phương tiện y tế, giáo dục, kinh tế và chính trị trong đời sống người đàn bà.
15/10/2011(Xem: 3850)
Nữ giới Mỹ đang đưa Phật giáo bước ra khỏi chế độ phụ hệ (tộc trưởng) củaquá khứ, tham gia tự tinvào các lãnh vực như là các học viên, giáosư, và các nhà lãnh đạo. Công việc này chưa phải là kết thúc, Tiến sĩ Rita M. Gross, một trong những nhà tư tưởng nữ quyền hàng đầu của Phật giáonói, nhưng vai trò của phụ nữ Phật giáo Mỹ là chưa từng cóvà họ có thể tiếp tục thay đổi Phật giáo.
19/06/2011(Xem: 5929)
Chuyện nam nữ có lẽ là vấn đề (tạm gọi) - là muôn thuở. Nó bắt đầu từ thời kỳ hồng hoang mà đến nay vẫn mang tính thời sự nóng hổi! Để bàn vấn đề này liên quan đến tổ chức, quan điểm của Phật giáo, có lẽ phải bắt đầu từ những lý do căn bản như sau.
27/04/2011(Xem: 6505)
Bên cạnh sức hấp dẫn đặc biệt từ thực tế rùng mình áp đặt lên người phụ nữ, Bị thiêu sống còn thu hút độc giả qua giọng văn giản dị, truyền cảm.
04/01/2011(Xem: 53096)
QUYỂN 5 MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI BỐN (Năm 574 trước TL) 91 CÁC LOẠI CỎ Đầu Xuân, khi trời mát mẻ, đức Phật tính chuyện lên đường trở về Sāvatthi. Thấy hội chúng quá đông, đức Phật bảo chư vị trưởng lão mỗi vị dẫn mỗi nhóm, mỗi chúng phân phối theo nhiều lộ trình, qua nhiều thôn làng để tiện việc khất thực. Hôm kia, trời chiều, cạnh một khu rừng, với đại chúng vây quanh, đức Phật ngắm nhìn một bọn trẻ đang quây quần vui chơi bên một đám bò đang ăn cỏ; và xa xa bên kia, lại có một đám trẻ khác dường như đang lựa tìm để cắt những đám cỏ xanh non hơn; ngài chợt mỉm cười cất tiếng gọi:
15/12/2010(Xem: 20935)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
16/11/2010(Xem: 8634)
Chúng tôi vui mừng biết rằng Hội Nghị Quốc Tế Sakyadhita về Đạo Phật và Phụ Nữ được tổ chức tại Đài Loan và được phát biểu bởi một tầng lớp rộng rãi những diễn giả từ thế giới Phật Giáo. Chúng tôi tin tưởng vững chắc rằng, những người Phật tử chúng ta có một đóng góp nổi bật để làm lợi ích cho nhân loại theo truyền thống và triết lý đạo Phật.... Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
10/09/2010(Xem: 60143)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
06/09/2010(Xem: 3650)
Theo tinh thần Phật giáo Đại thừa, chư vị Bồ tát tùy loại ứng hiện thân, nghĩa là mang thân hình nào có thể giúp cho nhiều người hướng thiện, an vui, giải thoát thì các Ngài hiện diện với thân hình đó; vì các vị Bồ tát xem thân vật chất này như chiếc áo mặc bên ngoài, hay một phương tiện để thực hiện sáu pháp Ba la mật của Bồ tát hạnh.
04/09/2010(Xem: 3282)
Ở một góc độ nào đó, nếu khách quan mà nhìn chúng ta chắc chắn sẽ tìm được một sự công bằng, bình đẳng nào đó. Nhưng thực tế, khi đã nói ?chúng ta nhìn? tức đã nhuốm màu ngã tính với cái nhìn đây của ta, là của ta, là tự ngã của ta. Và đó cũng chính là nguyên nhân của biết bao sự bất bình đẳng, sự kỳ thị màu da chủng tộc, đặc biệt là sự phân biệt nam nữ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]