Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sư Bà Diệu Không .

08/04/201320:23(Xem: 3439)
Sư Bà Diệu Không .


Ni Trưởng Diệu Không

--- o0o ---

I. THÂN THẾ VÀ THIẾU THỜI 

Ni trưởng thế danh Hồ Thị Hạnh, húy thượng Trùng Hạ Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh, sinh năm 1905, là con gái út của cụ Hồ Đắc Trung và bà Châu Thị Lương, người làng An Truyền, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên. Cụ Hồ Đắc Trung là một vị đại thần trong triều đình Huế thời bấy giờ. 

Xuất thân từ danh gia vọng tộc, gặp buổi giao thời giữa hai nền văn hóa cũ và mới, nên từ tấm bé Sư đã hấp thụ nền giáo dục dung hòa được hai truyền thống Đông Tây. Thân phụ muốn cho du học Pháp quốc nhưng Sư từ chối, tỏ rõ chí hướng khôi phục truyền thống đạo đức Á Đông và nâng cao tinh thần phụ nữ. Bản hoài cao rộng ấy rất khó thực hiện nếu không thoát ly đời sống gia đình nhỏ hẹp, bởi thế Sư đã nhiều lần xin cha mẹ xuất gia. Nhưng vào thập niên 1920 ở Huế chưa có chùa Ni, chỉ có các bà lớn tuổi mới được vào chùa Tăng làm di vải nấu bếp, Sư lại là con gái út của một vị đại thần đương thời, được nâng niu như cành vàng lá ngọc, cha mẹ không bao giờ cho phép. Trước trở ngại lớn lao đó, Sư đành ở nhà cho trọn hiếu, chờ dịp thuận tiện. Song thân mong Người yên bề gia thất, cứ khuyến khích tham dự các tiệc tùng, dạ hội, nhưng Người một mực chí xuất trần. Thế rồi năm 23 tuổi (1928) vì cảm từ tâm của song thân Người phát bi nguyện độ sanh, bằng lòng thành duyên với cụ Cao Xuân Xang để nuôi đàn con dại bơ vơ vừa mất mẹ. Thời gian không lâu ông qua đời. Từ đây duyên trần nhẹ gánh, Người vừa nuôi đàn con côi, vừa làm Phật sự đắc lực. 

II. XUẤT GIA

Năm 1932 (27 tuổi) Sư được Hòa Thượng Giác Tiên trụ trì Tổ Dình Trúc Lâm truyền thập gìới làm Sa Di Ni với pháp tự Diệu Không, nhưng vẫn để tóc để làm phật sự. Lúc bấy giờ, Sư thường xuyên giao dịch với người Pháp trong chính quyền Bảo hộ với tư cách đại diện An Nam Phật Học mà Sư là một sáng lập viên. Sau khi thọ thập giới 12 năm, vào mùa thu năm giáp thân (1944) Sư được thọ tam đàn cụ túc tại đại giới đàn Thuyền Tôn do Hòa Thượng Giác Nhiên đệ nhị tăng thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam làm đầu tiên. 

III. CÔNG HẠNH 

Sau khi thọ giới Sa Di Ni, Sư bán tư trang và vay mượn thêm để xây cất ni viện đầu tiên cho nữ giới có chổ tu học, đó là ni viện Diệu Đức. Có khi nợ đòi quá gắt, Sư phải nhập thất để tránh. Sư còn sáng lập các chùa ni khác như Diệu Viên, Khải Ân, Hòng Ân Huế, Bảo Thắng Hội An, Bảo Quang Đà Nẵng, Tịnh Nghiêm Quảng Ngãi, ni viện Diệu Quảng Nha Trang. Tại miền Nam, Sư là người sáng lập ni trường đầu tiên ở Sa Đéc, ni viện Từ Nghiêm, Dược Sư, Diệu Giác, Diệu Tràng tại Sài Gòn. Sư còn góp công rất nhiều trong việc xây dựng viện Đại Học Phật Giáo đầu tiên của Việt Nam là Đại Học Vạn Hạnh, cùng với Hòa Thượng Trí Thủ, Hòa Thượng Minh Châu, Nhất Hạnh và cư sĩ Ngô Trọng Anh.....là những vị khai sáng đầu tiên. Ngoài ra, cơ sở Kiều Đàm tại đường Công Lý (ngày nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) cũng do Sư cổ động xây cất. 

Ngoài các cơ sở văn hóa và chùa, Sư còn góp công đắc lực khai sáng các cô nhi viện, ký nhi viện trên khắp thành thị thôn quê miền Trung từ 1964 về sau, kể từ lúc cô nhi viện Tây Lộc Huế được thành lập. Sư góp phần đắc lực trong việc sáng lập nhà in Liên Hoa để in kinh sách Phật Giáo và nguyệt san Liên Hoa, sáng lập năm 1952 do Hòa Thượng Đôn Hậu làm chủ nhiệm, Hòa Thượng Đức Tâm làm chủ bút, Sư làm quản lý và biên tập viên, là tờ báo Phật giáo sống lâu nhất tại miền Trung.

Ngoài công tác hộ trì chánh pháp và nhiều tạp chí Phật giáo như Viên Âm, Giác Ngộ, Từ Quang, Liên Hoa... Các bộ kinh luận quan trọng do Sư dịch gồm có :

- Thành duy thức luận
- Du già sư địa luận,
- Lăng già tâm ấn,
- Di lặc hạ sanh kinh,
- Đại trí độ luận,
- Trung quán luận lược giải (Long thụ Bồ Tát),
- Hiển thật luận (Thái hư đại sư) vv...

Ngoài ra, Sư còn sáng tác rất nhiều văn thi khuyến tu và giáo dục phụ nữ. 

Mặc dù Phật sự đa đoan, Sư luôn luôn học hỏi, tham cứu kinh sách đại tiểu thừa, và thường nhập thất tham thiền tại chùa núi Châu Ê. Tuy mang thân nữ, Sư gần như không có tánh nhi nữ thường tình mà Phật thường thống trách. Nguyện của Sư là đời đời làm người nữ để độ cho nữ giới và không cầu sinh Tịnh độ: ‘Nguyện Phật chứng minh muôn vạn kiếp, con xin lăn lóc cõi Ta Bà’. Do hạnh nguyện ấy mà đến đâu Sư cũng được phụ nữ doanh vây, già trẻ lớn bé đều yêu mến. Có lẽ đó là nhờ Sư am hiểu nhân tình, tùy cơ giáo hóa, có biện tài vô ngại, nhưng trên tất cả, chính nhờ ở một tấm lòng bao dung quảng đại, bình đẳng đối với người thân cũng như sơ, xa cũng như gần. Câu thơ của Sư làm: ‘Lưới trời bao phủ một tình thương’ đã nói lên chính xác tâm hồn Sư vậy.

Mặc dù là vị hộ trì đắc lực cho chư tăng tu học, mặc dù được đặc cách học chung với chư tăng trong các lớp giảng đầu tiên tại Huế, Sư không vì vậy mà xao lãng Bát kính pháp. Ngược lại, đói với chư tăng, Sư luôn luôn kính nể, dù là một tỷ kheo tân thọ giới hay chỉ một chú tiểu, Sư cũng đối xử lễ độ và hết lòng nâng đỡ. Đối với ni chúng, Sư là bạn của tất cả mọi người, ai gần Sư cũng kính mến như bậc Thầy do bởi bản tánh bình dị, uy nghi khả kính. Tính bình dị của Sư quả là một tấm gương cho ni giới: Xuất thân từ nơi phú quý, mà khi vào chùa, Sư đã sống một cuộc đời hoàn toàn buông xả, đối với bốn vật cần dùng là ẩm thực, y phục, sàng tòa và dược phẩm Sư không chú trọng, có gì tốt đẹp đều đem cúng dường bố thí. Trước khi ngọa bệnh, nơi thường trú của Sư tại chùa Hồng Ân chỉ là một gian nhà thấp u tối, nhưng Sư không hề quan tâm sửa chữa, vì tâm hồn Sư luôn luôn để vào những chương trình rộng lớn hộ trì Tam Bảo, phục vụ chúng sinh đương thời và mai hậu. 

IV. NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG 

Năm 1978 sau một cơn bạo bệnh Sư trút hơi thở cuối cùng, được chư tăng vây quanh tiếp dẫn, nhưng khi thời kinh hộ niệm chấm dứt, Sư cô Bảo Châu đau đớn khóc thét lên, Sư bèn giật mình tỉnh dậy vì bi nguyện độ sanh. Kể từ đấy, Sư thường dạy: Khi đã thấy cảnh tịnh độ rồi thì tôi xem đời này toàn là giả. Có lẽ nhờ thấy giả mà Sư kham nhẫn được mọi sự. Gần 5 năm ngọa bệnh vì già yếu, Sư luôn luôn hoan hỷ với mọi người, đón nhận sự săn sóc chu đáo của đệ tử dưới sự cố vấn của các y bác sĩ tận tình như bác sĩ Lê Văn Bách... Mặc dù già bệnh, tinh thần Sư vẫn minh mẫn cho đến giây phút cuối, mỗi khi ai có việc quan trọng đến thỉnh ý, Sư đều dạy những lời khuyên sáng suốt. Gần đây Sư còn cúng dường cơ sở Hồng Đức cho giáo hội để sử dụng trong việc đào tạo tăng tài. 

Như một trái cây chín mùi, như đi cuộc hành trình đã đến đích, Sư an nhiên thâu thần thị tịch vào lúc 2 giờ khuya 22 tháng 8 Đinh Sửu, tức là 23 tháng 9 năm 1997, hưởng thọ 93 tuổi đời với 53 hạ lạp. 

V. KẾT 

Ở trong phú quý mà không vướng vinh hoa, học nhiều mà không sở tri chướng, thuyết pháp mà không là pháp sư, tọa thiền mà không là thiền sư, trước tác dịch thuật mà không là học giả, giúp đời mà không là chuyên gia xã hội, giữ giới mà không câu nệ, độ người mà không vướng mắc đệ tử, ở cảnh động không mất thiền, cảnh tịnh không bỏ rơi chúng sanh: cuộc đời hành đạo của Sư thật đa dạng mà không lưu dấu vết, vì cõi lòng Sư như hư không. Sự nghiệp vật chất Sư lưu lại đã nhiều, nhưng cái đáng nói hơn, cái đáng nói nhất, cái thâu tóm cả cuộc đời Sư là tấm lòng vì pháp và thương tưởng hậu lai - thì lại càng khó tả hơn. Cho nên, dù nói bao nhiêu về Sư, chúng con vẫn thấy thiếu và có lỗi với Sư, bởi vì cái đáng nói nhất đã không có ngôn từ diễn đạt. Có lẽ 2 chữ tôn hiệu của Sư, thượng Diệu hạ Không đã biểu trưng quá đủ cuộc đời Sư. Hay nếu dài lời hơn thì chỉ một câu này: Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, Phật sự mông trung bất xả nhất pháp. 


-- o0o --


Vi tính : Ngọc Dung

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/12/2013(Xem: 25917)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu. Tuy nhiên, thân thể ta là một hợp thể rất mầu nhiệm, nó chứa đựng cả tinh hà vũ trụ bao la. Ta thấy được tất cả các thế hệ tổ tiên, con cháu của ta đều có mặt trong thân ta. Ta cảm nhận sự có mặt của họ trong từng tế bào của cơ thể. Họ luôn có mặt trong ta và chung quanh ta. Họ cũng như các yếu tố khác đã kết hợp lại để làm nên sự sống của ta. Ta có thể tiếp xúc với những yếu tố như đất, nước, lửa và không khí - bốn đại trong ta và ngoài ta. Ta thấy ta như một con sóng trên mặt đại dương. Con sóng này được hình thành bởi các con sóng khác.
03/12/2013(Xem: 51963)
Người ta thường nói :"Ăn cơm có canh, tu hành có bạn". Đối với tôi, câu nói này thật là quá đúng. Ngày nhỏ chưa biết gì nhưng từ khi làm Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử tôi đã thấy ích lợi của một Tăng thân. Chúng tôi thường tập trung thành từng nhóm 5,7 người để cùng nhau tu học. Giai đoạn khó khăn nhất là sau 75 ở quê nhà. Vào khoảng 1985, 86 các anh lớn của chúng tôi muốn đưa ra một chương trình tu học cho các Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn Tỉnh và những Htr có cấp nên đã tạo ra một lớp học Phật pháp cho các Htr ở Sàigòn và các tỉnh miền Nam. Nói là "lớp học" nhưng các Chúng tự học với nhau, có gì không hiểu thì hỏi quý Thầy, các Anh và kinh sách cũng tự đi tìm lấy mà học. Theo qui định của các Anh, Sàigòn có 1 Chúng và mỗi tỉnh có 1 Chúng. Chúng tu học của chúng tôi (Sàigòn) có tên là Chúng Cổ Pháp và phải thanh toán xong các bộ kinh sau đây trong thời gian tối đa là 3 năm:
25/11/2013(Xem: 16658)
Nhìn vào tín ngưỡng Phật giáo nhiều người thường thắc mắc tại sao lại có nhiều "thứ" đến thế! Thật vậy Phật giáo có rất nhiều học phái, tông phái, chi phái..., một số đã mai một, thế nhưng một số vẫn còn đang phát triển và đồng thời cũng có nhiều chuyển hướng mới đang được hình thành. Đối với một người tu tập Phật giáo thì sự kiện ấy thật hết sức tự nhiên: tất cả mọi hiện tượng trong thế giới đều chuyển động, sinh sôi nẩy nở và biến đổi không ngừng. Nếu nhìn vào các tín ngưỡng khác thì ta cũng sẽ thấy cùng một hiện tượng như thế.
30/10/2013(Xem: 34529)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
26/10/2013(Xem: 53450)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
17/10/2013(Xem: 36045)
Tôi đọc kinh sách, nghe giảng và học hỏi, đồng thời rút kinh nghiệm trong những năm qua cùng các pháp hữu nghiên cứu và hoằng truyền chánh pháp, đặc biệt với đạo hữu Nguyên Phước. Thấy cần, rút ra một số nét cơ bản để chia xẻ cùng quý Phật tử thật dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hành trong niềm tin Phật pháp.
08/08/2013(Xem: 29760)
Năm 2010, tại Sài Gòn diễn ra đại hội “Con gái đức Phật” quy tụ hội chúng tỳ-khưu-ni và cận sự nữ Nam Bắc tông trên khắp thế giới về tham dự.Tôi không biết gì về nội dung cũng như hình thức đại hội ấy, nhưng cụm từ “Con gái đức Phật” tôi nghe sao nó dễ thương, bình dị và rất gần gũi với ngôn ngữ đời thường. Từ đó, tôi khởi tâm biên soạn một cuốn sách để giới thiệu về những vị Thánh Ni và những cận sự nữ có hành trạng đặc biệt và thù thắng thời đức Phật và đặt tên đầu sách là “Con gái đức Phật”.
09/04/2013(Xem: 5564)
Một trong những vai trò phục hưng xã hội và cách mạng văn hóa của Đức Phật, điều mà đôi khi bị các sử gia lãng quên, đó là giải phóng phụ nữ. Đức Phật phát huy một cuộc cách mạng trong tư tưởng và trong lối cảm xúc của đại chúng bằng cách công khai và can đảm tuyên bố rằng người nữ có thể đạt đến mức tiến bộ tuyệt đỉnh, thành tựu trí tuệ thâm sâu dẫn tới Niết bàn.
09/04/2013(Xem: 5622)
Hai truyền thống của Nam và Bắc truyền đều thừa nhận rằng, vào thời hoàng kim Phật giáo, mười ba năm đầu trong Tăng đoàn không có giới luật, nhưng sau đó sự lớn mạnh của Tăng đoàn, sự khác biệt về nhận thức nên đức Phật đã chế ra giới luật để “phòng hộ các căn” nhằm giúp cho mỗi thành viên trong Tăng đoàn được thanh tịnh và giả thoát. Thiết nghĩ, Bát kỉnh pháp cũng không ngoài những thiện ý đó!
09/04/2013(Xem: 3793)
Sinh ra trong cõi trần ai, mỗi một chủng tử đã là một nghiệp dĩ, căn phần thọ nghiệp. Bình đẳng trong đau khổ, trong phúc lạc, trong vòng xoay thập nhị nhân duyên. Cái cõi mà Nguyễn Công trứ đã phải tự vấn:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567