Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vài nét về Ni giới PG Hàn Quốc.

08/04/201319:52(Xem: 3571)
Vài nét về Ni giới PG Hàn Quốc.


VÀI NÉT VỀ NI GIỚI PHẬT GIÁO HÀN QUỐC 

TN.Giới Hương

---o0o---

Phật giáo được du nhập vào Hàn Quốc đến nay hơn 1.600 năm, nhưng lịch sử của Phật giáo Hàn Quốc lại không có nhiều ghi nhận về hoạt động của Ni giới.

Thật ra ở Hàn Quốc, Ni giới đã có công lớn trong việc truyền bá Phật pháp ở những giai đoạn đầu của lịch sử. Qua các thời đại Tam kinh (37 trước Tây lịch - 668 sau Tây lịch), Silla Thống nhất (668-935), Goryeo (còn gọi Goh Ryur hoặc Koryo, 918-1392), Joreon (còn gọi Joh Surn hoặc Choson 1392-1910) và thời hiện đại ngày nay, Phật giáo tiếp tục được duy trì và phát triển. Tùy địa phương khác nhau mà vị trí, vai trò và sự biểu hiện của Ni giới trong Phật giáo cũng đa dạng tùy duyên.

NI GIỚI TRONG THỜI TAM KINH (Goguryeo, Baekje và Silla)

Lịch sử Phật giáo Hàn Quốc ghi nhận Sunim Sa Morye là vị Tỳ kheo ni đầu tiên (Sunim có nghĩa là Đại đức hoặc Ni sư trong tiếng Hàn Quốc) đã hỗ trợ đắc lực cho Hòa thượng Ado mang Phật giáo truyền vào kinh đô Silla. Tám năm sau khi Phật giáo được chính thức chấp nhận ở đây, do ngưỡng mộ đức hạnh Sunim Sa Morye, hoàng hậu của vua Beopheung đã xây chùa Youngheong cúng dường, sau đó xuất gia trở thành Sunim Myobop và là vị Tỳ kheo ni đầu tiên của Giáo hội Ni ở Silla.

Trong sử Tam kinh (Samguk-sagi) có ghi rằng vua Jinheung quy y Tam bảo và được đặt pháp danh là Beop Un. Hoàng hậu của vua Jinheung xuất gia làm Tỳ kheo ni Bopun và tu học ở chùa Young-heung. Sau đó, có nhiều nữ Phật tử nữa cũng xuất gia theo Sunim. Ngoài ra, còn có phu nhân Jiso của Tể tướng Kim Yu-si cũng xuất gia trở thành Tỳ kheo ni sau khi chồng bà qua đời.

Vào triều đại Jin Pyong (681-692), Hòa thượng Won Gwang là một danh tăng Trung Quốc (đời nhà Tùy) đến Hàn Quốc tổ chức lễ Juhm-chal. Nhân đó, có một Tỳ kheo ni đã cúng nhiều đất đai cho Hòa thượng thực hiện Phật sự này. Tỳ kheo Ni Ji Hye ở chùa Anhung cũng thường tổ chức lễ này mỗi năm. Sử Tam kinh cũng có đề cập trường hợp của một Tỳ kheo ni lương y đã chữa lành bịnh cho Quốc sư Gyeong Heung Dae Deok trong triều đại vua Sin Mun (681-692).

Vào năm thứ 12 triều vua Jinheung, vua đã sắc ban cho pháp sư Hyeryang ở kinh đô Goguryeo làm Quốc sư và Tỳ kheo ni Ani làm Ni trưởng của Giáo hội Ni. Đây là một sự kiện quan trọng chứng tỏ Ni giới cũng được chú trọng.

Sử của kinh đô Baekje cũng đề cập vai trò tích cực của Tỳ kheo ni. Chẳng hạn vào năm 577, vua Widuck đã phái một Tỳ kheo ni sang Nhật Bản để giảng dạy Phật pháp. Bên cạnh đó, biên niên sử Nihonshoki (Nhật Bản) chép rằng vào năm 588, có 3 Tỳ kheo ni Hàn Quốc đầu tiên thọ giới ở Nhật Bản do Hòa thượng Hye Pyeon (kinh đô Gogureyo) truyền giới và sau đó họ trở về lại Baekje để học luật 3 năm. Năm 655 vào triều vua Uija, có Tỳ kheo ni lương y Beop Myeong sang Nhật Bản trị bịnh bằng phương pháp trì kinh Duy Ma. Tất cả những tường thuật này đã minh chứng vai trò tích cực của các Tỳ kheo ni trong sứ mệnh hoằng pháp độ sanh.

Sử Nihonshoki còn nói rằng vào năm 687 có một đoàn gồm 22 Tỳ kheo, Tỳ kheo ni và Phật tử của kinh đô Silla đến trú tại Musasinokuni (nay là Tokyo). Lần đầu tiên vào năm 757 ở quận Silla thuộc Musasino, các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni đã tích cực phổ biến Phật pháp (theo sử Phật giáo Nhật Bản Genkoushakusho). Đặc biệt trong tuyển tập thơ Manyosu Nhật Bản có đề cập đến danh ni Hyeon Won.

Tóm lại, lịch sử Hàn Quốc ghi nhận Ni giới đạt vị trí cao nhất trong thời đại Tam kinh. Trong thời này không chỉ thứ dân mà đến cả hoàng hậu, quý tộc cũng xuất gia thọ giới và đóng góp trong sự nghiệp hoằng pháp.

NI GIỚI TRONG TRIỀU ĐẠI GORYEO

Kế thừa thời Tam kinh, triều đại Goryeo cũng có nhiều hoàng gia quy y Tam bảo và thọ giới như hoàng hậu Yeon xuất gia sau khi vua Gong Min băng hà. Các Tỳ kheo ni: Seong Hyo (còn gọi là Jin Hye) (1255-1324), Jong Min, Cheong Won, Yo Yeon và Hui Won đã nhập hạ 3 tháng tại chùa Su Seon và được Quốc sư Hye Sim cấp chứng điệp an cư kiết hạ. Các chứng điệp này thể hiện phong cách nghệ thuật viết chữ đẹp Eom Gok, Mu Hak. Vào năm thứ bảy của vua Woo trị vì (tháng 5, năm 1381) trong Ni giới xuất hiện một Tỳ kheo ni đức hạnh và có tài năng đặc biệt, vị Ni này đã cảm hóa rất nhiều người theo đạo Phật. Tỳ kheo ni Manbuhoi đã cùng với chư Tăng hoằng pháp và khuyên Phật tử niệm Phật tụng kinh sẽ giúp cho Phật tử khi chết không cảm thấy đau đớn hay sợ sệt. Ni chúng và Phật tử mỗi buổi sáng tối thường tụng kinh Kim Cang, Hoa Nghiêm, Di Đà, kinh Ngàn mắt Ngàn tay… Những kinh này nhấn mạnh lòng từ bi và bao dung đối với người khác và những giáo lý căn bản để người tu tập có thể sống một đời sống an lạc.

Trong thời hậu Goryeo, pháp hiệu của các Tỳ kheo ni như Ji Gong, Na Ong và Bo U cũng được viết trong văn bia của các bậc thầy tổ. Cùng với danh tánh các vị Tỳ kheo, rất nhiều tên các Tỳ kheo ni cũng được khắc trong văn mộ chí. 

Cuối thời Goryeo, Tỳ kheo ni Myo Deok đã phát tâm ấn tống sách "The Analects of Baekunhwasang" khắc trên gỗ do nghệ nhân Kyunghan (bút hiệu Baekun) thực hiện. Điều này cũng đánh dấu thời điểm phát triển nghệ thuật in ấn.

Đối với Ni giới, Phật giáo là đời sống hàng ngày hơn là một tôn giáo cao thượng. Suốt trong triều đại Goryeo, Ni giới đã không gia nhập vào chính trị, thay vào đó, họ thường tu hạnh bố thí, cúng dường hoặc xuất gia. Những người nghèo thường hay cho con vào chùa hay những người giàu cúng những người nô lệ vào chùa làm công quả. Đây là một cách cúng dường sức lao động. Nữ giới thường đưa con cái đến chùa quy y Tam bảo. Có những bà mẹ trở thành Tỳ kheo ni, sau khi đã cho con mình xuất gia hoặc chồng chết. Và cũng có nhiều mệnh phụ quý tộc xuất gia ở chùa Ni Jongop-won xây tại thủ đô vào năm thứ 38 vua Gojong trị vì.

Lịch sử cũng ghi nhận rằng vào năm thứ 14 vua Chungrgul trị vì, công chúa của triều đại Yuan làm hoàng hậu của vua Chungryul, thường mời chư Ni vào cung để tham vấn giáo lý.

NI GIỚI TRONG TRIỀU ĐẠI JOSEON

Khác với những thời đại trước, triều đại Joseon lấy Khổng giáo làm hệ tư tưởng chỉ đạo cai trị thần dân, Phật giáo mất dần ảnh hưởng về mặt xã hội, chính trị và thậm chí bị kỳ thị đàn áp. Vào năm thứ 11 trị vì của vua Sejong, nữ giới cấm không được tới chùa và quý thầy không được tới nhà các quả phụ. Mặc dù thế, nữ giới vẫn thích Phật giáo, tìm sự an lạc trong kinh điển và tìm cầu phước báo trong hoạt động Phật sự khiến cho vua Taejong đã phải than thở: "Ta đã cấm các nữ quý tộc không được hành lễ Phật giáo nhưng họ vẫn tiếp tục tụng kinh, trì giới … cầu nguyện cho gia đình được sống lâu và bình an, không có gì có thể dừng họ lại được…".

Đây là một bằng chứng cho thấy Phật giáo vẫn là một tôn giáo thịnh hành trong nữ giới thời Joseon. Nữ giới Hàn Quốc đã theo bước chân của các nữ quý tộc để ủng hộ Phật pháp, đến chùa lạy Phật, dù không đủ phương tiện như các mệnh phụ quý tộc nhưng họ có thể cúng dường tịnh tài và thực phẩm trong khả năng cho phép. Do áp lực triều chính chống lại Phật giáo thời bấy giờ, giới hạn việc cúng dường và cấm chư Tăng không được lai vãng vào các thành phố.

Sử kể rằng suốt thời gian hoàng hậu Mun Jeong (1545-1553) nhiếp chính, đã có 5.000 Tỳ kheo ni và đặc biệt vài danh ni đã tu học ở những Ni viện Jasu Won và Insu Won. Nhưng do chánh sách đàn áp, hai Ni viện Jasu Won và Insu Won cuối cùng cũng bị phá hủy và các Tỳ kheo Ni bị trục xuất khỏi thủ đô. Tuy vậy, các Tỳ kheo ni cũng nỗ lực duy trì đạo Phật như Sư cô Gim Suyeong sống ở chùa Naewon, đã cúng dường tiền để xây chùa. Sư cô Hong Sanggeun cúng nhiều gạo cho chùa Yu Joen tổ chức lễ. Một số thành viên trong hoàng gia yêu cầu triều đình trả lại quyền lợi cho chùa và các Tỳ kheo ni đóng vai trò như người trung gian giữa chùa và hoàng gia, khuyến khích họ tu tập và ủng hộ Phật pháp. Các Tỳ kheo ni như chất xúc tác cho sự sống còn và phát triển Phật giáo giữa chính sách thiên về Khổng giáo và đàn áp Phật giáo của triều đại Joseon.

NI GIỚI TRONG THỜI HIỆN ĐẠI

Ni giới là nguồn sống và sức mạnh trong lịch sử Phật giáo Hàn Quốc và sức mạnh này liên quan mật thiết với Phật giáo Hàn Quốc. Ni giới chiếm đa số từ 70% đến 80% tổng số giới xuất gia toàn quốc. Hiện nay, hơn một nửa Tỳ kheo ni thuộc Giáo hội Tăng già Jogye lãnh đạo Phật giáo ở Hàn Quốc và 16.000 vị thọ Cụ túc trong Giáo hội Tăng già Jogye thì một nửa số này là Tỳ kheo ni. Đặc biệt trong mùa Hạ năm 2003, có 940 Tỳ kheo ni trong số 2.159 vị từ 91 chùa của toàn bán đảo Hàn Quốc đến nhập hạ.

Ni giới ngày nay đóng vai trò quan trọng trong xã hội và Tăng già. Những hoạt động của Ni giới được mở rộng trong việc thuyết giảng Phật pháp. Họ học cả giáo dục trong đạo và ngoài đời và nhiều vị với văn bằng tiến sĩ, thạc sĩ đã có thể dạy các Tỳ kheo ni trong các trường cao đẳng Phật giáo. Hiện nay có 80 Tỳ kheo và Tỳ kheo ni đang là pháp sư và có khoảng 60 Tỳ kheo và Tỳ kheo ni đang là giảng sư các ở trường Phật giáo và Đại học Dongkuk. Sự thay đổi đáng khích lệ này là kết quả của những nỗ lực và sự tự tu tập của họ. Hơn 100 Tỳ kheo ni đã tốt nghiệp khóa hoằng pháp ở chùa Namjang, tại Sangju. Đây là một sinh khí mới cho Giáo hội Ni tại Hàn Quốc. Thật là vinh hạnh và vĩ đại cho Giáo hội Ni là vừa qua được giới thiệu 3 Ni trưởng đạo cao đức trọng là quý sư bà: Geumryong, Hyeoak và Sueak vào sử Phật giáo hiện đại của Hàn Quốc.

Hơn 30 trung tâm thiền trên toàn bán đảo Hàn Quốc của Tỳ kheo ni được trùng tu như trung tâm thiền của tu viện Gyunsung, Naewon, Daesung, Daesung, Daewon, Boduck… Những giảng đường thuyết pháp, trường sơ cấp, cao cấp và đại học Phật giáo được thành lập với số lượng đông đảo chư Ni tham học. Ni giới trở thành Bồ tát (Bosal) của lòng từ, mang những lời dạy giải thoát của Đức Phật hòa nhập vào thực tế cuộc đời trong nhiều lãnh vực như văn hóa, từ thiện xã hội, giáo dục… Sự thành lập Học viện Phát triển Nữ giới (Buddhist Women'Sakyadhita Development Institute) là biểu tượng kiên cố của nữ giới Hàn Quốc và phản ảnh sự nỗ lực của họ cống hiến cho Phật giáo và xã hội. Hiện nay, một số lớn nữ Phật tử gia nhập vào nhiều hoạt động từ công quả tay chân đến nghiên cứu kinh điển, phiên dịch ấn tống, thiền định, tụng kinh trì chú, hoạt động xã hội và văn hóa Phật giáo. Đây là khuynh hướng rất đáng khích lệ.

Hội Tỳ kheo ni Hàn Quốc Giáo hội Jogye đã thành lập Phật học Ni viện Beob Ryong Sa vào năm 2003 để tạo điều kiện cho Ni giới nghiên cứu Phật pháp, đem Phật pháp đi vào cuộc đời và xây dựng một xã hội từ bi.

Tóm lại, 1.700 năm lịch sử Phật giáo Hàn Quốc đã cho thấy Phật giáo Hàn Quốc đã có đóng góp lớn lao để xây dựng nền văn hóa giàu có và phong phú cho bán đảo Hàn Quốc với tinh thần và truyền thống lâu dài 'cứu nước và phục vụ chúng sanh'. Phật giáo Hàn Quốc hồi phục sau 500 năm bị đàn áp dưới triều Joseon. Tại đây, Ni giới là những nhân tố tích cực đóng góp đằng sau những thành đạt lịch sử ấy. Ni giới đóng vai trò quan trọng cùng với chư Tăng xây dựng một xã hội tốt đẹp, trong đó Ni giới đã có điều kiện trình bày khả năng của họ như là những người nỗ lực tu tập, những sứ giả thừa kế Chánh pháp và là những biểu tượng sống động của lòng từ bi. Bằng cách này, họ đã xây dựng một chỗ đứng của họ trong lòng xã hội Hàn Quốc.

SÁCH THAM KHẢO

1. Discipline and Practice of Buddhist Women: Past and Present, Kwangwu Sunim, 8th Sakyadhita International Conference on Buddhist Women, Korea, 2004, trang 5-9.

2. Activities of Korean Buddhist Nuns: An Historical Review, Gyehwan Sunim; Như trên, trang 29-35.

3. A Panorama of 5000 Years: Korean History, Andrew C. Nahm, Hollym Corporation, USA, 1989.



-- o0o --

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/05/2019(Xem: 15580)
Các nước phương Tây đang sống trong một thời đại bất thường: Trung Quốc trỗi dậy và uy hiếp, kinh tế khủng hoảng, nợ công cao ngất, nạn di dân đe doạ, xã hội bất bình đẳng, dân chúng nổi giận giúp đưa cho ông Trump vào Tòa Bạch Ốc và đẩy Vương Quốc Anh thống nhất ra khỏi Liên Âu. Đâu là nguyên nhân cho nền kinh tế thị trường không còn vận hành hoàn hảo và giải pháp cho hệ thống dân chủ tự do đang lâm nguy? Phần một lý giải cho vấn đề này theo quan điểm của Francis Fukuyama trong tác phẩm Identity: khủng hoảng về bản sắc của các nhóm sắc tộc là nguyên nhân, đấu tranh để công nhận nhân phẩm là
04/01/2019(Xem: 112789)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
03/06/2018(Xem: 25647)
CHÁNH PHÁP Số 79, tháng 06.2018 NỘI DUNG SỐ NÀY:  THƯ TÒA SOẠN, trang 2  TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3  THÁNG SÁU EM VỀ HẠ CHỨA CHAN (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 7  CÚNG DƯỜNG CHÁNH PHÁP (Sa môn Thích Tín Nghĩa), trang 8
03/03/2018(Xem: 28244)
CHÁNH PHÁP Số 76, tháng 03.2018 Hình bìa của Google Images NỘI DUNG SỐ NÀY: ¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ VU VƠ, CAFÉ PALOMA (thơ Nguyễn Bá Trạc), trang 8 ¨ NỘI DUNG KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ ĐIỂM HẸN, MƯỢN TỪ ĐÂU (thơ NT Khánh Minh), trang 12 ¨ CŨNG LẠI LÀ TIM SEN (ĐNT Tín Nghĩa), trang 13 ¨ XUÂN ĐẠO, HƯƠNG XUÂN (thơ Chúc Hiền), trang 15 ¨ THƯ MỜI THAM DỰ LỄ HÚY NHẬT ĐLHT. THÍCH TRÍ CHƠN (TT. Thích Hải Chánh), trang 16 ¨ TÂM THƯ VẬN ĐỘNG MUA CƠ SỞ MỚI LÀM CHÙA BÁT NHà (HT. Thích Nguyên Trí) 17 ¨ ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA NÓI VỀ PHẬT GIÁO ỨNG DỤNG (Tuệ Uyển dịch), trang 18 ¨ MÙA XUÂN & CỎ HOA (thơ Mặc Phương Tử), trang 21 ¨ Ở ĐỜI VUI ĐẠO (Nguyễn Thế Đăng), trang 22 ¨ ĐÊM NGHE CHUÔNG VỌNG (thơ Huệ Trân), trang 23 ¨ MÙA XUÂN, THI CA VÀ THIỀN ĐẠO (Sakya Minh Quang), trang 24 ¨ TA ÚP MẶT (thơ Quách Thoại), trang 27 ¨ FRANCIS STORY (1910 – 1971) (H
15/12/2017(Xem: 89091)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 139348)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
22/12/2016(Xem: 29449)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
24/04/2016(Xem: 35984)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
03/03/2016(Xem: 4877)
Dưới đây là phần chuyển ngữ một bài viết ngắn phân tích hiện trạng của người nữ tu sĩ Phật giáo trên toàn thế giới. Trong suốt lịch sử nhân loại, vị trí của người phụ nữ luôn bị xếp vào hàng thứ yếu trong xã hội, và người nữ tu sĩ thì "thấp kém" hơn các nam tu sĩ trong lãnh vực tín ngưỡng. Phật giáo cũng không hoàn toàn tránh khỏi ảnh hưởng của tình trạng đó, dù rằng điều này đi ngược lại Giáo Huấn của Đức Phật. Bài này được viết cách nay đã 10 năm, trong khoảng thời gian này nhiều cải thiện đã được thực hiện, thế nhưng dường như vấn đề này vẫn còn là một đề tài nóng bỏng.
15/01/2016(Xem: 10088)
Dưới đây là phần chuyển ngữ của một bài viết trong quyển "Người phụ nữ" ("Les Femmes", nhiều tác giả, nhà xuất bản de l'Atelier, 2002), thuộc một bộ sách với chuyên đề "Các tôn giáo nghĩ gì?" (Ce qu'en pensent les religions). Tác giả bài viết này là Dominique Trotignon, nguyên tổng giám đốc Viện Nghiên Cứu Phật Học (IEB/Institut d' Etude Bouddhique) của Pháp, tu tập theo Phật giáo Theravada.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]