Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

03. Vận Động Thành Lập Hội Chúng Ni Ở Thái Lan

26/01/201204:17(Xem: 6454)
03. Vận Động Thành Lập Hội Chúng Ni Ở Thái Lan

PHẬT GIÁO & NỮ GIỚI

NỮ GIỚI & PHẬT GIÁO
(Truyền Thống, Cải Cách, Phục Hồi)
Biên soạn: Ellison Banks Findly
Chuyển ngữ: Diệu Liên Lý Thu Linh, Diệu Ngộ Mỹ Thanh, Giác Nghiêm Nguyễn Tấn Nam

Phần I
SỰ THỌ GIỚI, HỆ PHÁI VÀ MỐI LIÊN HỆ VỚI TĂNG ĐOÀN


Vận Động Thành Lập Hội Chúng Ni Ở Thái Lan

phatgiaovanugioi-02Tỳ Khưu-ni Dhammananda (Tiến sĩ Chatsumarn Kabilsingh) đã du học tại Ấn Độ và Canada. Bà đã trải qua 32 năm dạy học tại Khoa Triết Học & Tôn Giáo ở trường đại học nổi tiếng Thammasat, Thái Lan. Bà đã ly dị, có ba con trai đã trưởng thành và ba cháu nội.
CHATSUMARN KABILSINGH:
Cuộc đời bà đã chuyển hướng năm 2000 khi bà thọ nhận Bồ-tát Giới tại Phổ Quang Sơn ở Đài Loan. Năm sau đó, 2001, bà đã thọ nhận giới sa-di ni tại Tích Lan. Năm 2003, bà thọ giới tỳ-khưu ni cũng tại Tích Lan.
Chatsumarn Kabilsingh là con gái của Voramai Kabilsingh. Bà là người tranh đấu tích cực cho nữ quyền. Bà dạy thiền và thường tổ chức các khoá tu dành riêng cho nữ giới tại Thái Lan.

*

* *

Mẹ tôi xuất gia làm nữ tu (mae chi) cách đây ba mươi sáu năm, lúc tôi được mười tuổi. Bà đã biến nhà chúng tôi thành một ngôi chùa. Dần dần các nữ tu khác đến ở với bà. Đến cuối năm đầu tiên, chúng tôi có độ hai mươi người. Họ đắp y màu vàng nhạt.

Quyết định trở thành nữ tu của mẹ tôi là đỉnh điểm của nhiều yếu tố. Khi cha tôi còn là một dân biểu, mẹ tôi thường đi theo ông. Bà là ký giả. Khi đi theo ông để tường thuật về các sinh hoạt ở thôn quê, bà đã thấy nhiều trẻ em nghèo. Chúng là tương lai của đất nước, nhưng lại không được ai giúp đỡ gì cả. Bà quyết định thành lập một viện mồ côi. Bà cũng thích hành thiền. Bà đã đạt được một tầng thiền cao nào đó. Bà tin rằng nếu trở thành người tu, bà có thể giúp đỡ người khác một cách hữu hiệu hơn.

Tôi còn quá trẻ để thích hay không thích việc mẹ tôi trở thành nữ tu và việc biến nhà thành chùa. Nhưng tôi nhớ lại cảm giác khó chịu khi mẹ đến trường tôi học vì tôi không biết phải giải thích chuyện này với các bạn học như thế nào. Mẹ tôi luôn là người mà lời nói của bà trở thành luật lệ trong nhà và chúng tôi chỉ việc làm theo bất cứ điều gì bà muốn. Tôi đã tham gia vào việc tụng kinh và tất cả mọi hoạt động trong chùa. Tôi đã lớn lên trong một hoàn cảnh như thế.

Khi chúng tôi dọn đến nơi này, mẹ tôi mở trường và chị tôi phụ giúp bà. Đó là ngày mà trường học mở ra cho công chúng. Lúc đầu chúng tôi có rất ít học trò, độ ba mươi em. Bây giờ chúng tôi có bốn trăm em. Khi học sinh nghỉ hè, chúng tôi dành nơi này cho phụ nữ đến tu thiền.

Chúng tôi đã từng có một cô nhi viện. Có năm người chúng tôi phải chăm sóc cho tám mươi người, vừa trẻ em vừa nữ tu. Sau ba mươi lăm năm chúng tôi đang bước vào thời kỳ suy thoái, vì mẹ tôi trở nên già yếu. Bà từng rất tích cực hoạt động, nhưng cách đây ba năm bà đã ngưng tất cả mọi hoạt động bà đã từng tham gia. Trong suốt ba mươi hai năm, mỗi tháng bà đều xuất bản một tờ nguyệt san. Năm ngoái, bà đã ngã bệnh và không còn ngồi dậy nổi nữa. Cô nhi viện đã đóng cửa cách đây mười năm. Vì nó đã trở nên một gánh nặng cho mẹ tôi, trong khi tôi chưa sẵn sàng để thay thế cho bà.

Khi còn hoạt động tích cực, mẹ tôi vừa là giám đốc điều hành vừa là cố vấn cho trường học và cho cô nhi viện. Còn các tu nữ thì cũng vừa dạy học vừa chăm sóc cho các em mồ côi. Chúng tôi cũng tự trồng trọt lấy. Một khu đất rộng của chùa được dùng để trồng lúa và chúng tôi trồng đủ lúa cho nhu cầu của mình. Tôi đang suy tư về sự suy thoái của chùa. Chúng tôi đã làm gì sai? Đó là lý do tại sao tôi quan tâm đến việc tổ chức các khóa tu thiền, việc tu tập để hiểu Pháp học và Pháp hành hơn.

Mẹ tôi giống như một nhà lãnh đạo tâm linh, nhưng đã đi quá nhanh đến nỗi bà bỏ bạn đạo lại phía sau khá xa. Ít người hiểu bà đang làm gì. Họ làm việc, lao động chung với bà nhưng không cùng chung chia sẻ được tâm và trí. Đây là điều khiếm khuyết mà tôi thấy được trong tổ chức này. Chúng tôi phải làm việc cật lực chung với nhau, bất cứ tôi làm điều gì thì các đệ tử của tôi phải hiểu rõ điều đó và cùng làm với tôi.

Tôi dần tiếp nối công việc của mẹ, giữ cho ngọn lửa nhiệt tình vẫn cháy, nhưng theo một hướng hơi khác. Theo truyền thống Phật giáo, muốn tạo công đức thì hãy xây chùa. Tôi đã nói với mẹ là khi tôi có quyền hạn, thì thay vào đó, tôi sẽ đào tạo con người. Sở dĩ chúng tôi có được cơ sở khang trang ở nơi này, là vì mẹ tôi đã bỏ rất nhiều tiền vào các công trình xây dựng. Bà đã rất thành công, rất có khả năng trong việc gây quỹ để xây dựng bao công trình cho chúng tôi. Giờ đây chúng tôi đã có đầy đủ cơ sở, thì trách nhiệm duy nhất của chúng tôi là bảo trì chúng, giữ cho chúng được lâu bền, nhưng phải có người ở trong đó, những người hộ Pháp. Tôi không có ý tham gia quá nhiều vào các hoạt động xã hội và an sinh xã hội. Chúng tôi sẽ giúp cho con người có đủ sức mạnh để tự bước trên đôi chân của họ.

Đã nhiều lần tôi có cảm giác mình phải trở thành nữ tu. Đến lúc đó, tôi phải rất chắc chắn về điều này. Một khi được xuất gia tôi sẽ không hoàn tục, đó phải là nguyện ước của cả đời. Tôi không thể thối lui vì tôi phải làm gương. Là người tu sĩ thì phải làm gương tốt, nếu không thì thà đừng xuất gia ngay từ đầu. Tôi đang đợi đúng lúc khi mà cơ bản đời sống tôi đã đủ vững chắc, khi tôi có đủ tài chánh và địa vị xã hội. Tôi cảm thấy đời tôi giống như một tam giác. Tôi cũng muốn các con tôi đủ sức tự lập. Chồng tôi đã biết điều đó ngay từ đầu. Khi ông hỏi cưới tôi, tôi đã nói rằng ước nguyện của tôi là trở thành nữ tu.

Gần đây tôi đi đây, đi đó nhiều. Trong mỗi chuyến đi, tôi được yêu cầu hướng dẫn hành thiền. Tôi chưa tự xem mình là một thiền sư, nhưng các thiền sinh dường như học hỏi được nhiều điều chỉ bằng việc ngồi lại với nhau. Đầu tiên thì chỉ có người Tây phương yêu cầu điều này, nên tôi bắt đầu nghĩ là mình không giúp ích gì được cho chính người dân của mình. Năm ngoái tôi đã có vài buổi nói pháp. Một số người muốn hành thiền vì dường như hành thiền rất hữu ích cho họ. Điều này làm tôi tự tin hơn và tôi bắt đầu suy nghĩ về việc hướng dẫn vài khóa thiền.

Chúng tôi đã có cơ sở ở đây và các cư sĩ lo việc ăn uống, phục vụ cho chúng tôi. Mọi thứ dường như đã sẵn sàng. Khóa thiền đầu tiên có độ một trăm lẽ tám người. Không được thành công so với những gì tôi dự đoán, nhưng nhiều thiền sinh rất hoan hỷ với khoá tu. Nhiều người đã đạt được điều gì đó. Dường như sau khoá tu, họ trở nên tự tin và an lạc hơn, thật cũng đáng công. Trong khóa thiền đầu tiên tôi để ra ba ngày khác nhau: ngày đầu dành cho sự buông xả, ngày thứ nhì để xây dựng tâm từ và ngày cuối cùng là học cách tha thứ.

Điều mà tôi hướng dẫn rất căn bản nên tôi chưa cần đi vào chi tiết. Chúng tôi làm hai việc cùng một lúc: hướng dẫn các thiền sinh và để họ tự tu. Chúng tôi sẽ có các cuộc họp nhóm, khá thường xuyên để rèn luyện các thiền sinh, để họ có thể trở thành các giảng viên. Lúc đó họ có thể dạy trong khu vực của họ, trong khắp nước.

Chúng tôi muốn nhóm lên những ngọn lửa khắp đó đây, và hy vọng nó sẽ tạo sức mạnh cho nữ giới. Khóa học ở đây là làm thế nào để trở nên một người Phật tử tốt có hiểu biết về pháp học và pháp hành. Các thiền sinh sẽ trở thành những hành giả thực hành Giáo Pháp giỏi với một chút nữ tính. Tôi cũng hy vọng là họ sẽ tham gia vào các công tác xã hội. Khóa tu là rèn luyện để hiểu biết. Chúng ta phải biết vấn đề của mình và khổ đau mà ta đã vô tình gây cho kẻ khác. Thường thì chúng ta chỉ biết riêng phần của mình, vì thế chúng tôi cố gắng giúp các thiền sinh tự biết mình tốt hơn và tự cải thiện ngỏ hầu phục vụ xã hội tốt hơn. Không phải chỉ cho bản thân chúng ta; khóa học này giúp chúng ta phục vụ người khác tốt hơn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2013(Xem: 21975)
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc.
08/12/2013(Xem: 26022)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu. Tuy nhiên, thân thể ta là một hợp thể rất mầu nhiệm, nó chứa đựng cả tinh hà vũ trụ bao la. Ta thấy được tất cả các thế hệ tổ tiên, con cháu của ta đều có mặt trong thân ta. Ta cảm nhận sự có mặt của họ trong từng tế bào của cơ thể. Họ luôn có mặt trong ta và chung quanh ta. Họ cũng như các yếu tố khác đã kết hợp lại để làm nên sự sống của ta. Ta có thể tiếp xúc với những yếu tố như đất, nước, lửa và không khí - bốn đại trong ta và ngoài ta. Ta thấy ta như một con sóng trên mặt đại dương. Con sóng này được hình thành bởi các con sóng khác.
03/12/2013(Xem: 52148)
Người ta thường nói :"Ăn cơm có canh, tu hành có bạn". Đối với tôi, câu nói này thật là quá đúng. Ngày nhỏ chưa biết gì nhưng từ khi làm Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử tôi đã thấy ích lợi của một Tăng thân. Chúng tôi thường tập trung thành từng nhóm 5,7 người để cùng nhau tu học. Giai đoạn khó khăn nhất là sau 75 ở quê nhà. Vào khoảng 1985, 86 các anh lớn của chúng tôi muốn đưa ra một chương trình tu học cho các Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn Tỉnh và những Htr có cấp nên đã tạo ra một lớp học Phật pháp cho các Htr ở Sàigòn và các tỉnh miền Nam. Nói là "lớp học" nhưng các Chúng tự học với nhau, có gì không hiểu thì hỏi quý Thầy, các Anh và kinh sách cũng tự đi tìm lấy mà học. Theo qui định của các Anh, Sàigòn có 1 Chúng và mỗi tỉnh có 1 Chúng. Chúng tu học của chúng tôi (Sàigòn) có tên là Chúng Cổ Pháp và phải thanh toán xong các bộ kinh sau đây trong thời gian tối đa là 3 năm:
25/11/2013(Xem: 16751)
Nhìn vào tín ngưỡng Phật giáo nhiều người thường thắc mắc tại sao lại có nhiều "thứ" đến thế! Thật vậy Phật giáo có rất nhiều học phái, tông phái, chi phái..., một số đã mai một, thế nhưng một số vẫn còn đang phát triển và đồng thời cũng có nhiều chuyển hướng mới đang được hình thành. Đối với một người tu tập Phật giáo thì sự kiện ấy thật hết sức tự nhiên: tất cả mọi hiện tượng trong thế giới đều chuyển động, sinh sôi nẩy nở và biến đổi không ngừng. Nếu nhìn vào các tín ngưỡng khác thì ta cũng sẽ thấy cùng một hiện tượng như thế.
30/10/2013(Xem: 34679)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
26/10/2013(Xem: 53667)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
17/10/2013(Xem: 36186)
Tôi đọc kinh sách, nghe giảng và học hỏi, đồng thời rút kinh nghiệm trong những năm qua cùng các pháp hữu nghiên cứu và hoằng truyền chánh pháp, đặc biệt với đạo hữu Nguyên Phước. Thấy cần, rút ra một số nét cơ bản để chia xẻ cùng quý Phật tử thật dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hành trong niềm tin Phật pháp.
08/08/2013(Xem: 29817)
Năm 2010, tại Sài Gòn diễn ra đại hội “Con gái đức Phật” quy tụ hội chúng tỳ-khưu-ni và cận sự nữ Nam Bắc tông trên khắp thế giới về tham dự.Tôi không biết gì về nội dung cũng như hình thức đại hội ấy, nhưng cụm từ “Con gái đức Phật” tôi nghe sao nó dễ thương, bình dị và rất gần gũi với ngôn ngữ đời thường. Từ đó, tôi khởi tâm biên soạn một cuốn sách để giới thiệu về những vị Thánh Ni và những cận sự nữ có hành trạng đặc biệt và thù thắng thời đức Phật và đặt tên đầu sách là “Con gái đức Phật”.
09/04/2013(Xem: 5572)
Một trong những vai trò phục hưng xã hội và cách mạng văn hóa của Đức Phật, điều mà đôi khi bị các sử gia lãng quên, đó là giải phóng phụ nữ. Đức Phật phát huy một cuộc cách mạng trong tư tưởng và trong lối cảm xúc của đại chúng bằng cách công khai và can đảm tuyên bố rằng người nữ có thể đạt đến mức tiến bộ tuyệt đỉnh, thành tựu trí tuệ thâm sâu dẫn tới Niết bàn.
09/04/2013(Xem: 5627)
Hai truyền thống của Nam và Bắc truyền đều thừa nhận rằng, vào thời hoàng kim Phật giáo, mười ba năm đầu trong Tăng đoàn không có giới luật, nhưng sau đó sự lớn mạnh của Tăng đoàn, sự khác biệt về nhận thức nên đức Phật đã chế ra giới luật để “phòng hộ các căn” nhằm giúp cho mỗi thành viên trong Tăng đoàn được thanh tịnh và giả thoát. Thiết nghĩ, Bát kỉnh pháp cũng không ngoài những thiện ý đó!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567