Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chữ Tâm trong công hạnh từ thiện của Sư Bà Như Thanh.

09/04/201311:53(Xem: 3788)
Chữ Tâm trong công hạnh từ thiện của Sư Bà Như Thanh.


CHỮ TÂM TRONG CÔNG HẠNH TỪ THIỆN
CỦA SƯ BÀNHƯ THANH

Dương Kinh Thành 

--- o0o ---

Sinh ra trong cõi trần ai, mỗi một chủng tử đã là một nghiệp dĩ, căn phần thọ nghiệp. Bình đẳng trong đau khổ, trong phúc lạc, trong vòng xoay thập nhị nhân duyên. Cái cõi mà Nguyễn Công trứ đã phải tự vấn: 

Thoát đã sinh ra đà khóc chóe, 

Trần có vui sao chẳng cười khì? 

Và cụ Tiên Điền Nguyễn Du cũng đã khẳng định: 

Đã sinh ra kiếp con người, 

Cũng đừng trách lẫn trời gần hay xa. 

Càng thấm thía mọi khổ đau càng tỏ rạng công ơn Đức Bổn Sư Thích Ca chọn cảnh giới Ta-bà này thị hiện, đem giáo pháp chứng ngộ cao vời cứu độ chúng sanh. Hàng hậu sinh noi theo dấu chân lành tiếp tục đưa nguồn phúc lạc ấy tỏa lan, dẫu cũng vốn mang nghiệp dĩ trần ai nên vừa tiến tu giải thoát nhưng cũng đồng thời dang tay dìu dắt đồng loại bằng nhiều hình thức, trong đó công hạnh Cứu khổ- ban vui là trọng tâm của những người con Phật. Từ đó khái niệm từ thiện được dần hiện ra theo mỗi bước tiến hoá của thời đại .Và nó trờ thành nét đặc trưng của Phật Giáo , đi song hành với hình bóng của một vị xuất gia. Ý nghĩa đó càng về sau như nghiêng hẳn về cho Ni giới, khi giáo đoàn đã có mặt đầy đủ Tăng-Ni; Sẽ ý nghiã hơn khi chúng ta biết rằng hàng Ni chúng đã vốn là một chủng tử kém phước báu về mọi mặt; được xuất gia cũng là một nỗ lực lớn lao và đã phải thọ giới nhiều hơn so với chư Tăng. Vì vậy không lạ gì khi việc từ thiện hầu như chư Ni luôn đặt hàng đầu và tỏ ra xuất sắc trong lãnh vực nàỵ Trộm nghĩ như vậy, vì chư Ni từ trong nghiệp dĩ của mình vẫn biết lo nghĩ vàn thương xót đến tha nhân thì thật không còn gì cao cả hơn. 

Nhận định như trên để sau đây, những dòng này khi viết về công hạnh của sư trưởng Như Thanh, chúng ta sẽ không ngỡ ngàng và đồng hóa với những ý niệm từ thiện khác, mà đã không ít khi nó bị xem thường do những tư tưởng cơ hội gây nên. - Sư Trưởng Như Thanh, nét đáng qúy trong thời gian hành đạo và giáo dục Ni chúng trở nên những người tu Phật có đầy đủ giới hạnh, tài và đức. Khi đạt đến ước mong có một Ni đoàn, có tổ chức, có hữu ích cho Giáo hội, công việc từ thiện vẫn luôn là điều không thể thiếu trong các chương trình nghị sự ở các kỳ Đại Hội Ni đoàn. Đôi khi chính Chư Tôn lãnh đạo Giáo hội còn tỏ ra nghi ngờ khả năng của Sư Trưởng (cũng có nghĩa là Ni giới ), lúc các kế hoạch được trình lên như công tác thuyết giảng, tổ chức giáo dục, nghi lễ dành cho Ni giớI v.v.. thì Sư trưởng Như Thanh vẫn mạnh dạn tỏ rõ quyết tâm sẽ chu toàn được tất cả các mặt Phật sự đó. 

Cuộc đời Sư Trưởng Như Thanh, xuất thân từ một gia đình danh gia vọng tộc ở đẳng cấp trên xã hội; xuất gia chẳng vì nghịch cảnh chướng duyên, mà bằng cả ý lực tự giác, nương thừa chính phước báu gia đình, có điều khiện vươn tới tri thức Phật học. Tận dụng khôn khéo thuận lợi gia đình để tìm cầu Phật đạo , rõ là Sư trưởng là một mẫu người hiếm có, để từ đó lòng tận tụy vì đạo vì tương lai Ni chúng mai hậu của sư trưởng, cũng như tất cả nhũng thành quả đạt được, rất đáng trân trọng trong một ý nghiã tròn vẹn. 

Trong quá trình tu học, Sư trưởng lại có một thuận duyên hiếm hoi khác nữa là đã có được những bước chân theo chiều dài đất nước; tìm cầu tham học và gặp gỡ không ít Chư Tôn Đức khả kính, kể cả được chiêm bái các Thánh tích Già-lam. Nhờ vậy có lẽ đã un đúc ý chí Sư trưởng, nên nét đặc trưng riêng mà chư Tôn hay ví von là một Nũ tướng . Cũng nhờ đó, theo những bước chân nhẫn nại là chung quanh biết bao thảm cảnh loạn ly, đau thương của chiến tranh trong một đất nước triền miên chịu phần cộng nghiệp. Khi ước nguyện lớn chưa tròn, cũng như tự lượng đạo lực chưa cao . Sư Trưởng dồn nén lại nỗi chạnh lòng đó vào một góc tim , hứa hẹn một ngày dang ta thể hiện. Thế nhưng , khổ đau nào hẹn , từ thiện nào chờ khi nhân thế Chỉ hồi tử, chỉ hồi sanh- sanh tử du du vô định chỉ luôn diễn ra khốc liệt. tuy vậy, như Lục Tổ Huệ Năng nói Ngột ngột bất tu thiện, đằng đằng bất tạo ác như thế, khi Sư Trưởng Như Thanh còn đang ngổn ngang nỗi đau luôn canh cánh bên lòng ấy , cũng có nghiã là Sư Trưởng đã làm được điều thiện-điều thiện không nói ra Tâm không luôn tạo ác: Đó đã là điều thiện. Sự thôi thúc nhờ đó thêm vững tâm bằng một đồ án tương lai nhất quyết đạt thành. 

Trong công quả tu hành , công việc từ thiện đã từ trong máu thịt Sư Trưởng tự bao giờ, để khi gặp thuận duyên được bộc phát như lẽ đương nhiên mà chính tự thân Sư Trưởng không nghĩ tới. Đó là ý nghĩa từ thiện đúng nghĩa, không câu nệ và dựa dẫm kể cả mang tính cách phong trào thi đua, một bài học rất lớn lao cho những ai chưa thật tâm hiểu và hành động vẹn tròn cho từ thiện. Chúng ta sẽ thấy chi tiết này qua hình ảnh của Sư trưởng ngay giữa lúc chưa đạt thành mong ước họp nhất Ni chúng, ngay giữa lúc Giáo Hội Tăng Già chưa hình thành. Đó là hệ thống giáo dục mang tên Kiều Đàm được bắt đầu khai sinh vào thập niên 50 (1952). Các em thiếu nhi nhà nghèo, hiếu học được học hành miễn phí tại đây . Từ nhân số này hệ thống trường Kiều Đàm được chính bàn tay Sư trưởng nhân rộng, phát triển khắp mọi nơi và đã đi vào sử liệu giáo dục từ thiện của Giáo Hội .- nhũng nơi điều kiện cơ sở vật chất không có hoặc các Ni viện chật hẹp, Sư Trưởng vẫn tổ chức được những lớp học với mục đích tương tự, dù chỉ 5, 10 em học. Một cố gắng rất đẹp và mãi hữu ích quần sanh, khi chưa có tài chánh để thực hiện công việc từ thiện, thì bằng tâm huyết sẵn có, nhân lực sẵn có, Sư trưởng đã làm từ thiện bằng cách đó, nói theo thuật ngữ giáo dục đương đại là Công tác từ thiện mang ý nghĩa thế hệ. 

Khi Giáo HộI Tăng Già Nam Việt hình thành (1952), Ni Bộ Nam Việt cũng được ra đời, thì công việc từ thiện vẫn được đặt trọng tâm và mang tầm vóc lớn hơn cho cả miền Nam lúc bấy giờ. Năm 1964, Giáo HộI Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được khai sinh, thì tầm vóc hoạt động thêm rộng, từ vĩ tuyến 17 trở vào. Đó cũng là giai đoạn hệ thống trường học từ thiện Kiều Đàm phát triển rộng rãi nhất, như năm 1967 có nơi từ trường Mẫu giáo Kiều Đàm trở thành trường Trung Học Kiều Đàm (từ lớp 1 đến lớp 9 hệ 12 năm ). Chiến tranh không chịu thua để hạn chế bớt phần nào các con số nạn nhân, đã phải khiến Sư trưởng Như Thanh vốn cũng kkhông nhường bước trước đau khổ trần ai; đã thành lập thêm hình thức Ký nhi viện và rồI đến Cô nhi viện, cũng mang tên Kiều Đàm vị Thánh Mẫu của Ni giới. Tất cả đều hoàn toàn miễn phí. 

Điều đặc biệt trong công tác từ thiện của Sư trưởng Như Thanh là tính độc lập, tự lực rất cao, không chịu lệ thuộc vào bất kỳ một tổ chức hay các thế lực nào. Nhờ vậy Sư trưởng rất vững vàng tiến bước bằng chính khả năng tự có của mình. Ngoài các nguồn hỷ cúng của tín thí, các nhà hảo tâm, phần lớn nguồn kinh phí có được để hoạt động là các cơ sở tự túc kinh tế do chính Sư trưởng điều hành và quản lý. Ngay cả khi ở cương vị cao trong tổ chức Ni bộ Bắc Tông, Sư trưởng vẫn bằng ý chí đó, khả năng đó điều hành công tác từ thiện mang đặc tính riêng của Ni bộ, tránh được điều có thể tránh, rất dễ làm lu mờ thiên chức của một người thực thi công hạnh từ thiện. Vì thế kể từ ngày bắt đầu công hạnh từ thiện cho đến tận hôm nay, Sư trưởng Như Thanh vẫn bảo toàn được thanh danh của mình một cách trong sáng. Đến đây có một thoáng suy nghĩ rằng, cho đến tận thời điểm gần nhất, các mặt hoạt động từ thiện rầm rộ, các nơi, các tổ chức và cả ở tận ngõ các nhà tư nhân ...mà Sư trưởng Như Thanh không có mặt? TuổI già sức yếu sẽ không là lý do thu mình hiện tại bởi giờ đây uy tín, đức độ và cả đến các cơ sở trực thuộc của Sư trưởng đã được đều khắp, hoặc có thể là đã đến lúc phải đúc kết các hoạt động này của Sư trưởng ? Theo người viết bài này, hai khả năng đó đều kông có cơ sở kết luận. Như vậy vấn đề được đặt ra sẽ là: Từ thiện như thế nào mới mang đầy đủ ý nghĩa và thiên chức đó và tổ chức hoạt động ra sao? Điều đó, ngay từ đầu bài viết này đã phân tích. 

Sẽ cụ thể hơn bằng các con số choáng ngợp sau đây Sư trưởng Như Thanh đã làm được, và làm được ngay giữa lúc chiến tranh loạn lạc, trong lúc một cánh tay trí huệ khác của Sư trưởng vẫn đang nặng phần trách nhiệm cho giáo dục Ni tài, cho tổ chức Ni bộ mà không có được một nguồn cung cấp nào, mặc dù điều đáng trân trọng là Sư trưởng không đòi hỏi, không tham vọng. Các con số tuy chưa được thống kê đầy đủ vẫn đủ sức bật dậy ý nghĩa tích cực như sau: 

Năm 1961, mở phòng thuốc nam miễn phí, mỗi tháng (theo tích kê) điều trị 600 bệnh nhân. 

Năm 1961, mở phòng thuốc tây miễn phí, cũng với con số xấp xỉ 600 bệnh nhân đến khám và điều trị. 

Năm 1975, mở phòng châm cứu miễn phí, mỗi tháng hơn 300 bệnh nhân được điều trị. 

Về mặt hướng nghiệp, trước nhu cầu của rất đông người dân nghèo đang rất khó khăn và mờ mịt ngày mai do chiến cuộc gây ra, Sư trưởng đã cho tổ chức lớp dạy đan len miễn phí tại chùa Huê Lâm I (năm 1966). Lớp dạy cắt may miễn phí cũng tại chùa Huê Lâm I (năm 1968) v.v... 

Tất cả, kể cả các trường Cô nhi viện, Ký nhi viện, đều do chư Ni đứng ra đảm trách. Điều này nói lên công lao dạy dỗ, đào luyện Ni Tài của Sư trưởng đã có kết quả và đã có không ít chư Ni thành danh trong nhiều lãnh vực, góp phần làm lợi lạc cho ngôi nhà chung Phật giáo. Rất hiếm hoi tìm gặp được một mẫu người nhiệt thành đa năng và có bản lãnh như Sư trưởng Như Thanh, càng hiếm hoi hơn khi vừa thể hiện một vị chân tu có đầy đủ oai nghi tế hạnh, vừa lo lắng tổ chức, vừa ổn định Ni đoàn bằng tri thức như vậy. 

Theo con số báo cáo vào thờI điểm 1972, ở cương vị Vụ trưởng Ni bộ Bắc Tông, Sư trưởng Như Thanh đã điều hành, quản lý, tổ chức Ni giớI trực thuộc gồm có 136 tự viện , 50 tịnh thất và 989 Ni chúng từ vĩ tuyến 17 trở vào. Trong cương vị này, sư trưởng không áp dụng phương cách từ thiện của riêng mình mà còn mở ngõ, tùy nghi cho Ni chúng- tư viện ở các Tỉnh, Miền hoạt động. Nhờ vậy, hầu hết Ni bộ các nơI đều có trung bình một Ký nhi viện, Cô nhi viện và phòng phát thuốc miễn phí như Quaãng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi (miền Vạn Hạnh); Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà , Ninh Thuận (miền Liễu Quán); Tuyên Đức (miền Khuông Việt); Bình Dương-Gia Định (miền Khánh Hòa); 11 Quận Sài Gòn (miền Quảng Đức); Định Tường, Sa Đéc, Vũng Tàu (miền Huệ Quang) v.v... Mỗi một Cô nhi viện trung bình không dướI 150 em. Cá biệt có nơI đến 400 em như Cô nhi viện Tây Lộc (Thừa Thiên). Ký nhi viện cũng trung bình không dướI 100 em. Bên cạnh ba mặt nổI bật đó, có nơI còn thành lập được cả Viện Dưỡng lão trên dướI 50 cụ đến tá túc nương thân. Ngoài ra, như một định luật tất yếu, tất cả các nơI đều có thành lập một đoàn từ thiện, thường xuyên đi ủy lạo đồng bào chiến nạn. Tổng số các cơ sở từ thiện trực thuộc Ni bộ do Sư trưởng Như Thanh tổ chức là:

41 Ký nhi viện (vớI 7.132 em) 

6 Cô nhi viện (vớI 1.125 em) 

4 Viện Dưỡng lão (vớI 340 cụ) 

Mặt trái cuộc đời là khổ đau, được thể hiện bằng những con số lạnh lùng ấy, chỉ riêng của Phật giáo, cụ thể hơn của Ni bộ Bắc tông vụ, đủ để khẳng định điều đó, ai sao tránh khỏi nỗi chạnh lòng. Huống lại là các bậc tu hành, khiến các vị thêm một vai nặng oằn bận bịu giữa chốn trầm luân. Và để hoàn thành các nhiệm vụ đó, ngoài bổn tánh chơn tâm từ bi, Sư trưởng còn phải đích thân can thiệp với Bộ xã hội, với các tổ chức để cho các ni được gởi theo học các kiến thức về dưỡng dục nhi hoặc các lớp tập huấn tâm lý trị liệụ 

Dẫu biết rằng từ thiện cũng tương đồng một cách tu và Bố thí Ba la mật là lý tưởng xả thân; nhưng bằng cách nhìn cảm hoài, người viết bài này vẫn không sao thoát được ý nghĩ con đường tiến tu giải thoát của các vị như thêm nỗI lao xao gập ghềnh và như xa hơn, bước chậm hơn. Thật đáng trân trọng biết dường bao, khi nghĩ đến những điều ngược lại. 

Có thể, ngườI viết chưa có diễm phúc tìm gặp được hình ảnh của một người làm từ thiện có bản lãnh, có kiến thức tổ chức (với Ni bộ thì vận dụng uy đức để can thiệp, vận động Chánh phủ,các cơ quan tổ chức quốc tế nhưng với riêng mình-tức công tác từ thiện ở Huê Lâm và các tự viện của mình, thì nghiêm khắc) như Sư trưởng Như Thanh và cho đó là một điều ngạc nhiên! Nếu không là thế thì Sổ vàng, kêu goị, vận động, kèm theo là cả một kế hoạch có trống chiêng hỗ trợ. Chợt nhớ, người học Nho có nói câu: 

Cầu nhơn bất như cầu kỷ - Nhập sơn cầm hổ dị - Khai khẩu kháo nhơn nan. 

Đại ý nói: mong cầu kêu gọi kẻ khác, không bằng mong cầu kêu gọi chính mình; vào núi bắt hỗ còn dễ, mở miệng ra nhờ người khác rất là khó. Chi tiết này, khiến chúng ta nhớ lại Ngài Nguyễn Văn Thiệu cùng phu nhân, nhân chuyến vận động bầu cử Tổng Thống chế độ cũ, có đến tại chùa Huê Lâm để xin gặp Sư trưởng Như Thanh, vì hơn ai hết Ngài Nguyễn Văn Thiệu thừa hiểu uy tín và công hạnh Sư trưởng trong hàng Ni giới rất cao, có thể đổi lấy một khối lượng không nhỏ lá phiếu ủng hộ và bù lại công tác từ thiện của Sư trưởng sẽ có thêm nguồn tài chánh hoạt động! Rất đáng tiếc cho Ngài và có lẽ Ngài lầm lẫn giữa mục đích đến lễ Phật và mua chuộc Sư trưởng. 

Như đã trình bày, công tác từ thiện nơi Sư trưởng Như Thanh đã vượt lên trên những khái niệm bình thường, đã trở nên máu thịt gắn liền trong cơ thể. Hạnh từ thiện đó không chờ cơ hội, không nhóm họp cờ xí và tất nhiên không mong được ai trao bằng tưởng lệ. Nhận thức được cái khổ đau ngay từ nơi ta đang dung thân thọ nghiệp và tận dụng ngay cái hoàn cảnh khổ đau đó, biến nó thành nguồn phúc lạc phụng sự lại cho chính tha nhân - một ý lực tự tại. Đó chính là cái Tâm tha lực nào phải tìm đâu xa và mong cầu ở ai, bởi: 

Chúng sanh chi tâm du như đại địa, ngũ cốc, ngũ quả tùng đại địa sanh. 

Như thị tâm pháp, cập ư Như Lai (Kinh Tâm Địa Quán). Và lớn hơn cái tâm đó còn: 

Dĩ thử nhơn duyên tam giới, duy tâm tam danh chi địa . Từ cõi trời Sắc Cứu Cánh Đức Thế Tôn từng dạy chúng ta như thế (Kinh Pháp Hoa-Phẩm Tùng Địa Dũng Xuất). 

Như thế vẫn chưa đủ để tường tận và thấu triệt hai chữ Từ Thiện mà ngay người thực hiện bài này vẫn tỏ vẻ xem thường. Càng viết, càng đi sâu mới vỡ lẽ ra công hạnh ấy vẹn đầy ý nghĩa nơi Sư trưởng Như Thanh để phải thầm thẹn cho mình sao sớm vội khinh mạn. Để rồi giờ đây trùng trùng điệp điệp ý nghĩa từ nơi cái Tâm Đại Địa ấy cùng tuôn trào, đôi lúc giật mình nhìn chung quanh, kể cả bản thân từng xưa kia ôm thùng lạc quyên đi khắp đầu đường cuối hẻm! 

--- o0o ---

Vi tính : Nguyên Khai

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/11/2021(Xem: 20011)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16480)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 11525)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 11977)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 14899)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
24/06/2021(Xem: 4164)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 16463)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12448)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19894)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11571)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567